Trang

14 tháng 6, 2014

TQ tính toán, tìm thời cơ dùng vũ lực với VN

Trung Quốc đang tính toán tạo lý do để sử dụng vũ lực, gây xung đột vũ trang khi thời cơ đến, theo chiêu thức cổ truyền: “phản ứng tự vệ”, “dạy cho Việt Nam bài học”.
trancongtruc-7662-1402769088.jpg
Tiến sĩ Trần Công Trục. Ảnh: N.Hưng.
Giàn khoan Hải Dương 981 hạ đặt ở đâu?
Ngày 1/5/2014, cơ quan chức năng Việt Nam phát hiện giàn khoan dầu khí Hải Dương 981 và ba tàu dich vụ dầu khí của Trung Quốc di chuyển từ tây bắc đảo Tri Tôn (thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) xuống phía nam.
Đến 16h ngày 2/5, giàn khoan này neo đậu tại phía nam đảo Tri Tôn cùng khoảng 27 tàu bảo vệ. Trong các ngày tiếp theo, Trung Quốc tiếp tục huy động thêm tàu bảo vệ đến khu vực này.
Ngày 3/5/2014, trang mạng của Cục Hải sự Trung Quốc đăng thông tin thông báo từ ngày 2/5 đến 15/8, giàn khoan Hải Dương 981 sẽ tiến hành khoan thăm dò trong vùng biển có bán kính một hải lý tính từ khu vực trung tâm có tọa độ 15độ 29’58” vĩ Bắc - 111độ 12’06” kinh Đông, cấm mọi phương tiện đi vào khu vực này.
Tiếp đó, ngày 5/5, Cục Hải sự Trung Quốc tiếp tục đăng thông tin trong đó thông báo mở rộng phạm vi khoan thăm dò lên ba hải lý tính từ khu vực trung tâm có tọa độ 15độ 29’58” vĩ Bắc - 111độ 12’06” kinh Đông, cấm mọi phương tiện đi vào khu vực này, đồng thời hủy bỏ cảnh báo đưa ra ngày 3/5. Vị trí tọa độ hoạt động của giàn khoan nêu trong thông báo hàng hải của Cục Hải sự Trung Quốc nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, cách đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) của Việt Nam khoảng 120 hải lý.
Theo Cục Kiểm ngư, đến 10h ngày 27/5, Trung Quốc đã neo giàn khoan tại vị trí có tọa độ 15độ 33’38'' độ vĩ Bắc- 111độ 34’62'' độ kinh Đông, cách đảo Tri Tôn về hướng đông - đông nam 25 hải lý, cách vị trí cũ 23 hải lý theo hướng đông đông bắc, cách đảo Lý Sơn khoảng 150 hải lý.
Cùng ngày, theo TTXVN tàu chiến Trung Quốc đã tăng cường hoạt động, áp sát các tàu kiểm ngư hơn mọi ngày và thường xuyên có hành động mở bạt che súng, chĩa súng vào các tàu kiểm ngư khi tới gần.
Ngày 27/5, Cục Hải sự Trung Quốc cũng ra thông báo về việc di chuyển giàn khoan Hải Dương-981 đến vị trí mới. Trong ngày, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình khẳng định: Vị trí mới mà giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc di chuyển tới theo thông báo hàng hải của Cục Hải sự Trung Quốc nằm hoàn toàn trên thềm lục địa của Việt Nam. Hoạt động của giàn khoan ở vị trí này vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam".
Ngày 1/6, giàn khoan có sự dịch chuyển nhẹ và ổn định tại tọa độ 15độ 33’21’’N - 111độ 34’35’’E, cách vị trí ngày 27/5 khoảng 140 m về phía tây tây bắc. 
Đến nay vị trí giàn khoan cơ Hải Dương-981 vẫn nằm sâu trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Hiện trong dư luận vẫn tồn tại những nhận thức, nhận định, đánh giá khác nhau về vị trí giàn khoan Hải Dương 981. Dư luận đang cần có câu trả lời chính xác, thật sự khách quan, trung thực và có sức thuyết phục về giàn khoan Hải Dương 981, cùng với một lực lượng lớn tàu thuyền, máy bay, trong đó có cả tàu quân sự, đang ngày đêm ngang nhiên quần đảo ở trong vùng biển nào?
Vị trí giàn khoan Hải Dương-981 có nằm trong “vùng biển Tây Sa” không?
Để biện minh và hợp thức hóa hành động sai trái của mình, Trung Quốc ngụy biện rằng vị trí đặt giản khoan cách đảo “Trung Kiến” (đảo Tri Tôn) 18 hải lý là hoàn toàn nằm trong lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải của quần đảo “Tây Sa”, bởi vì Trung Quốc hoàn toàn có chủ quyền với quần đảo "Tây Sa".
Về lập luận ngụy biện này, có hai nội dung mà cách tiếp cận của chúng ta cần phân biệt rạch ròi: nội dung chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và hiệu lực của quần đảo này trong việc xác định phạm vi vùng biển và thềm lục địa của nó. Từ đó mới có sự phân tích, đánh giá một cách khách quan, chính xác về vị trí của giàn khoan Hải Dương 981 đang hoạt động là ở trong phạm vi vùng biển nào theo đúng quy định của UNCLOS.
1. Ai là chủ nhân của quần đảo Hoàng Sa?
Trung Quốc không thể xác lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bằng vũ lực. Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc dùng vũ lực để xâm chiếm hoàn toàn từ năm 1974 và luôn luôn khẳng định họ có “chủ quyền lịch sử” đối với quần đảo này, không cần phải bàn cãi. 
Việt Nam cũng đã bày tỏ quan điểm rõ ràng: Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khi chúng còn là đất vô chủ, ít nhất là từ thế kỷ XVII. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thật sự, liên tục, hòa bình và rõ ràng. Việt Nam hoàn toàn có cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý để khẳng định và bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình, đáp ứng đủ những điều kiện mà nguyên tắc chiếm hữu thật sự đòi hỏi.
Nhưng Trung Quốc đã chiếm đóng bất hợp pháp quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam sau ba lần thừa cơ thôn tính Hoàng Sa bằng vũ lực.
Lần thứ nhất, Trung Quốc đã nhảy vào chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam ngay từ đầu năm 1909, mở đầu là sự kiện Đô đốc Lý Chuẩn chỉ huy ba pháo thuyền ra khu vực quần đảo Hoàng Sa, đổ bộ chớp nhoáng lên đảo Phú Lâm. Sau đó nước này phải rút lui vì sự hiện diện của quân đội viễn chinh Pháp với tư cách là lực lượng được Chính quyền Pháp, đại diện cho Nhà nước Việt Nam về đối ngoại, giao nhiệm vụ bảo vệ, quản lý, thực thi chủ quyền tại quần đảo này.
Lần thứ hai, lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua trận trong Thế chiến 2 và Việt Nam vừa giành được độc lập và đang phải đối mặt với bộn bề khó khăn, năm 1946 chính quyền Trung Hoa Dân quốc (Tưởng Giới Thạch) đưa lực lượng ra chiếm đóng trái phép nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa.
Lần thứ ba, khi Trung Hoa Dân quốc bị đuổi khỏi Hoa lục chạy ra Đài Loan, họ phải rút luôn số quân đang chiếm đóng bất hợp pháp ở phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Tham vọng bành trướng lãnh thổ của người Trung Quốc trên Biển Đông vẫn không dừng lại mà chỉ chực có cơ hội là thừa thế đánh chiếm. Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dương theo quy định của Hiệp định Geneva và trong khi chính quyền miền Nam Việt Nam chưa kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa theo như thỏa thuận của Hiệp định này, Trung Quốc đã thừa cơ đưa quân ra chiếm đóng bất hợp pháp nhóm đảo An Vĩnh, phía đông quần đảo Hoàng Sa.
Đó là trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974, một dấu ấn bi hùng không bao giờ phai trong lịch sử đấu tranh gìn giữ và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của dân tộc Việt Nam.
Hành động của Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam là hoàn toàn sai trái:
Một là, hành động đánh chiếm các đảo trong quần đảo ở Biển Đông bằng vũ lực là sự vi phạm nghiêm trọng điều 2, khoản 4 của Hiến chương Liên hợp quốc, trong đó cấm các quốc gia sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là cấm sử dụng vũ lực để xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác. Nội dung điều khoản này trong Hiến chương Liên hợp quốc là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đòi hỏi tất cả các nước thành viên của tổ chức Liên hợp quốc, trong đó có Trung Quốc, phải tuân thủ.
Nguyên tắc này được phát triển và cụ thể hoá trong Nghị quyết 2625 ngày 24/10/ 1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc trong đó quy định: “Các quốc gia có nghĩa vụ không đe dọa hay sử dụng vũ lực để vi phạm các biên giới quốc tế hiện có của một quốc gia khác, hay (coi đe dọa hay sử dụng vũ lực) như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế, kể cả những tranh chấp về đất đai và những vấn đề liên quan đến biên giới của các quốc gia”.
Hai là, hành động Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa năm 1956 và chiếm nốt phần phía Tây của quần đảo này năm 1974 thực chất là một hành động xâm lược lãnh thổ của Việt Nam.
Ba là, theo luật pháp quốc tế việc Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm các đảo ở quần đảo Hoàng Sa không tạo ra được chứng cứ pháp lý để khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo, đá mà họ đã dùng vũ lực để chiếm đoạt. Nghị quyết 2625 ngày 24/10/1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc được trích dẫn ở trên đã nêu rõ: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với các quy định của Hiến chương Liên hợp quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”.
Hành động xâm lược nói trên không bổ sung vào bộ hồ sơ pháp lý về chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Những hành động như vậy đã bị cộng đồng quốc tế lên án mạnh mẽ và chắc chắn sẽ bị các toà án quốc tế bác bỏ một khi chúng được đưa ra tòa án quốc tế nhằm minh chứng cho chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.
2. Trung quốc cố tình áp dụng sai Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982:
Giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc đang hoạt động nằm ở vùng biển nào: lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải hay vùng đặc quyền kinh tế của quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc gọi là “Tây Sa” hay nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ?
Dễ dàng nhận ra, vị trí này không phải nằm trong lãnh hải của quần đảo Hoàng Sa, thậm chí là của đảo Tri Tôn, vì lúc đầu, nó ở cách Tri Tôn 18 hải lý và từ ngày 27/5, nó ở cách đảo Tri Tôn 25 hải lý. Vậy thì chỉ có thể là nó đã nằm trong vùng đặc quyền về kinh tế của quần đảo này (vì vùng tiếp giáp lãnh hải xét về phạm vi không gian, vẫn là một bộ phận của vùng đặc quyền kinh tế). Vấn đề là quần đảo này có hội đủ các tiêu chuẩn theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 để có thể cho phép quốc gia có chủ quyền mở rộng phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quần đảo này hay không?
Như mọi người đều biết, quần đảo này bao gồm các đảo, đá, bãi cạn, rạn san hô rất nhỏ bé, nằm trong khu vực có khí hậu khắc nghiệt, không thích hợp cho đời sống của con người và đương nhiên không thể có đời sống kinh tế riêng, mặc dù sau khi xâm chiếm bằng vũ lực, Trung Quốc đang cố tìm cách tạo ra diện mạo đó. Hơn nữa, quần đảo này không phải là quốc gia quần đảo. Vì thế, việc vạch ra hệ thông đường cơ sở để từ đó xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của quần đảo này là hoàn toàn khác với quốc gia quần đảo. Vì những lý do đó, có thể khẳng định rằng quần đảo này không thể có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục đia theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982; có chăng thì từng đảo nổi theo đúng quy định của Điều 121 của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 chỉ có thể có vùng lãnh hải rộng 12 hải lý mà thôi.
Việc Trung Quốc đã vạch một đường cơ sở bao trọn quần đảo mà họ gọi là “Tây Sa” để từ đó tạo ra vùng chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là sai với quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. Do đó có thể khẳng định rằng vị trí của giàn khoan này hoàn toàn nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, không có liên quan gì đến quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép và đang cố tình giải thích và áp dụng sai Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 để biện minh cho yêu sách vô lý, đầy tham vọng của mình.
Để minh chứng cho nhận xét này, xin hãy tham khảo các quy định có liên quan của Luật Biển quốc tế và Luật Biển Việt Nam:
Điều 121, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 định nghĩa: “một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước”. Nội dung quan trọng hơn đó là chế độ pháp lý của các đảo: các đảo có lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Tuy nhiên, các đảo “không thích hợp cho con người ở và không có đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”.
Điều 19, Luật Biển Việt Nam đã quy định về đảo, quần đảo như sau:
- Đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước. Quần đảo là tập hợp các đảo, bao gồm cả bộ phận của các đảo, vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan chặt chẽ với nhau.
- Đảo, quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.
Điều 20, Luật Biển Việt Nam quy định:
- Đảo thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
- Đảo, đá không thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Điều 13, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 đã quy định rõ: “các bãi cạn nửa nổi nửa chìm là các vùng đất nhô cao tự nhiên có biển bao quanh, khi thủy triều xuống thấp thì lộ ra, khi thủy triều lên cao thì bị ngập nước”. Chế độ pháp lý của các bãi cạn, đá: khi toàn bộ hoặc một phần bãi cạn nửa nổi, nửa chìm ở cách lục địa hoặc một đảo một khoảng cách không vượt quá chiều rộng lãnh hải thì ngấn nước triều thấp nhất ở trên các bãi cạn này có thể dùng làm đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải; khi chúng hoàn toàn ở cách lục địa hoặc ở cách một đảo một khoảng cách vượt quá chiều rộng của lãnh hải thì chúng không có lãnh hải riêng và các đường cơ sở thẳng chỉ được kéo đến hay xuất phát từ các bãi này khi trên đó có các công trình thiết bị nhân tạo thường xuyên nhô trên mặt nước.
tau4-5758-1402769088.jpg
Tại thực địa, các tàu Trung Quốc thường xuyên vây ép ngăn chặn tàu Việt Nam. Ảnh:Canhsatbien.
Quốc gia quần đảo? Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 dành một phần (Phần IV), gồm các điều 46, 47, 48, 49, 50, 51, 52, 53, 54 để quy định về phạm vi và chế độ pháp lý của quốc gia quần đảo và quần đảo. Theo đó, quốc gia quần đảo là quốc gia hoàn toàn được cấu thành bởi một hay nhiều quần đảo và có thể bao gồm một số đảo khác nữa. Còn quần đảo là một nhóm các đảo, kể cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước nối giữa và các thành phần tự nhiên khác có liên quan với nhau chặt chẽ đến mức tạo thành một thể thống nhất về địa lý, kinh tế và chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử.
Nội dung quan trọng nhất là tại Điều 47, Công ước quy định về đường cơ sở quần đảo: quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở thẳng của quần đảo nối các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá nổi xa nhất của quần đảo, với điều kiện là tuyến các đường cơ sở này bao lấy các đảo chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích nước so với đất, kể cả vành đai san hô, phải ở giữa tỷ số 1/1 và 9/1. Chiều dài của các đường cơ sở này không vượt quá 100 hải lý; hoặc có thể có chiều dài tối đa là 125 hải lý, nếu có 3% tổng số đường cơ sở bao quanh một quần đảo có chiều dài lớn hơn 100 hải lý; tuyến các đường cơ sở này không được tách xa rõ rệt đường bao quanh quần đảo. Các đường cơ sở này cũng không được kéo đến hay xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi, lúc chìm, trừ trường hợp trên đó có xây các đèn biển hay các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc trừ trường hợp toàn bộ hay một phần bãi cạn ở cách hòn đảo gần nhất một khoảng cách không vượt quá chiều rộng lãnh hải…
Với những nội dung này thì rõ ràng Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 chỉ quy định cách vạch đường cơ sở thẳng cho quốc gia quần đảo, chứ không quy định cách vạch đường cơ sở cho các quần đảo không phải là quốc gia quần đảo. Điều đó được hiểu là cách vạch đường cơ sở tại các quần đảo thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển ở cách quốc gia đó một khoảng cách vượt quá chiều rộng lãnh hải thì sẽ phải tuân thủ các quy định tại phần VIII, Điều 121: Chế độ các đảo.
Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam cũng phải tuân thủ quy định này của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 để vạch đường cơ sở và xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của chúng.
Ngoài ra, Luật Biển còn có những quy định về các đảo, công trình, thiết bị nhân tạo được xây dựng trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa:
Điều 60, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 quy định: Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có đặc quyền tiến hành xây dựng, khai thác và sử dụng: các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình dùng vào mục đích được trù định ở Điều 56 hoặc các mục đích kinh tế khác… Quốc gia ven biển có quyền tài phán đặc biệt đối với các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình đó, kể cả quyền tài phán về luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế, an ninh và nhập cư.
Việc xây dựng các đảo nhân tạo và các công trình đó phải được thông báo theo đúng thủ tục, phải có các phương tiện thường trực để báo hiệu sự tồn tại của chúng. Nếu các thiết bị đó đã bỏ hoặc không dùng nữa thì phải tháo dỡ để đảm bảo an toàn hàng hải…
Quốc gia ven biển có thể lập ra xung quanh các công trình đó những khu vực an toàn có phạm vi không vượt quá 500 m xung quanh chúng tính từ mỗi điểm của mép ngoài cùng của các công trình và đều phải được thông báo theo đúng thủ tục. Tất cả các tàu thuyền phải tôn trọng các khu vực an toàn đó và tuân theo các quy phạm quốc tế liên quan đến hàng hải trong khu vực gần các công trình và các khu vực an toàn đó.
Tuy nhiên không được xây dựng các công trình nhân tạo và lập các khu vực an toàn xung quanh chúng ở nơi có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng các đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế.
Các công trình nhân tạo này không được hưởng quy chế các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự hiện diện của chúng không có tác động gì đối với việc hoạch định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Việc xây dựng và bảo vệ các công trình nhân tạo trên thềm lục địa cũng phải tuân thủ các quy định nói trên, với những sửa đổi cần thiết về chi tiết (mutatis mutandis).
Điều 34, Luật Biển Việt Nam đã quy định về đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển bao gồm:
- Các giàn khoan trên biển cùng toàn bộ các bộ phận phụ thuộc khác đảm bảo hoạt động bình thường và liên tục của các giàn khoan hoặc các thiết bị chuyên dùng để thăm dò, khai thác và sử dụng biển.
- Các loại báo hiệu hàng hải.
- Các thiết bị công trình khác được lắp đặt và sử dụng ở biển.
Nhà nước Việt Nam có quyền tài phán đối với các đảo nhân tạo và thiết bị, công trình trên biển trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, bao gồm cả quyền tài phán theo các quy định của pháp luật về hải quan, thuế, y tế, an ninh và xuất nhập cảnh. Tại các điểm 3,4,5,6, Điều 34, Luật Biển Việt Nam đã thể hiện đầy đủ các nội dung phù hợp với các quy định nói trên của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982.
Có thể khẳng định rằng những lập luận để bảo vệ cho cái gọi là “hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 là hoạt động bình thường trong vùng biển thuộc quần đảo Tây Sa của Trung Quốc…” là thiếu căn cứ và hoàn toàn phi lý; bởi vì quần đảo Hoàng Sa là quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam mà Trung Quốc đã dùng vũ lực để xâm chiếm trái phép. Hơn nữa, vị trí của giàn khoan này hoàn toàn nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, không có liên quan gì đến vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đang cố tình giải thích và áp dụng sai Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 để biện minh cho yêu sách vô lý, đầy tham vọng của mình.
3. Hoạt động của giàn khoan là bình thường hay bất bình thường?
Nội dung phân tích nói trên đã cho thấy rõ sự bất bình thường của cái gọi là “hoạt động bình thường trong vùng biển thuộc Tây Sa” xét về khía cạnh pháp lý. Thực chất đây là kết quả logic của việc Trung Quốc cố tình giải thích và áp dụng sai Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982.
Tiến sĩ Trần Công Trục (Vnexpress)

Thay đổi tư duy, lật ngược thế cờ


Ảnh TL
Ảnh TL
Hơn bao giờ hết, Việt Nam cần đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, điều chỉnh chính sách, giảm sự phụ thuộc của các doanh nghiệp Việt Nam vào các nguồn cung ứng nguyên, vật liệu từ Trung Quốc.
Việt Nam cần xúc tiến đàm phán để đi đến ký kết các hiệp định với các đối tác khác như hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - liên minh châu Âu (EU), hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) để mở ra những thị trường mới, đối tác mới.
Điều rất quan trọng là Việt Nam phải đổi mới tư duy, thực hiện đồng bộ cải cách chính trị với cải cách kinh tế, cải cách thể chế, thực hiện cạnh tranh bình đẳng, công khai minh bạch, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, lợi ích nhóm và đặc quyền đặc lợi. Đây cũng là cơ hội để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, không phân biệt quá khứ, tôn giáo, ý kiến khác nhau trên cơ sở thống nhất vì lợi ích đất nước, vì sự phát triển phồn vinh của dân tộc, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
 Đây cũng là cơ hội để sử dụng người tài, khắc phục các biểu hiện lệch lạc trong chính sách cán bộ, ưu tiên “con ông, cháu cha”, “quan hệ”, đưa những người kém năng lực, phẩm chất vào bộ máy. Đây cũng là thời điểm sàng lọc cán bộ, áp dụng cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm để tiến tới có bộ máy có hiệu quả, tinh gọn, đáp ứng yêu cầu của người dân và các cam kết hội nhập quốc tế.
Giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải cải cách thể chế, bao gồm cả thể chế nhà nước và thể chế kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ, công khai minh bạch, làm rõ trách nhiệm giải trình của quan chức đối với chi tiêu ngân sách nhà nước, đầu tư công, trách nhiệm đối với dân và doanh nghiệp, giảm bớt chi phí về thời gian và tiền bạc đối với người dân và doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, từng doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ.
Nhà nước cần thực hiện các chương trình hình thành các ngành công nghiệp và dịch vụ trợ giúp cho dệt-may, da giày, xe máy, xe đạp, chế biến nông, lâm thuỷ sản, bao bì v.v.. Đó là những ngành có thị trường đủ lớn để hình thành công nghiệp và dịch vụ trợ giúp có hiệu quả, không như ngành ôtô có quy mô nhỏ bé trong khi có quá nhiều nhà sản xuất cạnh tranh với nhau.
Để chuẩn bị gia nhập TPP, Việt Nam phải bảo đảm hàm lượng 70% TPP cho các nguyên, vật liệu cho dệt may từ sợi trở lên nên hình thành các ngành sản xuất các phụ kiện cho dệt - may như sợi, nhuộm cúc áo, khóa kéo... là rất cần thiết và đang được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm.
Việc hợp tác nông nghiệp với Nhật Bản cũng đang có cơ hội lớn khi cả hai nước đều là thành viên TPP, Nhật Bản có thể đầu tư vào nông nghiệp, thuỷ sản ở Việt Nam sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao, sơ chế, bao bì bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm để xuất về Nhật Bản với thuế suất bằng 0%.
Để có thể hợp tác với Nhật Bản và các nước khác, nông nghiệp Việt Nam phải tái cơ cấu, chuyển sang sản xuất quy mô công nghiệp, có lao động được đào tạo, có chuyên môn và tay nghề cao, tiếp cận được với nguồn tín dụng, khoa học-công nghệ tiên tiến. Đó là những cơ hội và thách thức to lớn đứng trước nền nông nghiệp nước ta nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Trước tình hình hiện nay, với tấm lòng yêu nước, người tiêu dùng Việt Nam nên hưởng ứng mạnh mẽ phong trào “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, không dùng những hàng nhập lậu, kém chất lượng, thậm chí độc hại từ Trung Quốc.
Báo chí, truyền thông cần tích cực chỉ ra những sản phẩm độc hại, kém chất lượng để người tiêu dùng chủ động tránh. Kinh nghiệm cho thấy bia Trung Quốc, xe máy Trung Quốc kém chất lượng đã không có chỗ đứng trên thị trường Việt Nam. 
Đó là cơ hội để các nhà sản xuất và phân phối Việt Nam vươn lên đưa hàng về đến nông thôn với giá cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước. Các tỉnh biên giới cùng với các cơ quan có trách nhiệm cần đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống buôn lậu, cải thiện đời sống đồng bào dân tộc để đồng bào không cần buôn lậu cũng đủ sống, đồng thời phải truy tìm tận gốc những chủ đầu nậu để triệt tận gốc nạn buôn lậu này. 
Về lâu dài, các sản phẩm Việt Nam phải cạnh tranh được với các sản phâm Trung Quốc về chất lượng, giá cả thì mới hạn chế được buôn lậu và giữ vững thị trường nội địa trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc.
TS. Lê Đăng Doanh (chuyên gia kinh tế cao cấp) - Người Đô Thị 

Mỹ phản đối cuộc tấn công vào Đại sứ quán Nga tại Kiev

Đăng Bởi  - 

Cờ Nga tại đại sứ quán ở Kiev bị người biểu tình kéo xuống hôm 14-6
Cờ Nga tại đại sứ quán ở Kiev bị người biểu tình kéo xuống hôm 14-6
Mỹ đã lên tiếng phản đối vụ tấn công vào đại sứ quán Nga tại thủ đô Kiev của Ukraine vào ngày 14.6, kêu gọi chính phủ Ukraine phải có trách nhiệm đảm bảo an ninh một cách đầy đủ cho các cơ quan ngoại giao.
Mỹ đưa ra phản ứng sau khi đám đông kích động vì vụ quân ly khai thân Nga bắn rơi một máy bay vận tải quân sự của chính phủ Ukraine. Đám đông đã xé cờ Nga tại Đại sứ quán tại Kiev, lật ngang nhiều ô tô trong khi cảnh sát Ukraine thì đứng nhìn.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Jen Psaki cho biết Mỹ lên án cuộc tấn công vào Đại sứ quán Nga tại Kiev và kêu gọi các nhà chức trách Ukraina phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đảm bảo an ninh của nước sở tại theo Công ước Vienna về quan hệ ngoại giao năm 1961.
Trong khi đó, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã gọi điện và chia buồn với Thủ tướng Ukraina Arseniy Yatsenyuk sau vụ quân ly khai bắn hạ máy bay vận tải Il-76 làm 49 binh sĩ Ukraine thiệt mạng gần sân bay thành phố Lugansk vào sáng sớm ngày 14.6.
Ông Kerry cũng gọi cho Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov để bày tỏ "mối quan tâm mạnh mẽ" của Mỹ trước việc Nga điều quân đội và vũ khí hạng nặng đến miền đông Ukraine, cũng như hành động bắn rơi máy bay vận tải quân sự của lực lượng ly khai.
Ngoại trưởng Mỹ yêu cầu phía Nga phải thực hiện những cam kết trước đó là duy trì hòa bình và không leo thang chiến tranh. Nga phải ngưng điều động vũ khí và quân đội hỗ trợ phe ly khai, tích cực đàm phán với Ukraina cho một lệnh ngừng bắn, ân xá, và đối thoại chính trị.
Lâm Nguyên (AFP)

Hành động của Trung Quốc là điên rồ!

(Thế giới) - Chuyên gia phân tích của Nhật Bản chỉ ra những điểm sai trong việc Trung Quốc chặn máy bay Nhật và cho rằng Bắc Kinh đang điên rồ
Ngày 24/5, các máy bay tiêm kích Su-27 Trung Quốc áp sát các máy bay tuần tiễu của Nhật Bản ở cự ly cực kỳ nguy hiểm.
Tiếp đó, ngày 12/6, lại các máy bay tiêm kích loại này lặp lại hành động tương tự.
Ngoài những phản ứng chính thức của chính quyền Tokyo như chúng ta đã biết, giới phân tích Nhật cũng đã có nhiều bài viết vê chủ đề này.
Có một chi tiết khá thú vị: Ngày 06/06, tờ báo Nga “Vzgliad” đã cho đăng lại bài của Kunio Orita, một nhà bình luận người Nhật đăng trên báo “JB Press”, Nhật Bản (và như vậy là Nhật Bản đã thành công trong việc truyền tải thông điệp của mình đến cộng đồng quốc tế ) về vụ việc ngày 24/5 và quan điểm của ông về vấn đề này.
Xin lược dịch lại bài này qua bản tiếng Nga ( người dịch có lược đi một số đoạn vì thông tin đã cũ) để giới thiệu với bạn đọc. Các đầu đề nhỏ là của người dịch.
Ngày 24/5, các máy bay tiêm kích Su-27 của Trung Quốc đã tiếp cận ở cự ly gần các máy bay tuần tiễu của Không quân và Hải quân Nhật Bản. Vụ việc này xảy ra trên không phận Biển Hoa Đông, khu vực chồng lấn 2 vùng nhận diện phòng không (của Nhật Bản và Trung Quốc), ngay cạnh đường biên giới tạm thời Trung Quốc- Nhật Bản.
Chiếc máy bay Su-27 của không quân Trung Quốc áp sát vào máy bay của Nhật Bản
Chiếc máy bay Su-27 của không quân Trung Quốc áp sát vào máy bay của Nhật Bản
Báo cáo của Bộ Quốc phòng Nhật Bản cho biết, các máy bay Trung Quốc bay sát, cách máy bay tuần tiễu OP-3C của Hải quân Nhật Bản và máy bay trinh sát Y-11EB của Không quân Nhật Bản chỉ từ 30 đến 50 m. Tuy nhiên, các máy bay Trung Quốc không xâm phạm không phận Nhật Bản và các máy bay Nhật Bản không bị hư hại. Cả 2 máy bay trên (của Nhật) tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của mình.
Hành động của Không quân Trung Quốc là điên rồ
Trước hết, thế nào là cự ly nguy hiểm? Theo định nghĩa của Cục hàng không dân dụng liên bang Mỹ thì cự ly tiếp cận nguy hiểm giữa các máy bay là < 150 m và chênh lệch độ cao < 60 m. Cự ly 30-50 m là quá nguy hiểm, trong trường hợp này phi công (Nhật Bản) không còn bất cứ cơ hội nào để cơ động. Cách hành xử trên của phi công (Trung Quốc) là cực kỳ điên rồ.
Các máy bay tiêm kích (Trung Quốc) tiếp cận các máy bay Nhật Bản ở góc quan sát chết (các phi công Nhật Bản không thể quan sát) với tốc độ lớn, nhiều lần và từ nhiều hướng khác nhau. Hành động như vậy chắc chắn là nhằm mục đích đe dọa, và việc các máy bay tiêm kích hiện đại nhất tiếp cận ở cự ly làm cho phi công Nhật Bản không còn cơ hội để cơ động tránh là một hành động sẵn sàng công kích. Không thể hiểu theo cách nào khác.
Bộ trưởng quốc phòng Nhật Bản Isunori Onodera đã lên án hành động này của phía Trung Quốc và cho biết: “Những hành động mất lý trí như vậy có thể dẫn đến tai nạn. Chúng tôi đã gửi công hàm phản đối tới phía Trung Quốc qua kênh ngoại giao của Chính phủ".
Thủ tướng Nhật: Hành động của Trung Quốc là vô cùng mạo hiểm
Thủ tướng Nhật: Hành động của Trung Quốc là vô cùng mạo hiểm
Còn Bộ quốc phòng Trung Quốc đáp lại: “Các máy bay của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản đã đi vào khu vực nhận diện phòng không của Trung Quốc, chúng (các máy bay Nhật Bản) theo dõi cuộc tập trận hải quân chung Nga- Trung và đã gây khó khăn cho các hoạt động này”. Không chỉ có thế, Trung Quốc còn tố cáo các hành động trên của phía Nhật Bản là: “đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế”.
Đại sứ Trung quốc tại Nhật Bản được triệu đến để nhận được công hàm phản đối từ Bí thư thứ hai Bộ ngoại giao Nhật Bản Akitaka Saiki, nhưng sau cuộc gặp viên Đại sứ này lại ngang nhiên tuyên bố khi trả lời phỏng vấn: “Chúng tôi không hài lòng trước những hoạt động trinh sát nguy hiểm của Nhật Bản và cũng đã gửi công hàm phản đối".
Ai gây nguy hiểm?
Thông thường, khi tiến hành tập trận hoặc phóng tên lửa thì để đảm bảo an toàn cho các máy bay tại khu vực tập trận, phía tập trận thường tuyên bố về khu vực hạn chế các chuyến bay bằng cách thông báo qua công hàm theo các quy định của Cơ quan hàng không dân dụng quốc tế. Trong trường hợp này - Trung Quốc quả thực đã thông báo về vị trí và thời gian tập trận (chung Nga- Trung) trên biển.
Cũng theo thong lệ quốc tế, sau khi nhận được thông báo, các máy bay (kể cả máy bay quân sự) của các nước sẽ không bay vào khu vực tập trận để tránh nguy hiểm . Trong vụ việc vừa qua , 2 máy bay của Nhật cũng không bay vào khu vực tập trận (không nhất thiết phải vào khu vực này mới thu thập được thông tin cần thiết) và như thế thì làm sao các máy bay Nhật lại có thể “gây khó khăn cho việc tập trận chung Nga- Trung?"
Tại sao Trung Quốc lại coi việc các máy bay YS-11E và P3-C Nhật Bản thu thập thông tin “là hoạt động trinh sát nguy hiểm”? Các máy bay Nhật Bản bay thẳng ở độ cao cố định. Không thể gọi các chuyến bay đó lại “gây nguy hiểm”. Chính các hành động của các máy bay tiêm kích Trung Quốc mới gây nguy hiểm.
Tàu kiểm ngư của Nhật Bản và tàu hải tuần của Trung Quốc đụng độ nhau trên vùng biển quần đảo Senkaku/Điếu Ngư
Tàu kiểm ngư của Nhật Bản và tàu hải tuần của Trung Quốc đụng độ nhau trên vùng biển quần đảo Senkaku/Điếu Ngư
Các máy bay Trung Quốc tiếp cận máy bay Nhật từ góc quan sát chết, bay ngay sườn máy bay Nhật và tăng tốc. Hành động này xảy ra nhiều lần và có thể gọi nó là gì?
Những cáo buộc của Trung Quốc là không có cơ sở
Như trên đã nói, khu vực xảy ra sự cố nằm trong vùng nhận diện phòng không chồng lấn giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Theo thông lệ quốc tế thì đây là khu vực trung lập và máy bay các nước có thể tự do bay qua khu vực này. Việc cáo buộc “Nhật Bản vi phạm nghiêm trọng luật và các điều khoản quốc tế" là hoàn toàn không có cơ sở.
Tháng 11/2013, Trung Quốc thiết lập vùng nhận diện phòng không, bao gồm cả vùng trời trên các đảo Senkaku, hạt Okinawa. Đã có nhiều ý kiến về sự vô lý và ngang ngược của hành động này, xin không đi sâu vào chi tiết.
Vấn đề thậm chí không phải ở chỗ là “khu vực nhận diện phòng không” của Trung Quốc chồng lấn lên khu vực nhận diện phòng không của Nhật Bản và cũng không chỉ ở chỗ Trung Quốc không có quyền đơn phương thiết lập khu vực nhận diện phòng không như vậy.
Mấu chốt của vấn đề chính là cái cách mà Trung Quốc hành xử trong không gian khu vực nhận diện phòng không trên vùng biển trung lập – Trung Quốc tụ cho mình hoàn toàn có quyền tài phán đối với khu vực này.
Khi đơn phương thiết lập “khu vực nhận diện phòng không," Trung Quốc đã tự đặt ra các quy định – mặc định coi khu vực náy là không phận của Trung Quốc và ngăn cản việc tự do bay của máy bay các nước trên vùng biển trung lập. Không chỉ thế, vùng nhận diện phòng không này còn bao gồm không phận trên các đảo Senkaku và cứ như thế, dĩ nhiên, Senkaku sẽ được hiểu là lãnh thổ của Trung Quốc.
Đã đơn phương đưa ra các quy định ngang ngược bất chấp mọi chuẩn mực quốc tế về việc tự do hàng không trên vùng biển trung lập, Trung Quốc lại còn lớn tiếng vu cáo các máy bay của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản là “đã vi phạm nghiêm trọng các chuẩn mực và luật pháp quốc tế". Có thể nói gì đây về Trung Quốc?
Trước mắt, Nhật Bản cần phải làm gì?
Cần phải giải thích hết sức cặn kẽ cho Cộng động quốc tế biết những gì đã xảy ra trên thực tế. Để không thua Trung Quốc trong cuộc chiến tranh thông tin ở cả ba mặt trận (dư luận xã hội, tâm lý và luật pháp). Nhật Bản cần phải trình bày rõ ràng quan điểm của mình với cộng đồng quốc tế ở cả ba mặt trận trên.
Tại sao các máy bay tiêm kích Trung Quốc lại có những hành động điên rô như vậy?
Tôi có thể đưa ra 2 cách giải thích:
Thứ nhất, có quan điểm cho rằng, vụ việc này y hệt như vụ máy bay tiêm kích Trung Quốc va chạm với máy bay Mỹ năm 2001. Ngày 01/4/2001 trên khu vực Biển Đông, cách đảo Hải Mam 110 km về phía Đông Nam, một máy bay trinh sát EP- 3E của Mỹ đã va chạm với một máy bay tiêm kích Trung Quốc J-8II. Máy bay tiêm kích Trung Quốc rơi xuống biển, viên phi công mất tích. EP-3E bị hư hại nặng và buộc phải hạ cánh khẩn cấp xuống đảo Hải Nam.
Có thể trong trường hợp này viên phi công Trung Quốc thiếu kinh nghiệm đã cố tình cơ động để đe dọa máy bay Mỹ nhưng không thành và sau khi va phải máy bay Mỹ đã rơi xuống biển. Trước khi thực hiện chuyến bay cuối cùng, chính phi công này đã từng nhiều lần có những hành động nguy hiểm như vậy và nhiều phi công Mỹ cũng đã biết chuyện này.
Tiêm kích F-2 của không quân Nhật Bản
Tiêm kích F-2 của không quân Nhật Bản
Cũng trong ngày hôm đó, đã có thông tin là tay phi công “mất trí" này cất cánh để chặn máy bay Mỹ vì nghe được qua vô tuyến các phi công Mỹ trao đổi với nhau: “Tay này rất nguy hiểm, cần phải hết sức cẩn thận". Tính hiếu thắng đã giết chết anh ta.
Nếu quả đúng như vậy thì trường hợp không may này là do lỗi của phi công loại máy bay cũ J-8II. Lý do thì có nhiều: tinh thần chiến đấu sút kém của các phi công các máy bay tiêm kích cũ, chất lượng huấn luyện không tốt, phi công vô kỷ luật, kinh nghiệm bay kém, hệ thống chỉ huy không hoàn thiện v.v. Cứ cho là như vậy, hay nói cách khác ngắn gọn hơn, vụ việc ngày 01/4 là hoàn toàn chỉ do lỗi của một phi công!
Cách giải thích thứ hai: Nhưng lần này, loại máy bay thực hiện các hành động nguy hiểm trên là các máy bay Su-27- loại máy bay tiêm kích hiện đại nhất của Trung Quốc. Điều khiển các máy bay này là các phi công thượng hạng.
Nếu cho rằng những hành động của họ là tự phát (như trường hợp 01/4/2001) thì hóa ra là các phi công lại loại máy bay tiêm kích mới nhất là một lũ vô kỷ luật- và không hiểu gì về tình hình hiện tại. Chắc chắn không phải như vậy.
Có thể khẳng định: đây hoàn toàn không phải là sự tình cờ (và đến hôm nay, sau vụ máy bay tiêm kích Trung Quốc lại tiếp cận máy bay Nhật ngày 12/6 thì nhận đinh này hoàn toàn có cơ sở - ND).
Các phi công đã thực hiện lệnh từ Bắc Kinh. Sau khi “ thiết lập vùng nhận diện phòng không “ tháng 11/2013, Trung Quốc đã không áp dụng một biện pháp” khẩn cấp” nào đối với các máy bay của Mỹ và Nhật khi bay qua khu vực này ngoài những thông báo miệng từ đài vô tuyến. Nhưng lần này, có lẽ Trung Quốc đã cảm thấy “đủ mạnh” để thực hiện các biện pháp răn đe.
Những hành động ngang ngược của Trung Quốc
Sau khi thiết lập vùng nhận diện phòng không, Không quân Trung Quốc có vẻ đã kiểm soát tình hình cứng rắn hơn và đã có những hành động như vừa nói tới ở trên. Trước đây, máy bay tiêm kích Trung Quốc chỉ cất cánh chặn các máy bay của Mỹ và Nhật Bản khi họ bay sát đến bờ biển nước này và không có bất cứ hành động gây nguy hiểm nào.
Quần đảo Senkaku/Điếu Ngư đang tranh chấp giữa Nhật Bản và Hàn Quốc
Quần đảo Senkaku/Điếu Ngư đang tranh chấp giữa Nhật Bản và Hàn Quốc
Tháng 1/2014, Trung Quốc đơn phương khẳng định quyền đánh cá trên Biển Đông. Vào tháng 5, Trung Quốc ngang ngược triển khai thăm dò dầu trên thềm lục địa Biển Đông – hành động dẫn đến những phản ứng mạnh mẽ của Việt Nam và các cuộc tranh cãi thù địch ( giữa hai nước ) vẫn tiếp tục cho đến hôm nay. Trong thời gian qua đã xảy ra nhiều vụ va chạm giữa tàu thuyền hai nước và ngày 27/5 tàu Trung Quốc đã đâm chìm một tàu cá Việt Nam.
Đối với Philippines, Trung Quốc cũng tiến hành một chính sách hung hăng không kém trong cuộc tranh cãi về lãnh thổ về lãnh thổ với nước này. Trung Quốc đã bắt đầu công tác chuẩn bị để xây dựng căn cứ quân sự trên vùng bãi cạn Jonson ở quần đào Trường Sa (đây là ý kiến của tác giả) và khu vực bãi cạn Scaborough, không thèm để ý đến những phản đối của chính phủ Philippines. Các tàu Trung Quốc cũng cản trở việc cung cấp lương thực cho vùng đảo san hô Tomas.
Trung quốc đáng giá thấp Mỹ, coi nước này chỉ là “ lãnh đạo trên giấy” và Nhật Bản phải làm gì?
Tổng thống Mỹ B.Obama đã không thể ra quyết định về một chiến dịch quân sự ở Syria , thâm chí cả khi khí độc Sarin đã được sử dụng và vạch đỏ đã bị vượt qúa. Ngay khi đó, đã xuất hiện quan điểm cho là “Mỹ đã không còn là nước lãnh đạo thế giới nữa”.
Trong vấn đề Ukraine, Mỹ lúc đầu tuyên bố là sẽ không sử dụng sức mạnh quân sự. Tuy nhiên, vào cuối tháng tư sau một loạt các chuyến thăm, quan điểm này đã thay đổi: “Chúng tôi ( Mỹ) sẽ không ngần ngại sử dụng sức mạnh quân sự để bảo vệ các nước đồng minh”. Mặc dù vậy, có lẽ Trung Quốc vẫn cho rằng Mỹ chỉ là “lãnh đạo trên giấy”.
Ngày 26/5 Thủ tướng Sinzo Abe sau khi nghe Bộ trưởng quốc phòng Onodera báo cáo về vụ việc đã ra lệnh: "tiếp tục các chuyến bay tuần tiễu”. Không thể dừng hoạt động thu thập dữ liệu.
Việc chấm dứt giám sát đồng nghĩa với việc đơn phương thừa nhận vùng nhận diện phòng không của Trung Quốc – Trung Quốc đã tự tiện thiết lập “vùng" này đi ngược lại các chuẩn mực quốc tế, - cũng như không thể chấp nhận việc Trung Quốc có thể thiết lập vùng nhận diện phòng không tại Biển Đông và những hệ lụy tiếp theo của nó.
Ba lãnh đạo của liên minh châu Á mà Mỹ giữ vai trò đứng đầu
Ba lãnh đạo của liên minh châu Á mà Mỹ giữ vai trò đứng đầu
Năm 2013, Trung Quốc đã từng tuyên bố: “Ngay sau khi hoàn thành công tác chuẩn bị, chúng tôi sẽ thiết lập thêm một loạt các vùng nhận diện phòng không mới”. Trung Quốc đã công khai thể hiện rõ dự định thiết lập vùng nhận diện phòng không trên Biển Đông.
Nếu điều này xảy ra, Biển Đông sẽ biến thành ao nhà của Trung Quốc và tham vọng này của Trung Quốc là không thể coi thường. Tại một cuộc họp của Thượng viện (Nhật Bản) sau diễn đàn Shangri-la, Bộ trưởng quốc phòng Nhật Bản cho biết: “Trong cuộc gặp bộ trưởng quốc phòng các nước tại Singapore, chúng tôi đã giải thích tình hình với tất cả các bên tham dự”.
Bắt đầu từ 30/5 đã có hàng loạt các cuộc gặp (giữa Bộ trưởng quốc phòng Nhật Bản) với Bộ trưởng quốc phòng Mỹ và Úc. Từ những gì đang diễn ra, chúng ta (Nhật Bản) cần phải hiểu được ý đồ của Tập Cận Bình. Không cần thiết phải đáp trả khiêu khích và cũng không tự mình khiêu khích nước khác.
Nhưng bên cạnh đó phải hiểu rằng một lập trường nhu nhược và nhượng bộ trong các cuộc đàm phán sẽ dẫn đến những hậu quả bi thảm không thể tính hết trong tương lai.
Vấn đề quan trọng bây giờ không những là phải giải thích cho toàn thể cộng đồng quốc tế về những sự phi lý trong những hành động của Trung Quốc mà còn cần phải thắt chặt sự phối hợp hành động quân sự với Mỹ, xây dựng liên minh với các nước Đông Nam Á và Úc, tiếp tục giám sát để không bị bất ngờ trước các tình huống không lường trước.
Cùng với đó, cũng cần phải thiết lập cơ chế liên lạc giữa Nhật Bản và Trung Quốc, để ngăn ngừa những va chạm nguy hiểm trên không.
Lê Hùng (Lược dịch)

Trung Quốc cưỡng chiếm trái phép Hoàng Sa

BTTD: Nếu chỉ nói mà không làm thì TQ còn lấn, chiếm, lấn, chiếm biển Đông và thậm chí là lãnh thổ VN. Hãy kiện TQ ra tòa án quốc tế !

Dù bị thế giới lên án, Trung Quốc đã nhảy vào cưỡng chiếm Hoàng Sa, với rắp tâm biến vùng lãnh thổ của quốc gia khác thành "vùng tranh chấp".
Năm 1909, chính quyền địa phương của nhà Mãn Thanh bắt đầu "dòm ngó" đến Hoàng Sa;  thời Quốc dân đảng, Trung Quốc bắt đầu âm thầm đưa quân ra đồn trú trên một số đảo để tạo ra "chuyện đã rồi". Đến thời thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH), mưu toan chiếm đoạt Hoàng Sa và Trường Sa đã thành hành động xâm chiếm trắng trợn của Trung Quốc: Tấn công chiếm đóng Hoàng Sa năm 1974, thảm sát lực lượng công binh Việt Nam và chiếm bãi Gạc Ma trên Trường Sa năm 1988.
Chủ quyền Trường Sa Hoàng Sa, thư tịch cổ, châu bản, Trung Quốc, Việt Nam, cưỡng chiếm Hoàng Sa, bản đồ, sử sách, hải đội Hoàng Sa, hải chiến Hoàng Sa 1974
Ảnh tư liệu
Những bước chuẩn bị cho dã tâm chiếm đoạt
Là quốc gia cùng ký hiệp định Geneve năm 1954, Trung Quốc hiểu hơn ai hết Hoàng Sa và Trường Sa hoàn toàn thuộc về Việt Nam, được thế giới công nhận và được giao cho chính quyền miền Nam Việt Nam quản lý.
Ngày 1/6/1956, ngoại trưởng chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH) Vũ Văn Mẫu tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường Sa. Vài ngày sau, nhà nước Cộng hòa Pháp cũng lên tiếng xác nhận.
Ngày 22/8/1956, hải lục quân VNCH đổ bộ lên đảo chính của Hoàng Sa, dựng bia, kéo cờ. Trong cùng ngày, lực lượng hải quân tỏa ra đổ bộ lên các hòn đảo chính thuộc Trường Sa, dựng các cột đá chủ quyền và kéo quốc kỳ.
Tháng 10/1956, hải quân Đài Loan chiếm đảo Ba Bình (Itu Aba). Tranh thủ cơ hội, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lập tức nhảy vào chiếm đảo Phú Lâm.
Hoàn cảnh lịch sử phức tạp lúc này tạo ra những thách thức vô cùng lớn với chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo. Cuộc chiến tranh Lạnh đang bước vào thời kỳ gay cấn, căng thẳng đã ít nhiều chi phối đến thực thi chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo. Trung Quốc đã triệt để tận dụng thời khắc đó để trục lợi và lên kế hoạch xâm chiếm.
Chính quyền VNCH đã liên tục khẳng định chủ quyền, phản đối các hành động chiếm đóng trái phép của nước ngoài trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên, Trung Quốc ngày càng táo bạo và bất chấp lẽ phải, luật pháp quốc tế để ra tay xâm chiếm.
Năm 1972, Trung Quốc và Mỹ ký "Thông cáo chung Thượng Hải". Sau đó, ngày 11/1/1974, Trung Quốc ra tuyên bố việc sát nhập các quần đảo Trường Sa theo sắc lệnh số 143/NV vào tỉnh Phước Tuy ngày 22/10/1956, trước đó 8 năm, là "lấn chiếm lãnh thổ Trung Quốc" và khẳng định yêu sách với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 12/1/1974, Chính phủ VNCH tuyên bố bác bỏ yêu sách vô lý của Trung Quốc.
Ngày 15/1/1974, Trung Quốc triển khai một lực lượng hải quân hùng hậu, trong đó nhiều tàu chiến ngụy trang thành tàu đánh cá tiến đến Hoàng Sa.
Chủ quyền Trường Sa Hoàng Sa, thư tịch cổ, châu bản, Trung Quốc, Việt Nam, cưỡng chiếm Hoàng Sa, bản đồ, sử sách, hải đội Hoàng Sa, hải chiến Hoàng Sa 1974
Tàu HQ-4 tham gia hải chiến Hoàng Sa. Ảnh tư liệu
Hải chiến Hoàng Sa ngày 19/1/1974
Trước khi tiếng súng bắt đầu nổ ra tại Hoàng Sa vào lúc 10h25', ngày 19/1/1975, ngày 16/1/1974, Chính phủ VNCH đã tuyên cáo rộng rãi với thế giới bác bỏ những luận cứ vô lý của Trung Quốc và đưa ra những bằng chứng lịch sử, pháp lý được thế giới công nhận của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sau khi phát hiện sự có mặt của quân đội Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tại vùng Hoàng Sa với cờ dựng trên các đảo Quang Anh (Money), Hữu Nhật (Robert), lực lượng quân đội VNCH được tăng cường với khu trục hạm Trần Khánh Dư, tuần dương hạm Trần Bình Trọng, hộ tống hạm Nhật Tảo. Lực lượng tăng cường của VNCH có các toán biệt hải được lệnh đổ bộ đến các đảo hạ cờ của quân đội Trung Quốc. Vài vụ xô xát đã xảy ra, súng đã nổ trên đảo Quang Hoà (Duncan) và một đảo khác.
Lực lượng hai bên bắt đầu chuẩn bị, các chiến hạm cách nhau chừng 200m. Cuộc hải chiến bắt đầu diễn ra vào lúc 10h25' ngày 19/1/1974. Một chiến hạm của TQ bị bốc cháy. Các chiến hạm của TQ mang số 281, 182 dồn sức đánh trả khiến chiến hạm Nhật Tảo bị trúng đạn trên đài chỉ huy và hầm máy chính, hạm trưởng Ngụy Văn Thà hy sinh.
Sau hơn 1 giờ giao tranh, hai chiến hạm của TQ chìm, 2 chiếc khác bị bắn cháy. Bên lực lượng VNCH ngoài hộ tống hạm Nhật Tảo bị chìm, còn có một số chiến hạm bị thương tổn, trong đó có một số binh sĩ bị bắt và mất tích.
Lầu Năm Góc khi đó được chính quyền Sài Gòn yêu cầu can thiệp, nhưng quyết định đứng ngoài cuộc xung đột. Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, Arthur Hummel cho chính quyền Sài Gòn biết Mỹ không quan tâm đến vấn đề Hoàng Sa.
Ngày 20/1/1974, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CHMNVN) đã ra bản Tuyên bố phản đối hành động này của phía Trung Quốc. Ngày 26/1/1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời CHMNVN tuyên bố lập trường 3 điểm về việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ. Ngày 14/2/1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời CHMNVN tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam.
Nếu như Mỹ là đồng minh của Chính phủ VNCH đã làm ngơ cho Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa thì Liên Xô lại phản đối. Ngày 27/1/1974, Báo Pravda (Sự thật) của Đảng Cộng sản Liên Xô đã có bài xã luận lên án gay gắt hành vi xâm lược bằng vũ lực của Trung Quốc và cảnh báo âm mưu bành trướng của Trung Quốc trên biển Đông và Đông Nam Á. Bài xã luận khẳng định: "Hành động quân sự của Trung Quốc tại Hoàng Sa như một chủ trương bành trướng lãnh thổ là đe dọa cho các quốc gia châu Á. Việc sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp đất đai, lãnh thổ  là không thể nào tha thứ".
Một số nước Nam Á đã lên tiếng phản đối hành vi dùng vũ lực của Trung Quốc.
Ngày 30/3/1974, đại biểu chính quyền VNCH khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội đồng Kinh tài Viễn Đông họp tại Colombia. Ngày 14/2/1975, Bộ Ngoại giao chính quyền VNCH công bố Sách Trắng về Hoàng Sa và Trường Sa.
Mặc cho những sự phản đối này, Trung Quốc vẫn chiếm giữ trái phép toàn bộ Hoàng Sa và tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng trên quần đảo cho đến nay. Nước Việt Nam thống nhất sau năm 1975 luôn tuyên bố khẳng định rõ ràng chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
Theo một số nhà phân tích, cuộc hải chiến Hoàng Sa cho thấy Trung Quốc đã bắt đầu sử dụng vũ lực công khai vào thời điểm khó khăn, phức tạp nhất của Việt Nam để chiếm đoạt Hoàng Sa, điều mà từ thời nhà Mãn Thanh và Quốc Dân đảng chưa dám thực hiện.
Giới nghiên cứu cho rằng, lúc bấy giờ Trung Quốc đã bước vào giai đoạn dùng vũ lực để mở rộng lãnh thổ, lãnh hải. Dù bị thế giới lên án, tại biển Đông, Trung Quốc đã nhảy vào cưỡng chiếm Hoàng Sa, với rắp tâm biến vùng lãnh thổ của quốc gia khác thành "vùng tranh chấp".
(Còn nữa)
Duy Chiến

Quân Chính phủ Iraq chuẩn bị phản công

TT - Các lực lượng an ninh của Iraq đang chuẩn bị cho cuộc phản công nhằm vào lực lượng phiến quân ở phía bắc Baghdad sau khi Thủ tướng Nouri al-Maliki tuyên bố được nội các trao “các quyền không hạn chế”.

Người tình nguyện nhập ngũ giúp quân đội Iraq đẩy lùi phiến quân Ảnh: Reuters
AFP dẫn lời một đại tá quân đội phụ trách Samarra, một thành phố cách thủ đô 110km về phía bắc, cho biết lực lượng cảnh sát và quân đội tăng viện đã đến đây từ hôm 13-6. Việc tăng viện được biết nhằm giành lại các khu vực phía bắc thành phố, bao gồm cả Dur và Tikrit mà lực lượng phiến quân Nhà nước Hồi giáo Iraq và Cận Đông (ISIL) chiếm giữ tuần qua. Vị đại tá này nói các lực lượng đang đợi lệnh để bắt đầu hành động.
Quyền lực không hạn chế
Nhóm khủng bố giàu nhất thế giới?
Lực lượng phiến quân Nhà nước Hồi giáo Iraq và Cận Đông (ISIL) sau khi chiếm phần lớn khu vực miền bắc Iraq đã lấy đi khoảng 450 triệu USD trong một vụ cướp ngân hàng. NBC News dẫn lời thị trưởng thành phố Mosul, ông Athier Nujaifi, cho biết tin này. Nếu tin này được xác nhận thì ISIL là nhóm khủng bố giàu nhất thế giới.
Từ hôm 13-6, ông Maliki đã đến Samarra để họp về vấn đề an ninh, đồng thời thăm một ngôi đền Shiite tại đây, nơi từng bị phiến quân đánh bom vào năm 2006 làm nổ ra xung đột giữa người Shiite và Sunni khiến hàng chục ngàn người thiệt mạng.
Ông Maliki, một người Hồi giáo Shiite, nói trong một tuyên bố được đăng tải trên trang web của ông đêm 13-6 rằng “nội các đã trao cho thủ tướng, tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, các quyền lực không giới hạn” để chiến đấu chống lại lực lượng phiến quân. Ông cũng kêu gọi toàn dân Iraq chiến đấu chống lại ISIL và nói các tình nguyện viên đang được điều động để hỗ trợ.
“Samarra sẽ không phải là tuyến phòng thủ cuối cùng mà là điểm tập trung và bàn đạp - ông Maliki phát biểu trước các sĩ quan quân đội - Trong vòng vài giờ tới, các tình nguyện viên sẽ đến để hỗ trợ lực lượng an ninh chống lại bè lũ ISIL. Đây sẽ là thời điểm bắt đầu cho sự kết thúc của chúng”.
Các cuộc tấn công lớn do ISIL lãnh đạo bắt đầu từ hôm 9-6 nhưng giờ đây đã có thêm sự tham gia của những người ủng hộ cựu lãnh đạo Iraq Saddam Hussein. Lực lượng an ninh tỏ ra yếu kém, nhiều binh sĩ rời bỏ vị trí và cởi bỏ quân phục. AFP dẫn lời các quan chức nói hôm 13-6 rằng các phiến quân đã tập trung ở khu vực Samarra để chuẩn bị cho một cuộc tấn công khác vào thành phố này sau khi bị đẩy lùi hồi đầu tuần.
Tại khu vực Dhuluiyah cách Baghdad 90km về phía bắc, cảnh sát và dân địa phương đã đẩy lùi được phiến quân nơi lực lượng này lập các chốt kiểm soát những ngày trước. Dân địa phương sau đó bắn chỉ thiên để ăn mừng chiến thắng.
Iran không loại trừ hợp tác với Mỹ
Trong khi đó, Tổng thống Iran Hassan Rouhani phát biểu hôm  14-6 rằng nước này sẵn sàng giúp đỡ Chính phủ Iraq chiến đấu chống lại các phiến quân Hồi giáo Sunni trong khuôn khổ luật pháp quốc tế, mặc dù đến nay Baghdad chưa đưa ra yêu cầu hỗ trợ.
Ông Rouhani cũng nói có thể tính đến việc hợp tác với Mỹ trong việc lập lại an ninh ở Iraq mặc dù Tehran và Washington không có quan hệ ngoại giao trong suốt hơn ba thập kỷ qua. Ông Rouhani nói: “Nếu chúng tôi nhận thấy Mỹ có hành động chống lại các nhóm khủng bố đó, chúng tôi sẽ cân nhắc việc hợp tác”.
Ông Rouhani nói nhiều nhóm khủng bố nhận được sự hậu thuẫn tài chính và chính trị từ một số nước trong khu vực và một số cường quốc phương Tây. “ISIL từ đâu đến? Ai tài trợ cho nhóm khủng bố này? Chúng tôi đã cảnh báo các nước, trong đó có cả phương Tây, về sự nguy hiểm của việc hậu thuẫn một nhóm khủng bố như vậy” - ông Rouhani nói. Theo Reuters, các nước vùng Vịnh đều bác bỏ vai trò của mình trong việc hậu thuẫn ISIL. Saudi Arabia hồi tháng trước đã đưa ISIL vào danh sách khủng bố.
Theo Reuters, các nhà lãnh đạo của cả Iran và Mỹ đều có sự ủng hộ riêng biệt đối với chính phủ của ông Maliki trong việc chống lại lực lượng của ISIL. “Chúng tôi đã nói rằng tất cả các nước phải đoàn kết để đấu tranh chống khủng bố. Nhưng hiện nay, liên quan đến tình hình Iraq, chúng tôi chưa thấy người Mỹ có quyết định gì hết” - ông Rouhani nói và nhắc lại các vấn đề xảy ra đối với nước láng giềng Syria đã bị làm cho tồi tệ hơn bởi sự ủng hộ của phương Tây đối với quân nổi dậy tại đó. Giới chức Mỹ cũng nói chưa có liên lạc gì với Iran về vấn đề Iraq.
Trước đó, Tổng thống Mỹ Barack Obama hôm 13-6 (giờ Mỹ) nói Washington đang xem xét các phương án đối với tình hình Iraq nhưng loại trừ khả năng triển khai quân. Reuters dẫn lời một quan chức Iran (nơi người Hồi giáo Shiite nắm ưu thế) hồi đầu tuần này nói việc hợp tác với Mỹ đã được thảo luận trong giới lãnh đạo Tehran. Cho đến nay, mặc dù bác bỏ khả năng Iran can thiệp quân sự vào Iraq nhưng ông Rouhani cũng mở ra khả năng trợ giúp bằng cách gửi cố vấn quân sự đến Baghdad.
VIỆT PHƯƠNG

Chinh phục Trường thành

Đỉnh hùng quan đệ nhất trường thành
Đội trời đạp đất ngắm non xanh
Dẫm Trung Quốc dưới bàn chân Việt
Thỏa chí hùng tiếp bước cha anh.
 Phạm Hải