Trang

11 tháng 4, 2015

Trạm thu phí “bao vây” doanh nghiệp

10/04/2015 10:05 GMT+7
TT - Trạm thu phí đang ngày càng mọc lên dày đặc khiến các doanh nghiệp phải kêu trời.
                        
 
Hàng trăm xe tải và ôtô chen nhau qua trạm thu phí cầu Đồng Nai chiều 9-4 - Ảnh: Hữu Khoa
Sau khi trạm thu phí cầu Đồng Nai đưa vào hoạt động gây kẹt xe hôm 8-4, nhiều nhà xe tiếp tục than phiền “ra ngõ gặp trạm”, trạm thu phí đang “bao vây” các doanh nghiệp vận tải. Chủ các nhà xe cho hay không tăng giá cước lợi nhuận sẽ giảm, còn tăng được giá cước thì hành khách thiệt thòi.
Ngày 9-4, phóng viên Tuổi Trẻ đã theo một xe tải 3 trục (tải trọng 10 tấn đến dưới 18 tấn) đi từ Khu công nghiệp Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An (Bình Dương) chở hàng về huyện Nhơn Trạch, Đồng Nai.
Tài xế Hải lái xe dừng lại trạm thu phí ngã tư Bình Thung mua vé 20.000 đồng/lượt rồi chạy vài cây số đến tiếp trạm thu phí Bình Thắng (đều thuộc thị xã Dĩ An) trả tiền thêm 10.000 đồng/lượt để qua trạm. Anh Hải chạy tiếp ra ngã ba Tân Vạn qua cầu Đồng Nai ghé vào trạm thu phí mua vé với mức 60.000 đồng/lượt rồi hướng về quốc lộ 51.
Đến trạm thu phí T1 (xã Tam Phước, TP Biên Hòa), anh Hải lấy thêm 80.000 đồng trả tiền vé để qua trạm này. Tổng cộng anh Hải đã trả phí hết 170.000 đồng cho một chiều đi với cung đường chưa đầy 30km, qua bốn trạm thu phí! Chúng tôi hỏi cùng một loại xe nhưng sao mỗi trạm thu giá khác nhau, anh Hải nói: “Chẳng thể hiểu nổi. Mấy bữa trước có ba trạm đã ngộp, nay thêm trạm thu phí ở cầu Đồng Nai mới ngán”.
Trạm như... mạng nhện!
Tìm gặp nhiều tài xế thường chạy xe tải từ TP.HCM về địa bàn Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước hỏi chuyện trạm thu phí ai cũng lắc đầu ngao ngán. Anh Dũng, một tài xế thường chở nhôm từ TP.HCM cung cấp cho các điểm ở Biên Hòa, kể: “Giao hàng ngoài quốc lộ 1 đã gặp trạm, vào ra trung tâm Biên Hòa giao hàng không gặp trạm ở đường Đồng Khởi, đường Bùi Hữu Nghĩa thì gặp trạm ở quốc lộ 1K”. Anh Dũng bức xúc chỉ trong một năm đã có hai trạm thu phí ngay trên quốc lộ 1 thuộc địa bàn tỉnh Đồng Nai “bao vây” xe cộ đi qua.
“Trạm thu phí ở huyện Trảng Bom rồi nay thêm trạm ở cầu Đồng Nai. Nếu đi từ TP.HCM về giao hàng ở ngã tư Dầu Giây phải qua ít nhất ba trạm. Toàn tuyến đi khoảng 60km phải trả phí cả lượt đi lượt về cho các trạm thì nhà xe chỉ có... khóc” - anh Dũng buông lời.
Theo ghi nhận của Tuổi Trẻ, các tuyến đường nối các tỉnh tại khu vực Bình Dương - Đồng Nai - Bình Phước thì không có tuyến đường nào có dưới hai trạm thu phí. Tuyến đường ĐT743 nối Thủ Dầu Một (Bình Dương) tới cầu Hóa An (Đồng Nai) có tới ba trạm thu phí. Cũng tuyến đường ĐT743 nhánh nối ra quốc lộ 1 hay nhánh nối ra quốc lộ 1K cũng đều có trạm thu phí. Tuyến đường ĐT741 từ Bình Dương tới Bình Phước có tới ba dự án BOT với bốn trạm thu phí, trong đó tại Bình Dương có một trạm và Bình Phước tới ba trạm.
Ông Trần Thanh Bảo - trưởng phòng điều hành Công ty TNHH dịch vụ vận tải Thiên Phú, đơn vị có xe đò hoạt động ở bến xe Miền Đông (TP.HCM) - cho biết từ bến xe Miền Đông đến Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ hơn 110km mà xe phải “bò” qua đến bốn trạm thu phí gồm: trạm cầu Bình Triệu, trạm cầu Đồng Nai, trạm thu phí ngã ba Thái Lan (quốc lộ 51, Đồng Nai) và trạm Lam Sơn (quốc lộ 51, Bà Rịa - Vũng Tàu).
Ông Trần Bình - một chủ xe - cho biết nếu đi từ trạm thu phí Rạch Chiếc - xa lộ Hà Nội (TP.HCM) qua cầu Đồng Nai đến Trảng Bom (Đồng Nai) khoảng 40km phải qua ba trạm thu phí, trong khi Nhà nước quy định trên một trục đường khoảng cách giữa hai trạm thu phí là 70km.
Các trạm thu phí mọc lên bao quanh khu vực cửa ngõ TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu - Nguồn: Hà Mi - Đồ họa: N.Khanh
Đường xấu, phí cao
“Mạng nhện” trạm thu phí ở các tuyến đường nối TP.HCM - Bình Dương - Bình Phước, Bình Dương - Đồng Nai trở thành nỗi lo của nhà xe, tài xế. Nhưng họ còn ám ảnh hơn khi ở không ít nơi trạm thu phí mọc lên, đường cứ xấu và giá vẫn tăng. Cụ thể tại Bình Phước, đoạn quốc lộ 13 chưa đầy 70km nhưng được “chẻ” tới hai dự án BOT: Tham Rớt (giáp Bình Dương) - Bình Long và An Lộc (Bình Long) - Chiu Riu (huyện Lộc Ninh).
Trong đó, dự án An Lộc - Chiu Riu đang thi công bầy hầy nhưng đã được Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải đồng ý cho đặt trạm thu phí tại km 105+700 thuộc xã Thanh Phú, thị xã Bình Long, cách trạm thu phí đã có tại km 90+300 của dự án Tham Rớt - Bình Long chưa đầy 30km. Không những vậy, sau khi dự án An Lộc - Chiu Riu hoàn thành, chủ đầu tư còn có thể được đặt thêm một trạm thu phí ở cuối dự án (dù dự án này chỉ dài hơn 32km).
Cũng tại Bình Phước, nếu như trước đây ôtô dưới 12 chỗ ngồi, xe tải dưới 2 tấn qua mỗi trạm thu phí của dự án quốc lộ 13 Chơn Thành - Bình Long chỉ phải đóng 10.000 đồng/trạm thì đầu năm 2015 đã tăng lên tới 20.000 đồng/trạm. Việc tăng giá được HĐND tỉnh Bình Phước ra nghị quyết. Không chỉ vậy, HĐND tỉnh Bình Phước cũng đã thông qua nghị quyết cho phép tăng phí dự án đường ĐT741 (Đồng Xoài - Phước Long).
Mức tăng phí của các dự án này đều từ 50%, cá biệt dự án quốc lộ 13 Chơn Thành - Bình Long tăng tới 100% trong lúc nhiều đoạn đường còn rất xấu. Cùng trên quốc lộ 13 nhưng mức thu phí của Bình Phước cao hơn dự án BOT thuộc địa bàn tỉnh Bình Dương (thu 15.000 đồng/trạm).
Tăng vé xe do qua nhiều trạm thu phí
Theo ông Trần Thanh Bảo, trong vòng hai tháng qua doanh nghiệp này đã ba lần giảm giá vé xe đò tuyến bến xe Miền Đông đến Bà Rịa - Vũng Tàu (từ 100.000 đồng/vé còn 85.000 đồng/vé/hành khách). Với mức phí cầu Đồng Nai là 690.000 đồng/xe 16 chỗ/tháng, sắp tới doanh nghiệp này phải tăng giá vé xe đò để bù đắp chi phí phát sinh.
Còn ông Bùi Văn Quản, chủ tịch Hiệp hội Vận tải hàng hóa TP.HCM, nói việc phát sinh trạm thu phí cầu Đồng Nai buộc các doanh nghiệp vận tải yêu cầu các chủ hàng điều chỉnh giá cước vận tải hàng để bù đắp chi phí, việc tăng cước phí vận tải hàng hóa đồng nghĩa với tăng giá thành sản phẩm. Trong khi đó, các hãng taxi ở TP.HCM cho rằng việc có thêm trạm thu phí sẽ ảnh hưởng đến hành khách vì khách đi qua trạm thu phí nào thì phải trả thêm tiền qua trạm thu phí đó (ngoài tiền cước taxi).
Trước tình hình kẹt xe ở trạm thu phí cầu Đồng Nai trong ngày đầu thu phí (8-4), ông Thượng Thanh Hải - phó giám đốc bến xe Miền Đông - cho biết nếu để tái diễn kẹt xe như vậy vào dịp lễ 30-4 sắp tới thì sẽ khó giải tỏa khách ùn ứ ở bến xe Miền Đông, vì nếu để xảy ra kẹt xe tại trạm thu phí trên thì xe từ Bà Rịa - Vũng Tàu, Phan Thiết, Nha Trang không kịp quay đầu xe vào bến xe Miền Đông rước khách.
Theo luật sư Thái Văn Chung - phó chủ tịch Hiệp hội Vận tải hàng hóa TP.HCM, trạm thu phí cầu Đồng Nai chính là cửa ngõ của TP.HCM nên có mật độ xe lưu thông rất lớn. Để kẹt xe ở đây không chỉ ảnh hưởng đến vận chuyển hành khách mà còn khiến chậm giao nhận hàng về các cảng biển xuất nhập khẩu, trong khi trạm thu phí này lại không có làn thu phí tự động.
Khoảng cách đặt trạm quá gần
Theo luật sư Thái Văn Chung, khoảng cách trạm thu phí Rạch Chiếc - xa lộ Hà Nội đến trạm thu phí cầu Đồng Nai quá gần, chỉ mười mấy kilômet là bất hợp lý. Nhiều doanh nghiệp phản ảnh với hiệp hội việc có quá nhiều trạm thu phí dày đặc ở cửa ngõ TP đang làm cước vận tải tăng. Ông Chung cho rằng cơ quan chức năng cần xem lại quy hoạch đặt trạm thu phí tại TP.HCM và các địa phương lân cận bố trí phù hợp để việc thu phí không trở thành một gánh nặng cho doanh nghiệp.
Thông tư 159 của Bộ Tài chính về hướng dẫn chế độ thu, nộp quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ hoàn vốn đầu tư xây dựng đường bộ quy định khoảng cách giữa hai trạm thu phí trên cùng một tuyến đường là 70km. Trong trường hợp không đảm bảo tối thiểu 70km thì trước khi xây dựng trạm thu phí, Bộ Giao thông vận tải thống nhất với UBND cấp tỉnh và Bộ Tài chính quyết định (đối với quốc lộ).
Trong khi đó, trạm thu phí Rạch Chiếc trên xa lộ Hà Nội (Q.9, TP.HCM) nằm trên trục đường nối liền với quốc lộ 1 và chỉ cách trạm thu phí cầu Đồng Nai đặt tại quốc lộ 1 khoảng 15km, còn từ trạm thu phí cầu Đồng Nai đến trạm thu phí An Sương - An Lạc (cũng trên quốc lộ 1) chỉ hơn 30km.
Trước đó, ngay khi khởi công xây dựng cầu Đồng Nai mới (ngày 7-6-2008), chủ đầu tư dự án là Tổng công ty Xây dựng số 1 đã tổ chức thu phí cầu Đồng Nai tại trạm thu phí Sông Phan, tỉnh Bình Thuận.
Trong bài trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ ngày 16-7-2008, ông Huỳnh Tấn Trí - tổng giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư và xây dựng cầu Đồng Nai (nay là phó tổng giám đốc Tổng công ty Xây dựng số 1) - cho biết lý do không đặt trạm thu phí tại cầu Đồng Nai vì quá gần trạm thu phí Rạch Chiếc - xa lộ Hà Nội, chỉ mười mấy cây số và cách trạm thu phí tuyến tránh Biên Hòa khoảng 40km. Thế nhưng đến nay, dù biết có bất cập về khoảng cách trạm thu phí, chủ đầu tư dự án xây cầu Đồng Nai vẫn đặt trạm thu phí tại cầu Đồng Nai.
Đảm bảo bài toán hoàn vốn cho nhà đầu tư
Trả lời về việc trạm thu phí đường bộ theo hình thức BOT hình thành thời gian qua có khoảng cách gần nhau, ông Nguyễn Văn Huyện - tổng cục trưởng Tổng cục Đường bộ (Bộ Giao thông vận tải) - cho biết khoảng cách giữa các trạm thu phí cách nhau 70 km/trạm không còn phù hợp nữa.
Ông Huyện cho biết hiện nay các dự án đường bộ có quy mô đầu tư lớn, đầu tư bằng hình thức xã hội hóa thì một số dự án không thể đạt khoảng cách đặt trạm thu phí như vậy nữa. Với dự án mở rộng quốc lộ 1, để đảm bảo bài toán hoàn vốn cho nhà đầu tư khi đặt trạm thu phí cự ly cách nhau 70km thì phải dùng vốn ngân sách hỗ trợ nhà đầu tư làm 20-30km của dự án.
“Sắp tới Tổng cục Đường bộ sẽ kiến nghị Bộ Giao thông vận tải đề nghị Bộ Tài chính bỏ quy định khoảng cách tối thiểu 70km giữa hai trạm thu phí trên một tuyến đường. Bây giờ đầu tư đường bằng hình thức BOT, không có ngân sách hỗ trợ thì một số trạm không thể đạt được khoảng cách đấy” - ông Huyện cho biết.
Chiều 9-4, Bộ Tài chính cho biết ngân sách nhà nước khó khăn nên tỉ trọng vốn ngân sách đầu tư cho dự án cơ sở hạ tầng eo hẹp. Do đó để giao thông thuận tiện, phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội thì dự án xây dựng cầu, đường cao tốc... không thể chỉ trông chờ vốn từ ngân sách.
Để thu hút vốn tư nhân tham gia xây dựng các dự án cầu, đường cao tốc thì phải đảm bảo khả năng hoàn vốn và lợi nhuận hợp lý cho chủ đầu tư. Thông thường, thời gian hoàn vốn dự án BOT ngành giao thông dao động 18-25 năm. Nếu trên 30 năm mới hoàn vốn thì rất khó thu hút được nhà đầu tư.
T.PHÙNG - L.THANH

Không mơ hồ “16 chữ vàng” và “4 tốt”

Ý KIẾN BÌNH LUẬN
28/05/2014 00:06

 ( Tổ Quốc ). Đối với Việt Nam, Trung Quốc là một nước láng giềng quá lớn không thể không tính đến và không thể thoái thác quan hệ. Cuộc khủng hoảng HD-981 do Trung Quốc gây ra đã đẩy quan hệ Việt-Trung vào thế bế tắc. Người Việt Nam ta cần nhìn lại mối quan hệ này, xác định một cách minh triết bản chất mối quan hệ ấy, tránh những điều mơ hồ, ngộ nhận. Tránh cái bẫy ý thức tư tưởng có thể gây chập chững về chiến lược, nhập nhằng và mơ hồ giữa các ngôn từ hữu nghị, đối tác, đồng chí, đại cục, v.v.. và v.v..
Kể từ khi phía Trung Quốc khái quát phương châm 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, nêu trong Tuyên bố chung cấp cao 1999, phía ta lại thêm vào đó một chữ “vàng”. 16 chữ vàng tạo nên sự ngộ nhận to lớn.
Đến năm 2002, người Trung Quốc lại khái quát một phương châm nữa, gọi là “4 tốt”: "Láng giềng tốt, Bạn bè tốt, Đồng chí tốt, Đối tác tốt".
Điều mơ hồ nhất trong những điều mơ hồ lần này chính là hai chữ “đồng chí”. Nó hàm ý một điều phi lý là hai bên cùng chung ý thức hệ, cùng chung chí hướng. Làm quên mất một điều sơ đẳng nhất của chính trị quốc tế trong mọi thời đại: Giữa các quốc gia, “không có đồng minh vĩnh viễn, không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích vĩnh viễn”. Đặng Tiểu Bình và Michail Gorbachev đều rất thích dùng lại câu nói này của một chính khách nổi tiếng người Anh, Lord Palmerston, thế kỷ 19. Họ đều lấy lợi ích quốc gia làm trục cốt lõi để xoay các quan hệ đối ngoại sao cho tối đa hóa lợi ích quốc gia. Nhưng lại dùng những lời mĩ miều nhằm gây mơ hồ và chập chững cho phía đối tác hoặc đối tượng.
Năm nguyên tắc chung sống hòa bình  do hai thủ tướng Trung Quốc và Ấn Độ long trọng tuyên bố ngày 29/4/1954 làm cơ sở cho quan hệ giữa hai nước lớn: “Tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau; không tấn công nhau; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; bình đẳng và hai bên cùng có lợi; chung sống hoà bình”, được nhiều quốc gia khác coi là nguyên tắc chỉ đạo quan hệ giữa các nước trong thời kỳ hiện đại. Thế nhưng các nguyên tắc ấy đã không ngăn cản Trung Quốc mở cuộc chiến tranh bất ngờ chống lại Ấn Độ năm 1962.
Tương tự như vậy, ngày 15/10/2013, hai Thủ tướng Trung Quốc và Việt Nam thỏa thuận những nguyên tắc giải quyết các xung đột trên Biển Đông thì chưa đầy 7 tháng sau, Trung Quốc đã đưa giàn khoan vào hạ đặt tại thềm lục địa và Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam.
Việt Nam là một nước nhỏ so với Trung Quốc, sao có thể làm  “bạn bè tốt”? Một nước yếu và một nước mạnh sao có thể làm “đối tác tốt”?
Nhưng, láng giềng vẫn là láng giềng, đối tác vẫn là đối tác, vẫn cứ hợp tác toàn diện, vẫn cứ hướng tới tương lai... Đâu có gì là không được! Nhưng cần đặt các quan hệ này trên một nền tảng minh bạch, không ngộ nhận, không mơ hồ.
Trong quan hệ với Trung Quốc những năm gần đây, Việt Nam luôn nêu cao “3 không” (không liên minh quân sự, không cho đặt căn cứ quân sự của nước ngoài, không liên minh với nước này chống nước khác). Nhưng điều Trung Quốc muốn là sự khuất phục. Người Trung Quốc thường đề cao phương châm “nước mạnh ắt bá quyền”. Cứ mỗi lần, khi hai nước có đụng độ trên biển, các phần tử hiếu chiến lại đe dọa động binh, hòng gây mất ổn định Việt Nam. Việt Nam vì lợi ích ổn định, an ninh, phát triển lâu dài đất nước, không thể để mất quyền chủ động chiến lược và những con bài chiến lược.
Từ giữa những năm 1950 đến nay, Trung Quốc lần lượt năm lần lấn chiếm Biển Đông của Việt Nam. Hai lần hải chiến trên biển, một lần trên đất liền. Sự kiện giàn khoan 981 từ đầu tháng 5/2014 đến nay là giai đoạn thứ sáu của cuộc lấn chiếm biển đảo của Việt Nam. Ngay trong giai đoạn mà các chữ vàng và những điều tốt được nhắc đi nhắc lại, thì Trung Quốc tích cực tranh chấp, tích cực khai thác Biển Đông, đàn áp ngư dân Việt Nam hoạt động trên những ngư trường truyền thống, cắt cáp của tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam, v.v.. Trong quan hệ kinh tế, Việt Nam phải trả một giá cao.
Nhân dịp này, thiết tưởng cần sòng phẳng với lịch sử. Trong hai cuộc kháng chiến cứu nước mấy chục năm trước nhằm thực hiện mục tiêu độc lập, thống nhất đất nước, nhân dân Việt Nam đã kiên trì chiến đấu, không ngại hy sinh gian khổ. Trong các thời kỳ khó khăn gian khổ ấy, chúng ta ghi nhớ công ơn giúp đỡ to lớn của Chính phủ và nhân dân Trung Quốc. Nhưng, sự hy sinh to lớn của nhân dân Việt Nam cũng đã đóng góp quan trọng vào việc Pháp và các nước phương Tây năm 1954 buộc phải ngồi vào bàn thương lượng với Trung Quốc để giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương, tạo điều kiện cho Trung Quốc đột phá bức màn chiến tranh lạnh sau cuộc viện Triều chống Mỹ ở Triều Tiên. Tại Hội nghị Giơnevơ 1954, Ngoại trưởng Mỹ từ chối bắt tay Thủ tướng Trung Quốc, nhưng đến năm 1972, Tổng thống Mỹ phải đến Bắc Kinh để thúc đẩy giải quyết cuộc chiến tranh Việt Nam, từ đó mở ra cục diện mới quan hệ Trung-Mỹ.
Ngày nay, chúng ta cần có cách tiếp cận cụ thể và đổi mới đối với các khái niệm truyền thống “ta-địch”, “đối tượng-đối tác”, tuyệt đối không để những khái niệm “đồng chí, anh em” gây mơ hồ, để ta có thể thực hiện những mối quan hệ hợp tác với Trung Quốc phù hợp với lợi ích quốc gia của mỗi nước.
Để độc lập, tự chủ chính trị thì cần độc lập tự chủ về kinh tế. Giai đoạn tới, ta phải sắp xếp lại ngôi nhà kinh tế của mình trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc và với các đối tác tham gia Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Chính lĩnh vực kinh tế đòi hỏi tinh thần yêu nước và trách nhiệm cao nhất của mỗi người Việt Nam ta.
Trước cuộc xung đột tại Biển Đông hiện nay, ta không để bị kích động. Cũng không tự mình kích động. Kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển đảo, nhưng bình tĩnh, tỉnh táo để không sa vào cái bẫy chiến tranh. Sự dũng cảm ngoan cường của những ngư dân bám biển, của các chiến sĩ cảnh sát biển, kiểm ngư chống chọi với lực lượng lớn hải quân và ngư chính của phía Trung Quốc tại vùng biển Hoàng Sa, sự đồng lòng nhất trí của nhân dân, sự thẳng thắn trong phát biểu của người đứng đầu Chính phủ Việt Nam tại diễn đàn ASEAN ở Naypyidaw, hay tại diễn đàn kinh tế quốc tế ở Manila, tuyên bố mạnh mẽ của Quốc hội Việt Nam về vấn đề Biển Đông... đã thúc đẩy dư luận quốc tế lên tiếng phản đối Trung Quốc và ủng hộ quyền lợi chính đáng của Việt Nam. Và buộc Bắc Kinh phải cân nhắc hành động khi leo thang xung đột.
Quan hệ Việt-Trung sắp tới cần được đặt vào quỹ đạo mới không bị chi phối bởi lời lẽ mơ hồ mà trên cơ sở những lợi ích của quốc gia, của hợp tác cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau và hữu nghị giữa hai dân tộc, hai nước láng giềng liền núi, liền sông, liền biển./.
Người bình luận

10 tháng 4, 2015

VN thực thi pháp luật kém nhất thế giới

Việt Nam “dẫn đầu” và “nhất thế giới”?

Năm 2013, Ngân hàng Thế giới chỉ ra: Việt Nam thuộc nhóm nước dẫn đầu thế giới về xây dựng pháp luật nhưng lại thuộc nhóm nước yếu kém nhất thế giới về thực thi pháp luật.

Năm 2013, Ngân hàng Thế giới đã phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường triển khai chương trình đánh giá chỉ số quản trị đất đai của Việt Nam. Một kết luận không mới nhưng đủ cơ sở thực tiễn để chứng minh:Việt Nam thuộc nhóm nước dẫn đầu thế giới về xây dựng pháp luật nhưng lại thuộc nhóm nước yếu kém nhất thế giới về thực thi pháp luật (Khảo sát đã công bố năm 2013 của WB và Bộ TN&MT - Xemtại đây).
Mới đây nhất, chuyện sửa Luật BHXH ngay khi vừa được QH thông qua, và hàng loạt văn bản pháp luật... trên trời khác buộc phải điều chỉnh đã cho thấy, rất nhiều chính sách được xây dựng xa cách đời thực, thiếu ý kiến khách quan từ người dân.
Chúng ta rất cố gắng đưa pháp luật vào cuộc sống nhưng còn rất nhiều khó khăn vì chưa đưa được cuộc sống vào pháp luật trong quá trình xây dựng.
Ảnh
minh họa. Nguồn: duthaoonline.quochoi.vn
Ảnh minh họa. Nguồn: duthaoonline.quochoi.vn
Ngay trong Luật Đất đai, có những điều không bao giờ được thực hiện, ví dụ như quy định“giá đất của Nhà nước phải phù hợp với giá đất trên thị trường”.
Quy định này không được thực hiện theo đúng nghĩa vì Luật giao cho cơ quan hành chính nhiệm vụ định giá đất, vừa khó khăn và vừa lạ lẫm. Người dân biết nhưng các cơ quan hành chính ở địa phương vẫn muốn nắm giữ thẩm quyền này...
Cho đến nay, Chính phủ và Quốc hội cũng đã có nhiều lần quyết định lấy ý kiến của dân đối với một số Luật quan trọng. Chi phí lấy ý kiến của dân cũng được quyết định ở mức khá cao, triển khai rộng khắp, bố trí đủ nhân lực để thực hiện. Ví dụ như vừa qua thực hiện việc lấy ý kiến của dân đối với Hiến pháp và Luật Đất đai sửa đổi, hay như Bộ luật Dân sự hiện nay.
Thứ nhất, việc lấy ý kiến của dân chưa được thực hiện đối với tất cả các văn bản quy phạm pháp luật, việc này chỉ được thực hiện đối với một số Luật khi lãnh đạo đất nước thấy cần thiết. Thứ hai, cách lấy ý kiến vẫn chủ yếu dựa vào hội thảo với chuyên gia và giao cho chính quyền cấp xã tổ chức họp dân.
Trên thực tế, không phải chuyên gia nào cũng sát với đời thực và không phải chính quyền cấp xã nào cũng biết thực nghe nguyện vọng của dân. Nghe rồi song tiếp thu ra sao, có khách quan hay vẫn chủ quan.
Cảm giác của nhiều người vẫn là văn bản pháp luật tiếp tục được phát hành từ các văn phòng có máy lạnh theo tư duy chủ quan của người quản lý, kể cả các văn bản đã được lấy ý kiến “cẩn thận” của dân.
Đây là lý do chính làm cho các văn bản quy phạm pháp luật có đời sống không dài, phải sửa đổi liên tục. Luật Đất đai trước năm 2003 cứ 2,5 năm phải sửa một lần, sau đó Luật Đất đai 2003 cũng phải sửa 2 lần mới tới được Luật Đất đai 2013, nay Luật Đất đai 2013 vừa có hiệu lực thi hành hơn nửa năm thì đã có quy định vênh với Luật Nhà ở 2014.
Làm gì để các văn bản quy phạm pháp luật không chỉ đi ra từ các phòng có máy lạnh mà phải tiếp nhận được sức nóng khách quan từ đời thực. Một cơ hội tuyệt vời để giải quyết tận gốc việc này đã đến: Quốc hội hiện đang xem xét để thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi trong kỳ họp sắp của tới Quốc hội. Đây là đạo luật gốc để ban hành mọi văn bản pháp luật, tầm quan trọng chỉ kém có Hiến Pháp.
Vấn đề thứ nhấtđược đặt ra là việc lấy ý kiến của dân đối với các văn bản quy phạm pháp luật có cần được coi như một nguyên tắc xuyên suốt trong quy trình xây dựng luật pháp hay không? Điều này dễ thấy là cần thiết. Từ năm 1945, Bác Hồ đã nói “mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân”, có nghĩa là nhân dân có quyền tham gia quyết định luật pháp, hạ tầng trụ cột của Nhà nước pháp quyền. Hiến pháp 2013 đã đưa tinh thần này vào thành quy định tại Điều 28 “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”.
Vấn đề thứ hailà việc lấy ý kiến của nhân dân cần được thực hiện như thế nào để bảo đảm người dân có cơ hội được phát biểu thực lòng, ý kiến được thành tâm lắng nghe để tiếp thu hợp lẽ và Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm kinh phí phù hợp, tạo điều kiện hợp lý để thực hiện hiệu quả nhất.
Trước hết, nội dung quy định của pháp luật phải được chuyển tải giản dị nhất tới dân. Sau đó, người dân mong được phát biểu ý với các tổ chức xã hội gần gũi với mình để ý kiến của mình được chuyển trung thực đến các cơ quan xây dựng luật pháp. Cuối cùng, người dân muốn nhận được ý kiến phản hồi mang tính trách nhiệm giải trình từ các cơ quan xây dựng pháp luật với lý lẽ hợp lý về việc tiếp thu hay không tiếp thu ý kiến của dân. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi cần có những quy định chi tiếp để việc lấy ý kiến của dân là thực.
Vấn đề thứ balà trách nhiệm thẩm định dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật nên đặt vào tay cơ quan nào? Cho đến nay ở Việt Nam, mọi việc thẩm định đều do các cơ quan nhà nước thực hiện, giữ nguyên như thời kỳ bao cấp. Như vậy, cơ quan nhà nước nghiên cứu, cơ quan nhà nước dự thảo, cơ quan nhà nước thẩm định và cơ quan nhà nước ban hành đã trở thành chuỗi quy trình thiếu vắng những ý kiến mang tính khách quan để chỉ ra các quy định sinh ra từ cách suy nghĩ mang tính lối mòn quản lý (vẫn gọi là quan liêu), và cũng để kiểm soát việc quy định thẩm quyền quản lý không hợp lý (vẫn gọi là nguy cơ tham nhũng).
Đây chính là nguồn cơn để xây ra tình trạng các Bộ xây dựng luật pháp vẫn vun vén quyền cao nhất cho mình. Để giải quyết vẫn đề chủ quan quản lý trong quy trình xây dựng pháp luật, cơ chế thẩm định nằm giữa dự thảo và quyết định là điểm chốt của vấn đề. Như vậy, có thể đổi mới cơ chế thẩm định dựa trên nguyên tắc: bên cạnh nhiệm vụ thẩm định giao cho cơ quan hay hội đồng của Nhà nước, cần giao nhiệm vụ thẩm định độc lập cho một hội đồng gồm các tổ chức xã hội ngoài nhà nước là đại diện cho lợi ích của các cộng đồng cư dân. Hội đồng thẩm định độc lập sẽ chỉ ra những bất cập trong dự thảo đối với việc bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân và của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Việc lấy ý kiến thực chất của các tổ chức xã hội, của người dân và việc tổ chức thẩm định độc lập với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật sẽ làm cho Nhà nước phải chi phí nhiều hơn, thời gian mất nhiều hơn và đòi hỏi nguồn nhân lực tham gia cũng nhiều hơn. Những tốn kém này nhằm đánh đổi lấy các văn bản pháp luật phù hợp hơn với cuộc sống, tuổi thọ pháp luật dài hơn, hiệu lực thi hành cao hơn. Hơn nữa, đây là quá trình thực thi dân chủ, mang lại bền vững xã hội cao. Tổng lại thì lợi ích vẫn lớn hơn chi phí, nên đó là việc cần làm. Nhìn sang các nước công nghiệp mới, các luật đều có đời sống tới vài chục năm; ở các nước phát triển, các luật đã được hình thành vài trăm năm mà vẫn giữ nguyên hiệu lực.
Việc giải quyết tất cả mọi vấn đề nêu trên đều trông chờ vào Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi. Việc cần làm ngay là phải lấy ý kiến thật đầy đủ, chi tiết, thành tâm của các tổ chức xã hội, của mọi công dân về dự thảo Luật này để cùng nhau có được một quy trình xây dựng pháp luật đạt hiệu suất, hiệu quả và hiệu lực cao. Đây là nền tảng để tạo dựng một Nhà nước pháp quyền bền vững, của dân, do dân và vì dân.
Gs. TsKh. Đặng Hùng Võ
(Theo Vietnamnet)

9 tháng 4, 2015

Tượng đài, dinh thự và… cứu đói!


1.500 tấn gạo vừa được Chính phủ rót xuống để cứu đói cho người dân tỉnh Quảng Nam kỳ giáp hạt. Một tỉnh nghèo cần được cả nước quan tâm giúp đỡ! Nhưng có lẽ không phải vậy. Họ vừa xây xong nhà khách tỉnh ủy nguy nga tốn 165 tỷ đồng, vừa khánh thành một tượng đài hơn 400 tỷ
Tượng đài, dinh thự và… cứu đói! - ảnh 1Người dân ở nhiều địa phương vẫn thường gặp cảnh đói kỳ giáp hạt  -  Ảnh: H.X.Huỳnh 
Chuyện trái khoáy! Song đó là một thực tế ở nước ta. Đáng lo là tiền để làm những công trình ấy đều là tiền dân, tiền nước. Nếu một tổ hợp khách sạn, hội nghị, kèm theo khu biệt thự, hồ bơi, sân tennis… đẳng cấp 5 sao do tư nhân đầu tư sẽ là chuyện đáng mừng với một địa phương nghèo, vì đã thu hút được đầu tư. Nhưng khi chính quyền vung trăm tỷ, ngàn tỷ để xây các công trình không đem lại lợi ích cho kinh tế địa phương hoặc chưa cần thiết trong hiện tại trong khi năm nào cũng cầu cứu chính phủ cấp gạo cứu đói thì rất đáng quan ngại.
Đáng buồn, đây không phải là chuyện của một địa phương.
Qua thông tin báo chí, người ta chưa thấy nhiều điểm sáng kinh tế địa phương, ngoài một số gương mặt quen thuộc như: Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bình Dương, Hải Phòng… Với những nơi còn nghèo, thật mừng khi nghe được thông tin như: tỉnh này xây dựng được mô hình kinh tế hiệu quả, tỉnh kia lo được cho dân sung túc… Nhưng những thông tin ấy thường hiếm và quý. Cái mà các địa phương này được chú ý lại thường là những thông tin như đã xây được nhà hát trăm tỷ, xây tượng đài hoành tráng, trung tâm văn hóa đồ sộ…
Trong một cuộc họp quốc hội vào năm ngoái, đại biểu Ksor Phước đã phát biểu: “Chỉ nói về xây dựng trụ sở, có tỉnh làm việc rất nghiêm túc, sử dụng hết công năng, nhưng có tỉnh xây dựng lộng lẫy như cung điện. Đây là trụ sở phục vụ nhân dân chứ không phải nơi tham quan du lịch, xây dựng lộng lẫy gây phản cảm vì người dân còn nghèo, tỉnh còn khó khăn”.
Nghèo thế, nhưng “khát vọng” của lãnh đạo nhiều địa phương không hề nhỏ. Cứ xem, nhiều tỉnh nghèo những vẫn đua nhau xin được đầu tư xây cảng biển, xây cảng hàng không, khu kinh tế, khu công nghiệp… trong khi cơ sở hạ tầng chưa đạt yêu cầu, thậm chí cũng chưa tính toán được xây xong sẽ khai thác thế nào và hiệu quả đến đâu. Những dự án này hầu như phải tính bằng tỷ đô-la. Và thực tế cho thấy, không ít cảng biển, cảng hàng không xây xong nằm “trơ gan cùng tuế nguyệt”, khu công nghiệp “đắp chiếu”… trong khi dân không có đất để sản xuất, phải bỏ quê đi kiếm việc làm nơi khác.
Theo thống kê, chỉ trong dịp trước tết và giáp hạt của năm 2015 này, đã có 21 tỉnh thành trên cả nước đề nghị Chính phủ cung cấp gạo cứu đói cho dân. Điều đó có nghĩa là có đến 1/3 số tỉnh thành trên cả nước còn có người đói kém, sống “dưới mức nghèo khổ”. Lẽ nào tình trạng này mãi tiếp diễn?
Mô hình “làng thần kỳ” của Nhật Bản đã được áp dụng tại Lâm Đồng cho kết quả rất khả quan. Đây là một ví dụ cụ thể khi đặt vấn đề về việc nâng cao đời sống người dân với các địa phương: Cũng làm nông nghiệp nhưng tại sao người ta giàu có, còn mình thì không?
Trước đây, những ông chủ của “làng thần kỳ” xứ Phù Tang cũng là những người nông dân nghèo ở nơi mà “thiên không thời, địa không lợi”, nhưng quyết tâm vượt lên hoàn cảnh thì có thừa. Họ không làm giàu theo kiểu chụp giật, đầu độc người khác để kiếm tiền. Rau củ của họ làm ra có thể ăn tại ruộng. Đó là mơ ước của hàng triệu người Việt Nam: được ăn rau sạch.
Nhu cầu thị trường trong nước rất lớn, nhưng sao các vùng nông nghiệp của mình không đáp ứng được. Bài toán này các bạn Nhật đã giải quyết được, người Việt ta cũng phải làm được. Quan trọng là chúng ta có tư duy về điều đó không, hay chỉ lo xây những công trình bề thế tốn tiền mà không giải quyết được những bức bách trước mắt, cũng có thể là cả về lâu dài.
Tượng đài, khách sạn 5 sao, sân bay, hay cảng biển… rồi đến thời điểm nào đó cũng sẽ có, nhưng chưa phải lúc này. Chuyện trước mắt của “nhà nghèo” là phải tìm cho được một mô hình kinh tế thiết thực và hiệu quả để vươn lên giàu có, để không còn phải hàng năm xin trợ cấp cứu đói. Đó mới là hình ảnh khiến lòng người ngưỡng mộ.
Đoàn Đạt*
*Bài viết thể hiện văn phong và góc nhìn của tác giả, một nhà báo sống và làm việc tại TP.HCM.