Dân Việt - Bần là loài cây mọc hoang. Song so với nhiều loài cây tạp khác, bần lại ảnh hưởng khá sâu rộng trong đời sống người bình dân. Từ tên gọi của nó, người dân đã chơi chữ chỉ cảnh nghèo khó của cư dân ngày đầu mở cõi...
Sông Mê Kông chảy vào vùng đất phương Nam chia ra làm hai nhánh Tiền Giang và Hậu Giang rồi hoá chín rồng tuôn ra biển. Nằm giữa hai nhánh sông lớn có đến 4.000 kênh rạch với chiều dài tổng cộng khoảng 5.700 km. Câu nói, ở xứ này bước ra cửa là gặp sông nước mênh mông, phản ánh đúng thực trạng ấy.
Theo học giả Lê Văn Đức trong cuốn Khai Trí (in năm 1970), cho rằng cây bần: cũng gọi là thủy liễu, loại cây to mọc dựa bờ nước, lá nhiều, nhành yếu, bông trắng, trái tròn dẹp, có đài dầy, nhọn ở gần cuống, ăn chua và chát (Sonneratia).
Trái bần bẻ ra để ăn sống.
Xuất phát từ cái tên bần đồng âm với sự nghèo túng, bần cùng, mà người Nam bộ đã đặt câu đố về nó: "Giống chi toàn là giống đực/ Thiếu tứ bề cam cực chung thân?"
Giống đực là bởi ở loài cây này, luôn có một phần của rễ mọc ngoi lên mặt đất để hút dưỡng khí, dân gian gọi là “cặc bần”. Từ đó, người ta cho rằng bần không có giống … cái!
Cây bần gắn liền với cái tên thuỷ liễu đầy thơ mộng bởi một giai thoại liên quan đến vua Gia Long trong những ngày gian khó. Dân gian miệt cù lao Bến Tre còn kể rằng: Khi chạy lánh Tây Sơn, có lần thuyền chúa Nguyễn lạc vào rạch Ụ, Cái Mít (thuộc Hàm Luông ngày nay), phải nhờ gia đình ông Trần Văn Hạc, là cai việc trong làng “bữa cơm”. Tình thế bất ngờ, lại phải “bảo mật”, chúa Nguyễn nói với gia chủ:
- Tôi chỉ muốn xin bữa cơm đạm bạc, có gì ăn nấy vì tôi phải đi thật gấp!
Ông cai Hạc suy nghĩ: nếu làm thịt gà, thịt vịt thì tốn thời giờ. Giết heo lại càng lâu lắt và lộ bí mật. Đích thân ông Cai vào bếp, giở hũ mắm sống rồi ra ngoài bãi hái mấy trái bần mới vừa chín cây.
Trái bần.
Có lẽ, đó là lần đầu tiên và cũng là duy nhất Nguyễn Ánh được thưởng thức món ăn như vậy. Mùi vị vừa chua, vừa chát của bần, mùi vị đặc trưng của mắm và có lẽ cái chính là bụng đói cồn cào sau bao ngày chạy loạn, khiến vị vua cảm thấy thích thú, ngon miệng. Vua hỏi:
- Trái chi mà ngon vậy?
Cai Hạc kính cẩn thưa:
- Muôn tâu, tên trái ấy nghe dân dã quá, kẻ bề tôi chưa tiện thưa qua ạ!
- Cứ nói, đừng sợ chi cả!
- Thưa, trái bần ạ!
Nghe xong, Nguyễn Ánh cười, bảo:
- Trong lúc gian truân này ta mới hiểu trái bần thật ngon lành, nó chẳng kém gì cam quýt, nhãn, hồng.
Vừa nói, vị vua thuở hàn vi liếc mắt nhìn rặng cây bần mọc hoang trùng trùng điệp điệp trước nhà, lá bần xanh mượt gờn gợn thật thơ mộng. Hơn thế, từng chùm bông bần đung đưa, khoe nhuỵ trắng hồng vương bay theo gió. Vua bèn phán:
- Cây này giống như cây liễu, trong Đường thi, Tống phú. Cây liễu ở Trung Hoa mọc trên đất cao, cây liễu xứ ta mọc trên bãi bùn, dầm chân trong nước mặn mà lá vẫn tươi xanh. Từ nay, ta gọi nó là thuỷ liễu, tức cây liễu mọc dưới nước nhé!
Vậy là, từ đó bần có một loài tên không kém phần vương giả!
Bần gie.
Ở vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ Tây (huyện Vàm Cỏ, Long An) có miếu thờ ông Mai Công Hương, dân gian quen gọi là “miếu Ông Bần quỳ”.
Theo Huỳnh Ngọc Trảng trong Ngàn năm bia miệng, Sở Văn hoá và Thông tin Long An, in năm 1984, thì từ khi Mai Công Hương (người sau đó được triều đình nhà Nguyễn phong làm “vị quốc tử nghĩa thần”) tử tiết (khi đánh với quân Nặc Thâm, năm 1705) thì tất cả “bần” mọc hai bên bờ sông đều “quỳ” xuống như muốn tỏ phục hành động nghĩa báo của ông.
Có dị bản khác thì cho rằng sau khi Phan Thanh Giản tuẫn tiết năm 1867, từ đó vùng ngã ba sông Vàm Cỏ và sông Tra được gọi là Ngã Ba Bần Quỳ.
Cũng theo Huỳnh Ngọc Trảng giải thích thì “hiện tượng bần quỳ là do nước sông xói mòn làm cây cối ở mé sông ngả nghiêng, …
Người viết bài này trong lần đi điền dã may mắn được người dân vùng U Minh, Rạch Gốc, kể cho nghe Sự tích cây bần, truyện đại khái như sau:
Xưa kia có một gia đình nông dân rất nghèo khó, áo chẳng được lành, cơm chẳng đủ no. Chẳng ai biết vợ chồng anh ta tên gì, chỉ dựa vào gia cảnh mà gọi anh là Bần. Hết cày thuê đến cuốc mướn mà nhà Bần vẫn không sao đủ gạo ăn. Người vợ ngày ngày phải lặn lội tìm thêm trái rừng, tìm hái lá cây mọc hoang về đỡ dạ.
Năm ấy, trời lụt, nước dâng cao ghê lắm. Cảnh nghèo như Bần càng thêm khốn khổ. Vợ chồng Bần biết vậy nên bồng bế nhau đi khỏi xóm, đến vùng đất ở cửa sông để cắm câu, xúc tép, mong sống qua cơn thắt ngặt.
Nhưng sức mỏn hơi mòn, Bần đã gục ngã bên bãi đất bồi ven sông. Chồng chết, vợ Bần than khóc thảm thiết rồi cũng qua đời sau đó không lâu.
Thời gian trôi qua, trời hết lục, cuộc sống trở lại bình thường, mọi người nhớ đến Bần ra cửa sông tìm thì chẳng còn ai thấy bóng dáng của hai vợ chồng nghèo khổ ấy nữa. Tìm mãi, họ phát hiện hai cây lạ mà trước nay vùng đất này chưa từng có.
Một loại cây mọc ven sông, to tàn rậm lá, hoa nở tim tím, trái hình tròn dẹp, ăn vừa chua vừa chát. Họ gọi đó là cây bần. Một loại cây khác mọc gần đất cho trái cũng có hai màu tím và trắng như bông cây bần những ăn có vị mặn. Người gọi đó là cây mắm.
Họ tin rằng đấy là hai loại cây do vợ chồng Bần hoá thành, cây mãi mọc gần nhau, chúng có đời sống rất đơn giản mọc trên vùng đất cằn cỗi hay bùn hoang, giống như tình cảnh của hai vợ chồng chàng trai nghèo khó ngày trước, …
Bần là loài cây tạp ít giá trị kinh tế nhưng chức năng giữ đất trước sự xâm lấn của sóng biển thì thật đáng nể. Bần mọc đến đâu đất dai bền vững đến đó. Có được điều này vì bộ rễ của nó phát triển khá vững chắc và chiếm một không gian rộng lớn, …
Câu thành ngữ "Cặc bần nhét nút chai" quá quen thuộc đối với người dân miền Tây sông nước. Nội dung của nó liên quan trực tiếp đến rễ của cây bần. Rễ bần có hai phần, phần ẩn dưới đất, phần mọc từ dưới bùn chĩa lên trời để hút dưỡng khí, lớn hơn ngón tay cái, dân miền Tây Nam Bộ cũng cho nó một tên cũng rất đặc biệt cặc bần!
Người dân quê dùng nó làm nút chai. Khi nước ngập một phần lớn của rễ bần, nếu nước chảy mạnh, rễ bần thường ngã qua xuyên lại.
Bần là loài cay gỗ lớn.
Theo dân gian, cặc bần còn được chặt nhỏ phơi khô nấu nước uống để chữa một số bệnh của phụ nữ.
Thân cây bần to có thể cưa ván, nhưng đây chỉ là ván tạp, không chắc, xài chỉ được đôi ba năm. Người nghèo dùng ván bần để làm ngựa (một loại phản, kê để ngồi) xài trong nhà. Người nghèo chết thì chôn hòm bằng ván bần, … Các loại nhánh, thân, … còn dùng làm củi nấu ăn, …
Bông bần, đọt bần và trái bần là những thứ ăn được. Bần chín rụng xuống người ta lượm về hoặc hái trái chua còn trên cây ăn chơi lúc rãnh rang, vị vừa chua chúa, chát, lại mằn mặn của muối, …
Như ở phần giai thoại lý giải tên thuỷ liễu chúng tôi đã nói đến món mắm sống với bần được mang đãi cả vua.
Mắm sống (mắm cá sặc, cá rô, cá trê vàng, …), giở ra, xắt chuối chát, kèm ít rau rừng như lá cách, cơm nguội, đọt sộp, lá lụa, … và trái ớt hiểm xanh, … có thêm trái bần chua nữa, ăn cớm với cơm nóng thì quả thật sướng đến… đã đời. Cơm hết nồi cũng chưa thấy no, chưa muốn nghỉ!
Khi ăn cơm, người ta có thể dầm bần chín với cá kho, mắm kho, để chấm rau sống, hoặc chấm ngay bằng gỏi bông bần. Bông bần được hái về bóp với dấm chua, làm gỏi, …
Trong số các món ăn mà trái bần hiện diện, người dân quê mà cầu kỳ nhất có lẽ là: canh chua bần và đọt bần xào chuột.
Mắm sống bần chua.
Canh chua bần thì ngon nhất là nấu với cá bống sao. Đồ bổi (rau dùng để nấu canh) để nấu canh chua bần cá bống sao thì không thể thiếu cọng môn (có thể là loại môn lấy củ, hoặc môn ngọt, chỉ để ăn cọng cũng được) và ngò gai.
Cọng môn cắt về, tước sạch vỏ bọc bên ngoài, xắt thành hình thoi. Ngò gai xắt sợi, cá bống sao làm sạch để ráo nước. Bắc nước sôi cho trái bần chín vào nấu rã, dùng rổ lược vớt bỏ hột. Nêm nếm vừa chua, đổ bổi vào nấu. Sau đó, cho cá bống vào để vài phút rắc ngò gai và ít cọng bông bần lên trên tô canh, ăn ngay khi canh nóng, … nếu không thịt cá sẽ nát và mất ngon. Nước chầm là muối, ớt chín dầm nát và bọt ngọt, đường cát, …
Mùi chua của bần, mùi ngọt của cá, cọng màu xanh của môn, ngò , sắc tím lẫn trắng của bông bần gợi nên tình quê đậm đà sâu nặng, …
Ở món chuột đồng xào đọt bần, thì chuột cơm ngoài đồng ruộng béo tròn từ tháng Chạp đến tháng Giêng, bắt về làm sạch, để ráo nước, rồi đem bằm thật nhuyễn. Hái đọt bần non rửa sạch, để ráo nước xắt sơ qua. Bắc chảo lên bếp cho nóng, phi tỏi mỡ cho thịt chuột đã băm nhuyễn vào xào cho thịt chín đều, có màu trắng đục rồi tiếp tục cho đọt bần vào. Khi đọt bần đã chín, nêm gia vị bột ngọt, đường, nước mắm, ớt bằm nhỏ, trộn đều cho thấm. Nhắc xuống ăn nóng, chấm với nước mắm tỏi, ớt, …
Vị chua chua, chan chát của đọt bần, trộn lẫn bởi vị béo ngọt của thịt chuột hoà quyện thành món ăn độc đáo miền quê.
Nhụy bông bần trộn gỏi chua, ăn kèm với tép bạc luộc thì cơm no quên thôi!
Để kết thúc phần khảo sát về hình ảnh cây bần trong đời sống người Tây Nam Bộ, chúng tôi tìm hiểu được thông tin rằng: cuối thập niên đầu của thế kỷ XX, có bà Tư Cúc ở Trà Vinh đã chế biến được mứt bần, kẹo bần.
Bần chín được tán nhuyễn thành bột, dùng lửa nhỏ để sên, thêm muối, ớt, bột ngọt và cho vào keo để dự trữ những tháng trái mùa, dùng mứt bần để uống với nước trà tráng miệng sau bữa cơm, … Cơ sở sản xuất này đã xuất khẩu hàng nghìn hủ sản phẩm mứt bần, bột bần, sang Đức và các nước Châu Âu, … thu về bộn bàng ngoại tệ,…
XEM THÊM
>> Nhớ sông Bồ, nhớ chột nưa kho cá cù>> Nhớ lắm vị chao miền Tây sông nước>> Nổi trôi, đời... lục bình!
>> Thương lắm chiếc ghe nghèo!
Theo học giả Lê Văn Đức trong cuốn Khai Trí (in năm 1970), cho rằng cây bần: cũng gọi là thủy liễu, loại cây to mọc dựa bờ nước, lá nhiều, nhành yếu, bông trắng, trái tròn dẹp, có đài dầy, nhọn ở gần cuống, ăn chua và chát (Sonneratia).
Trái bần bẻ ra để ăn sống.
Xuất phát từ cái tên bần đồng âm với sự nghèo túng, bần cùng, mà người Nam bộ đã đặt câu đố về nó: "Giống chi toàn là giống đực/ Thiếu tứ bề cam cực chung thân?"
Giống đực là bởi ở loài cây này, luôn có một phần của rễ mọc ngoi lên mặt đất để hút dưỡng khí, dân gian gọi là “cặc bần”. Từ đó, người ta cho rằng bần không có giống … cái!
Cây bần gắn liền với cái tên thuỷ liễu đầy thơ mộng bởi một giai thoại liên quan đến vua Gia Long trong những ngày gian khó. Dân gian miệt cù lao Bến Tre còn kể rằng: Khi chạy lánh Tây Sơn, có lần thuyền chúa Nguyễn lạc vào rạch Ụ, Cái Mít (thuộc Hàm Luông ngày nay), phải nhờ gia đình ông Trần Văn Hạc, là cai việc trong làng “bữa cơm”. Tình thế bất ngờ, lại phải “bảo mật”, chúa Nguyễn nói với gia chủ:
- Tôi chỉ muốn xin bữa cơm đạm bạc, có gì ăn nấy vì tôi phải đi thật gấp!
Ông cai Hạc suy nghĩ: nếu làm thịt gà, thịt vịt thì tốn thời giờ. Giết heo lại càng lâu lắt và lộ bí mật. Đích thân ông Cai vào bếp, giở hũ mắm sống rồi ra ngoài bãi hái mấy trái bần mới vừa chín cây.
Trái bần.
Có lẽ, đó là lần đầu tiên và cũng là duy nhất Nguyễn Ánh được thưởng thức món ăn như vậy. Mùi vị vừa chua, vừa chát của bần, mùi vị đặc trưng của mắm và có lẽ cái chính là bụng đói cồn cào sau bao ngày chạy loạn, khiến vị vua cảm thấy thích thú, ngon miệng. Vua hỏi:
- Trái chi mà ngon vậy?
Cai Hạc kính cẩn thưa:
- Muôn tâu, tên trái ấy nghe dân dã quá, kẻ bề tôi chưa tiện thưa qua ạ!
- Cứ nói, đừng sợ chi cả!
- Thưa, trái bần ạ!
Nghe xong, Nguyễn Ánh cười, bảo:
- Trong lúc gian truân này ta mới hiểu trái bần thật ngon lành, nó chẳng kém gì cam quýt, nhãn, hồng.
Vừa nói, vị vua thuở hàn vi liếc mắt nhìn rặng cây bần mọc hoang trùng trùng điệp điệp trước nhà, lá bần xanh mượt gờn gợn thật thơ mộng. Hơn thế, từng chùm bông bần đung đưa, khoe nhuỵ trắng hồng vương bay theo gió. Vua bèn phán:
- Cây này giống như cây liễu, trong Đường thi, Tống phú. Cây liễu ở Trung Hoa mọc trên đất cao, cây liễu xứ ta mọc trên bãi bùn, dầm chân trong nước mặn mà lá vẫn tươi xanh. Từ nay, ta gọi nó là thuỷ liễu, tức cây liễu mọc dưới nước nhé!
Vậy là, từ đó bần có một loài tên không kém phần vương giả!
Bần gie.
Ở vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ Tây (huyện Vàm Cỏ, Long An) có miếu thờ ông Mai Công Hương, dân gian quen gọi là “miếu Ông Bần quỳ”.
Theo Huỳnh Ngọc Trảng trong Ngàn năm bia miệng, Sở Văn hoá và Thông tin Long An, in năm 1984, thì từ khi Mai Công Hương (người sau đó được triều đình nhà Nguyễn phong làm “vị quốc tử nghĩa thần”) tử tiết (khi đánh với quân Nặc Thâm, năm 1705) thì tất cả “bần” mọc hai bên bờ sông đều “quỳ” xuống như muốn tỏ phục hành động nghĩa báo của ông.
Có dị bản khác thì cho rằng sau khi Phan Thanh Giản tuẫn tiết năm 1867, từ đó vùng ngã ba sông Vàm Cỏ và sông Tra được gọi là Ngã Ba Bần Quỳ.
Cũng theo Huỳnh Ngọc Trảng giải thích thì “hiện tượng bần quỳ là do nước sông xói mòn làm cây cối ở mé sông ngả nghiêng, …
Người viết bài này trong lần đi điền dã may mắn được người dân vùng U Minh, Rạch Gốc, kể cho nghe Sự tích cây bần, truyện đại khái như sau:
Xưa kia có một gia đình nông dân rất nghèo khó, áo chẳng được lành, cơm chẳng đủ no. Chẳng ai biết vợ chồng anh ta tên gì, chỉ dựa vào gia cảnh mà gọi anh là Bần. Hết cày thuê đến cuốc mướn mà nhà Bần vẫn không sao đủ gạo ăn. Người vợ ngày ngày phải lặn lội tìm thêm trái rừng, tìm hái lá cây mọc hoang về đỡ dạ.
Năm ấy, trời lụt, nước dâng cao ghê lắm. Cảnh nghèo như Bần càng thêm khốn khổ. Vợ chồng Bần biết vậy nên bồng bế nhau đi khỏi xóm, đến vùng đất ở cửa sông để cắm câu, xúc tép, mong sống qua cơn thắt ngặt.
Nhưng sức mỏn hơi mòn, Bần đã gục ngã bên bãi đất bồi ven sông. Chồng chết, vợ Bần than khóc thảm thiết rồi cũng qua đời sau đó không lâu.
Thời gian trôi qua, trời hết lục, cuộc sống trở lại bình thường, mọi người nhớ đến Bần ra cửa sông tìm thì chẳng còn ai thấy bóng dáng của hai vợ chồng nghèo khổ ấy nữa. Tìm mãi, họ phát hiện hai cây lạ mà trước nay vùng đất này chưa từng có.
Một loại cây mọc ven sông, to tàn rậm lá, hoa nở tim tím, trái hình tròn dẹp, ăn vừa chua vừa chát. Họ gọi đó là cây bần. Một loại cây khác mọc gần đất cho trái cũng có hai màu tím và trắng như bông cây bần những ăn có vị mặn. Người gọi đó là cây mắm.
Họ tin rằng đấy là hai loại cây do vợ chồng Bần hoá thành, cây mãi mọc gần nhau, chúng có đời sống rất đơn giản mọc trên vùng đất cằn cỗi hay bùn hoang, giống như tình cảnh của hai vợ chồng chàng trai nghèo khó ngày trước, …
Bần là loài cây tạp ít giá trị kinh tế nhưng chức năng giữ đất trước sự xâm lấn của sóng biển thì thật đáng nể. Bần mọc đến đâu đất dai bền vững đến đó. Có được điều này vì bộ rễ của nó phát triển khá vững chắc và chiếm một không gian rộng lớn, …
Câu thành ngữ "Cặc bần nhét nút chai" quá quen thuộc đối với người dân miền Tây sông nước. Nội dung của nó liên quan trực tiếp đến rễ của cây bần. Rễ bần có hai phần, phần ẩn dưới đất, phần mọc từ dưới bùn chĩa lên trời để hút dưỡng khí, lớn hơn ngón tay cái, dân miền Tây Nam Bộ cũng cho nó một tên cũng rất đặc biệt cặc bần!
Người dân quê dùng nó làm nút chai. Khi nước ngập một phần lớn của rễ bần, nếu nước chảy mạnh, rễ bần thường ngã qua xuyên lại.
Bần là loài cay gỗ lớn.
Theo dân gian, cặc bần còn được chặt nhỏ phơi khô nấu nước uống để chữa một số bệnh của phụ nữ.
Thân cây bần to có thể cưa ván, nhưng đây chỉ là ván tạp, không chắc, xài chỉ được đôi ba năm. Người nghèo dùng ván bần để làm ngựa (một loại phản, kê để ngồi) xài trong nhà. Người nghèo chết thì chôn hòm bằng ván bần, … Các loại nhánh, thân, … còn dùng làm củi nấu ăn, …
Bông bần, đọt bần và trái bần là những thứ ăn được. Bần chín rụng xuống người ta lượm về hoặc hái trái chua còn trên cây ăn chơi lúc rãnh rang, vị vừa chua chúa, chát, lại mằn mặn của muối, …
Như ở phần giai thoại lý giải tên thuỷ liễu chúng tôi đã nói đến món mắm sống với bần được mang đãi cả vua.
Mắm sống (mắm cá sặc, cá rô, cá trê vàng, …), giở ra, xắt chuối chát, kèm ít rau rừng như lá cách, cơm nguội, đọt sộp, lá lụa, … và trái ớt hiểm xanh, … có thêm trái bần chua nữa, ăn cớm với cơm nóng thì quả thật sướng đến… đã đời. Cơm hết nồi cũng chưa thấy no, chưa muốn nghỉ!
Khi ăn cơm, người ta có thể dầm bần chín với cá kho, mắm kho, để chấm rau sống, hoặc chấm ngay bằng gỏi bông bần. Bông bần được hái về bóp với dấm chua, làm gỏi, …
Trong số các món ăn mà trái bần hiện diện, người dân quê mà cầu kỳ nhất có lẽ là: canh chua bần và đọt bần xào chuột.
Mắm sống bần chua.
Canh chua bần thì ngon nhất là nấu với cá bống sao. Đồ bổi (rau dùng để nấu canh) để nấu canh chua bần cá bống sao thì không thể thiếu cọng môn (có thể là loại môn lấy củ, hoặc môn ngọt, chỉ để ăn cọng cũng được) và ngò gai.
Cọng môn cắt về, tước sạch vỏ bọc bên ngoài, xắt thành hình thoi. Ngò gai xắt sợi, cá bống sao làm sạch để ráo nước. Bắc nước sôi cho trái bần chín vào nấu rã, dùng rổ lược vớt bỏ hột. Nêm nếm vừa chua, đổ bổi vào nấu. Sau đó, cho cá bống vào để vài phút rắc ngò gai và ít cọng bông bần lên trên tô canh, ăn ngay khi canh nóng, … nếu không thịt cá sẽ nát và mất ngon. Nước chầm là muối, ớt chín dầm nát và bọt ngọt, đường cát, …
Mùi chua của bần, mùi ngọt của cá, cọng màu xanh của môn, ngò , sắc tím lẫn trắng của bông bần gợi nên tình quê đậm đà sâu nặng, …
Ở món chuột đồng xào đọt bần, thì chuột cơm ngoài đồng ruộng béo tròn từ tháng Chạp đến tháng Giêng, bắt về làm sạch, để ráo nước, rồi đem bằm thật nhuyễn. Hái đọt bần non rửa sạch, để ráo nước xắt sơ qua. Bắc chảo lên bếp cho nóng, phi tỏi mỡ cho thịt chuột đã băm nhuyễn vào xào cho thịt chín đều, có màu trắng đục rồi tiếp tục cho đọt bần vào. Khi đọt bần đã chín, nêm gia vị bột ngọt, đường, nước mắm, ớt bằm nhỏ, trộn đều cho thấm. Nhắc xuống ăn nóng, chấm với nước mắm tỏi, ớt, …
Vị chua chua, chan chát của đọt bần, trộn lẫn bởi vị béo ngọt của thịt chuột hoà quyện thành món ăn độc đáo miền quê.
Nhụy bông bần trộn gỏi chua, ăn kèm với tép bạc luộc thì cơm no quên thôi!
Để kết thúc phần khảo sát về hình ảnh cây bần trong đời sống người Tây Nam Bộ, chúng tôi tìm hiểu được thông tin rằng: cuối thập niên đầu của thế kỷ XX, có bà Tư Cúc ở Trà Vinh đã chế biến được mứt bần, kẹo bần.
Bần chín được tán nhuyễn thành bột, dùng lửa nhỏ để sên, thêm muối, ớt, bột ngọt và cho vào keo để dự trữ những tháng trái mùa, dùng mứt bần để uống với nước trà tráng miệng sau bữa cơm, … Cơ sở sản xuất này đã xuất khẩu hàng nghìn hủ sản phẩm mứt bần, bột bần, sang Đức và các nước Châu Âu, … thu về bộn bàng ngoại tệ,…
XEM THÊM
>> Nhớ sông Bồ, nhớ chột nưa kho cá cù>> Nhớ lắm vị chao miền Tây sông nước>> Nổi trôi, đời... lục bình!
>> Thương lắm chiếc ghe nghèo!
Hai Miệt Vườn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét