Gia Long
(1762 – 1820) tên thường gọi là Nguyễn Ánh, người thành lập nên Nước Việt Nam,
quốc gia hùng mạnh nhất Đông Nam Á đầu thế kỷ 19. Theo Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: “Có lẽ ít ai biết
rằng đầu thế kỷ 19, năm 1820- Gia Long, Việt Nam đã có vị thế đáng nể trong khu
vực về dân số và cả quy mô kinh tế, lớn hơn cả Philippines và Myanmar cộng lại,
gấp hơn 1,5 lần Thái Lan, thu nhập bình quân đầu người khi đó xấp xỉ bình quân
đầu người thế giới. Còn hiện nay, thu nhập bình quân đầu người của ta chỉ bằng
chưa đến 1/5 mức trung bình của thế giới, bằng 1/3 Thái Lan”.
Cuộc đời và
sự nghiệp của Vua Gia Long
Là cháu nội
của chúa Nguyễn Phúc Khoát, một trong những vị chúa Nguyễn cuối cùng ở Đàng
Trong. Toàn bộ gia tộc nhà Nguyễn bị quân Tây Sơn giết năm 1777,
một mình Nguyễn Ánh mới 15 tuổi chạy
thoát ra đảo Phú Quốc. Sau một tháng trốn chạy, khi Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đã
về Quy Nhơn thì Nguyễn Ánh trở lại Long Xuyên, tiến lên Sa Đéc. Tháng 11 âm lịch
năm 1777, ông tập hợp một
đội quân tấn công dinh Long Hồ và sau đó đánh đuổi quan trấn thủ Tây Sơn tại Gia Định lấy lại thành
Sài Gòn tháng 12 cùng năm.
Năm 1778, khi Nguyễn Ánh 16 tuổi, các tướng tôn ông làm Đại nguyên soái- Nhiếp quốc
chính.
Tháng 2
năm 1778, Tây Sơn đánh vào Gia Định. Nguyễn Ánh chặn được Tây Sơn rồi sau đó mở cuộc phản công đẩy lùi được Tây
Sơn.
Suốt các năm 1778 và 1779, Nguyễn Ánh ra sức củng cố và mở
mang vùng Sài Gòn-Gia Định- Long An với mục đích biến vùng này thành căn cứ địa
chống Tây Sơn.
Năm 1779, Chân Lạp xảy ra nội loạn, Nguyễn Ánh sai Đỗ
Thanh Nhơn, Hồ Văn Lân và Dương Công Trừng đi đánh Chân Lạp và giữ quân lại bảo
hộ.
Tháng 1 năm 1780, Nguyễn Ánh xưng vương là "Đại Việt
quốc Nguyễn chúa Vĩnh Trấn chi bửu" làm ấn truyền quốc. Cùng năm, người
Miên ở Trà Vinh nổi lên chống Nguyễn Ánh, ông sai quân đi đánh dẹp. Nguyễn Ánh cho đặt quan hệ
ngoại giao với Xiêm La.
Quân Đông
Sơn của Đỗ Thanh Nhơn phản lại Nguyễn Ánh, ông phải ra sức đánh dẹp mãi mới yên.
Quan hệ với Xiêm La
Tháng 10 âm lịch năm 1781, vua Xiêm La sang đánh Chân Lạp.
Nguyễn Ánh cho quân sang cứu Chân Lạp. Hai bên tham chiến và đình chiến, quan hệ giữa
Nguyễn Ánh và Xiêm thay đổi: từ chỗ đối kháng trở thành đồng minh.
Thất thế trước Tây Sơn
Đến thời điểm mùa hè năm 1781, quân đội của Nguyễn Ánh
phát triển lên đến khoảng 3 vạn người với 80 chiến thuyền, 3 thuyền lớn và 2 tàu đánh
thuê Bồ Đào Nha. Ông bèn
tổ chức tấn công Tây Sơn, đánh tới
tận đất Phú Yên nhưng sau cùng phải rút chạy vì gặp bộ binh rất mạnh của Tây
Sơn.
Tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ cùng vua anh Thái Đức mang
quân thuỷ bộ Nam tiến. Tây Sơn đụng trận dữ dội ở sông Ngã Bảy và cửa biển Cần
Giờ với quân Nguyễn do chính Nguyễn Ánh chỉ huy. Dù lực lượng thuyền của Tây
Sơn yếu hơn, nhưng họ đã phá tan quân
Nguyễn. Nguyễn
Ánh thất trận bỏ chạy về Ba Giồng, rồi trốn sang tận rừng Romdoul, Chân Lạp (khu vực phía bắc
tỉnh Svay Rieng). Tây Sơn đuổi theo vào cuối tháng 4 âm lịch, bắt vua quan Chân
Lạp là Ang Eng hàng phục và buộc tất cả những người Việt ở đấy phải về nước
nhưng Nguyễn Ánh lại trốn kịp.
Vua Thái Đức khi chiếm lại Nam Bộ thì gặp phải sự chống đối
mạnh của người Hoa ủng hộ Nguyễn Ánh. Tháng 4 âm lịch năm 1782, quân Nguyễn Ánh
giết được Hộ giá Tây Sơn là Phạm Ngạn ở cầu Tham Lương. Đô đốc Phạm Ngạn, người
vốn rất thân thiết với Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, tử trận và binh lính Tây
Sơn thương vong nhiều. Hay tin, Nguyễn Nhạc rất đau đớn và cho rằng người Hoa
có tham gia trong đội quân Hòa Nghĩa giết Phạm Ngạn. Để trả thù, ông tiến hành
tàn sát hơn một vạn người Hoa ở vùng Gia Định và tàn phá nặng nề vùng Cù Lao Phố.
Vụ tàn sát này cộng với vụ tương tự trước kia Tây Sơn thực hiện ở Hội An khiến
cho cộng đồng người Hoa ủng hộ Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh kéo quân về chiếm lại Gia Định nhưng gặp Nguyễn Huệ dàn binh
quay lưng ra sông đánh bại khiến Nguyễn Ánh phải chạy về miền Hậu
Giang.
Nguyễn Ánh mượn đường Chân Lạp sang Xiêm cầu viện nhưng
quân Chân Lạp lại hợp tác với Tây Sơn, giết các tướng của Nguyễn Ánh. Nguyễn
Ánh lui về Rạch Giá, Chân Lạp lại cho 30 chiến thuyền vây đánh, Nguyễn Ánh lại
rút tiếp ra Hà Tiên rồi theo thuyền nhỏ trốn ra Phú Quốc.
Tháng 5 âm lịch năm 1782, nhận thấy Nguyễn Ánh đã hết sức
phản kháng, anh em Tây Sơn rút quân về Quy Nhơn.
Châu Văn Tiếp, một tướng trước đây từng theo Tây Sơn,
cùng Nguyễn Phước Mân từ Bình Thuận mang quân vào đánh chiếm được Gia Định và
đón Nguyễn Ánh trở về. Quân Tây Sơn rút chạy về Quy Nhơn.
Nguyễn Ánh tìm cách tổ chức lại Gia Định nhưng quân của
ông rất yếu ớt vì các thất bại trước, buộc ông phải sai sứ là Lê Phước Điển và
Lê Phước Bình sang Xiêm kết giao. Sau đó, Nguyễn Ánh cho các tướng lập các đồn
binh trên sông Vàm Cỏ và Gia Định để tăng sức phòng thủ trước Tây Sơn.
Tháng 2 âm lịch năm 1783, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ và
Nguyễn Lữ mang quân tiến đánh Gia Định. Quân Tây Sơn từ biển Cần Giờ ngược dòng
tiến lên đánh Gia Định. Dù Nguyễn Ánh đã lập tuyến phòng thủ trước nhưng vẫn bị
quân Tây Sơn phá tan. Nguyễn
Ánh buộc phải bỏ chạy về Ba Giòng cùng tướng Nguyễn Kim Phẩm với gầm 100 quân.
Tháng 4 âm lịch, Nguyễn Ánh tụ tập quân mã quay về đóng quân ở Đồng Tuyên.
Nguyễn Huệ hay tin, kéo quân đánh phá Đồng Tuyên, quân Nguyễn Ánh thua to. Nguyễn
Ánh chạy về sông Lật Giang (Vàm Cỏ Đông ngang Bến Lức) dưới sự truy sát của Tây
Sơn, tới khúc sông gặp nước chảy mạnh, nhiều tùy tùng chết đuối, còn Nguyễn Ánh
nhờ biết bơi nên bơi qua được. Chạy đến sông Đăng Giang, sông nhiều cá sấu,
không thể bơi qua được, may lúc ấy có con trâu nước đang nằm bên bờ, Nguyễn Ánh
cỡi trâu sang sông. Qua được sông, Nguyễn Ánh đi Mỹ Tho và dong thuyền đem theo
mẹ và vợ con ra đảo Phú Quốc.
Nguyễn Ánh sai Tôn Thất Cốc và tướng quân Hòa Nghĩa là Trần
Đĩnh trở về cửa biển Cần Giờ dò xét quân Tây Sơn. Hai người Hoa là
Tổng binh Trần Hưng và Lâm Húc nổi dậy chiếm giữ Hà Tiên, chống lại Nguyễn Ánh.
Nguyễn Ánh tức giận, tự mang quân đến đánh, phe Hưng thua chạy. Tướng Xiêm là
Vinh Li Ma ở đảo Cổ Long mang hơn chục chiến thuyền và 200 quân tới Hà Tiên
theo Nguyễn Ánh.
Tháng 6 âm lịch, khi Nguyễn Ánh lui ra đóng ở tại đảo Điệp
Thạch (hòn Đá Chồng) thuộc Phú Quốc thì một thống suất của quân Tây Sơn là Phan
Tuấn Thuận bất ngờ kéo quân ra truy kích, tình thế bức bách tướng Lê Phước Điển
dùng kế hy sinh mặc áo ngự đóng giả Nguyễn Ánh khiến Tây Sơn bắt nhầm. Nguyễn
Ánh đi thuyền khác thoát chạy ra được đảo Côn Lôn trong khi các thuộc tướng
khác đều bị Tây Sơn bắt và giết sau khi dụ hàng không được.
Tháng 7 âm lịch, dò biết được Ánh đang đóng ở ngoài đảo Côn
Lôn, Nguyễn Huệ sai phò mã Trương Văn Đa của Tây Sơn kéo quân vây đánh 3 vòng
trùng trùng điệp điệp. Nhưng lúc này bất ngờ có bão biển, mây mù kín mít, các
thuyền Tây Sơn phải giãn ra và một số bị đánh đắm. Nguyễn Ánh thừa cơ lên thuyền
trốn và sau bảy ngày đêm lênh đênh trên biển, ông quay ra hòn Cổ Cốt rồi lại về
Phú Quốc. Thời gian này, vì thiếu lương thực binh sĩ Nguyễn Ánh phải đi hái cỏ,
tìm củ mà ăn. Có người đàn bà buôn bán ở Hà Tiên tên là Thị Uyển chở một thuyền
gạo đến dâng. Thuyền Nguyễn Ánh gặp gió, buồm và cột buồm bị hỏng, lại có thuyền
buôn đem lá buồm đến dâng.
Chính trong thời gian này Nguyễn Ánh bắt đầu nảy sinh ý định
cầu viện Pháp. Hay tin Bá Đa Lộc đang ở Chan Bô (Chanthaburi, Xiêm La), Nguyễn
Ánh mời đến Phú Quốc và nhờ ông này làm sứ giả nhằm nhờ mang quân sang giúp.
Nguyễn Ánh giao cho Bá Đa Lộc một tờ quốc thư 14 khoản cầu viện Pháp và quốc ấn
để vị Giám mục này được toàn quyền thay mặt Nguyễn Ánh sang Pháp cầu viện triều
đình vua Louis XVI. Đi kèm với Bá Đa Lộc là con cả của Nguyễn Ánh là Nguyễn
Phúc Cảnh (để làm con tin) và Phó vệ úy Phạm Văn Nhân và Cai cơ Nguyễn Văn Liêm.
Nguyễn Ánh vẫn tiếp tục tìm cách quay lại Gia Định qua cửa
biển Ma Ly (thuộc
Bình Thuận), Tây Sơn nghe tin liền đưa hơn 20 chiến thuyền đuổi bắt khiến ông
phải giăng bồm chạy sang hướng đông, lênh đênh hơn 7 ngày đêm mới thoát được về
Phú Quốc. Sau đó, Nguyễn Ánh cùng Cai cơ Võ Văn Chính quay về khu vực Long
Xuyên (nay là Cà Mau) tập hợp quân đợi sẵn. Thuyền Nguyễn Ánh về tới cửa biển Đốc
Công (sông Ông Đốc) bắt giết được tướng Tây Sơn là Quản Nguyệt. Việc này đánh động
tới Tây Sơn, tháng 8 âm lịch năm đó, lưu thủ Tây Sơn là Nguyễn Hóa đem 50 chiến
thuyền ngầm phục kích Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh thua chạy ra hòn Chông, rồi sang đảo Thổ Châu.
Cầu viện Xiêm La
Khi Bá Đa Lộc chưa kịp đi vì trái mùa gió thì Nguyễn Ánh
liên tiếp gặp những thất bại trước quân Tây Sơn, do đó ông có ý chuyển sang cầu
viện Xiêm La. Nguyên trước đó, khi Nguyễn Ánh còn phải lênh đênh trốn chạy, một
tướng thân tín của ông là Châu Văn Tiếp chạy thẳng qua Xiêm cầu cứu.
Tháng giêng âm lịch năm 1784, Chưởng cơ Hồ Văn Lân của Nguyễn Ánh đem quân sở bộ
tiến đến đồn Tinh Phụ. Tôn Thất Hội nghe tin có viện binh đến, trổ vòng vây mà
ra, thẳng tới sông Tân Hòa, hợp với quân Lê Văn Quân. Phò mã Tây Sơn là Trương
Văn Đa đuổi đánh. Các tướng của Nguyễn Ánh thua chạy và tan rã, còn Lê Văn Quân
chạy sang Xiêm.
Tháng 2
âm lịch năm Giáp Thìn (tháng 5 năm 1784), vua Xiêm La là Rama I cho tướng Thát
Xỉ Đa đem thuyền sang Hà Tiên đón Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh, trước đó nhận được
thư của Châu Văn Tiếp, tới Long Xuyên hội kiến tướng Xiêm rồi cùng 30 viên quan
và mấy chục tướng sĩ theo sang Xiêm La hội kiến vua Xiêm tại Vọng Các (Bangkok)
vào tháng 3 năm 1784 mà không màng việc thân tướng là Nguyễn Văn Thành hết sức
can ngăn việc cầu viện nước ngoài.
Tháng 3 âm lịch, Nguyễn Ánh tới Vọng Các. Vua Xiêm Rama I
vốn từng giao ước với tướng Nguyễn Hữu Thụy của Nguyễn Ánh trước đây ở Chân Lạp
và lại cũng đang e ngại sự lớn mạnh của Tây Sơn có thể tranh giành ảnh hưởng với
Xiêm ở Lào và Chân Lạp, nên đồng ý giúp Nguyễn Ánh để phân tán lực lượng Tây
Sơn.
Tháng 6, Nguyễn Ánh về đánh Gia Định. Vua Xiêm cử hai tướng
là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2 vạn quân thủy cùng 300 chiến thuyền sang giúp.
Ngoài ra còn có 3 vạn quân bộ tiến sang Chân Lạp với danh nghĩa giúp vua Chân Lạp,
thực chất với ý đồ tạo gọng kìm phía Tây, chờ cơ hội tiêu diệt quân Tây Sơn.
Tháng 7, liên quân Nguyễn Ánh - Xiêm La đánh bại đô đốc Tây Sơn là Nguyễn Hóa ở
sông Trấn Giang, lấy được Rạch Giá, Ba Thắc, Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc. Nguyễn
Ánh cho Mạc Tử Sinh làm Tham tướng giữ Hà Tiên.
Tháng 10, Châu Văn Tiếp tử trận khi đánh nhau với quân
Tây Sơn của Chưởng tiền Bảo tại Mân Thít. Lại thêm trong thế tiến quân nhanh
chóng, quân Xiêm ỷ thế làm đủ điều tàn bạo với dân chúng khiến cho Nguyễn Ánh rất
thất vọng. Riêng về phía Tây Sơn thì tướng trấn thủ Gia Định là phò mã Trương
Văn Đa thấy quân Xiêm thế lực mạnh, bèn cố thủ tại Gia Định và sai người về Quy
Nhơn báo.
Vũ khí quân Xiêm bỏ lại sau trận Rạch Gầm-Xoài Mút.
Tháng 12, vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc sai Long Nhương tướng
quân Nguyễn Huệ đem quân vào đánh. Tây Sơn đánh thắng lẫy lừng trong trận Rạch
Gầm – Xoài Mút. Chỉ một trận quyết chiến diễn ra không đầy một ngày đã tiêu diệt
gần 2 vạn quân Xiêm, chỉ sót vài nghìn người chạy theo đường
thượng đạo trốn về nước. Từ sau vụ việc này, Nguyễn Ánh không còn trông mong gì
vào Xiêm nữa vì "họ (Xiêm La) sợ quân Tây Sơn như sợ cọp". Các tướng
Chiêu Tăng và Chiêu Sương chạy theo đường núi Chân Lạp mà về Xiêm. Nguyễn Ánh
cùng Lê Văn Duyệt trốn đi Trấn Giang với vài chục người. Nguyễn Ánh theo đường
thủy qua đảo Thổ Châu. rồi về Cổ Cốt với một nhóm nhỏ quân tướng. Thời gian
này, cuộc sống của Nguyễn Ánh khốn khổ đến mức Nguyễn Văn Thành phải đi làm ăn
cướp nuôi chủ và bị đánh suýt mất mạng.
Tháng 3 âm lịch năm 1785, quân Tây Sơn đuổi tới đảo Thổ
Châu, Nguyễn Ánh chạy sang đảo Cổ Cốt, Cai cơ tên Trung đem binh Xiêm đến đưa
Nguyễn Ánh về Vọng Các, Xiêm La. Tháng 4 âm lịch năm 1785, Nguyễn Ánh tới Xiêm,
được vua Xiêm cho trú tại khu vực Samsen.
Lưu vong ở Xiêm và Hiệp ước với Pháp
Chân dung Bá Đa Lộc.
Sau một năm chuẩn bị, ngày tháng 12 năm 1784 Giám mục Bá Đa Lộc
cùng Nguyễn Phúc Cảnh và phái đoàn đem quốc thư của Nguyễn Ánh xuống thuyền đi
Malacca rồi sang Pondichéry ở Ấn Độ (thuộc Pháp), còn Nguyễn Ánh đưa mẹ và vợ
sang trú ở Long Kì (hay Đồng Khoai, Vọng Các).
Với số binh tướng từ Đại Việt mà Nguyễn Ánh thu nhặt được,
ông cho tổ chức lại binh tướng trên đất Xiêm rồi lâu lâu cho quân đột kích về
Gia Định. Tháng 2 năm 1786, Nguyễn Ánh cùng tướng Lê Văn Quân và Nguyễn Văn
Thành giúp vua Xiêm Rama I đánh quân Miến Điện ở đất Sài Nặc. Vua Xiêm cảm tạ,
định lại cho mượn quân sang đánh lấy lại Gia Định nhưng Nguyễn Văn Thành can
ngăn nên Nguyễn Ánh từ chối. Tháng 3 năm 1786, Lê Văn Quân lại giúp Xiêm đánh
quân hải tặc Mã
Lai, nên Xiêm La rất hậu đãi.
Đầu năm 1787, có người Bồ Đào Nha tên Ăng Tôn Nui đến gặp
Nguyễn Ánh dâng quốc thư và nói rằng hoàng tử Cảnh có nhờ nước Bồ Đào Nha giúp,
đã chuẩn bị được 56 tàu chiến ở Goa, mời Nguyễn Ánh sang đất thuộc địa của Bồ
Đào Nha. Nguyễn Ánh có cử sứ giả đi thăm dò nhưng do thấy vua Xiêm không hài
lòng nên rốt cục không hợp tác.
Về Bá Đa Lộc, do một số vấn đề rắc rối tại Pondichéry,
mãi đến tháng 2 năm 1787 Bá Đa Lộc và Nguyễn Phúc Cảnh mới tới hải cảng Lorient
ở Pháp và mất một thời gian vận động, đầu tháng 5 năm 1787 họ mới được gặp vua
Louis XVI. Ngày 28 tháng 11 năm 1787[84], tại cung điện Versailles, Bá Đa Lộc với
tư cách là đại diện của Nguyễn Ánh đã ký với Thượng thư Bộ Ngoại giao Pháp là
Armand Marc, một bản hiệp ước "Tương trợ tấn công và phòng thủ" (thường
gọi là Hiệp ước Versailles). Hiệp ước này gồm có 10 khoản, nội dung chính là về
việc vua Pháp cam kết cung cấp cho Nguyễn Ánh 4 chiếc tàu chiến loại frégaté
cùng 1.200 bộ binh 200 pháo binh và 250 lính Cafres (lính da đen châu Phi) và
các phương tiện trang bị vũ khí tương ứng; ngược lại Nguyễn Ánh chấp thuận nhường
cửa biển Đà Nẵng và quần đảo Côn Lôn cho Pháp, cho phép người Pháp được quyền tự
do buôn bán và kiểm soát thương mại của người nước ngoài ở Việt Nam, mỗi năm sẽ
đóng trả cho Pháp một chiếc tàu giống với loại tàu Pháp viện trợ đồng thời cung
cấp lương thực và quân nhu thiết yếu cho Pháp khi Pháp có chiến tranh với một
nước khác ở khu vực Viễn Đông.
(Hiệp ước
Versailles năm 1787 đã không
thành hiện thực).
Củng cố thế lực. Về nước
Sau 3 năm lưu vong ở Xiêm, Nguyễn Ánh thấy vua Xiêm ngày
càng tỏ ra không vừa lòng vì lực lượng quân Nguyễn trở nên quá mạnh, ông viết
thư cảm ơn rồi ban đêm lặng lẽ trở về vùng Gia Định. Ngoài ra, khi này nội bộ
Tây Sơn xảy ra tranh chấp giữa anh em Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ khiến việc phòng
bị ở Gia Định bị lỏng lẻo.
Tháng 7 âm lịch năm 1787, nhân lúc nửa đêm, Nguyễn Ánh
cùng gia quyến lên thuyền bỏ về hòn Tre (Trúc Dữ). Sau đó Nguyễn Ánh đi sang đảo
Cổ Cốt rồi cho mẹ và vợ con ở đảo Phú Quốc. Nguyễn Ánh đi tiếp và chiếm đất
Long Xuyên (Cà Mau). Tháng 9, Nguyễn Ánh tiến đến cửa biển Cần Giờ.
Trong lúc Nguyễn Huệ bận đối phó với quân Thanh tại Bắc
Hà (1788-1789), vùng Gia Định dưới quyền Tây Sơn cũng không ổn định, quân Tây
Sơn bị cô lập trước dân chúng địa phương vốn có nhiều cảm tình với Chúa Nguyễn
nói chung và Nguyễn Ánh nói riêng. Tướng Tây Sơn giữ Long Xuyên là Chưởng cơ
Nguyễn Văn Trương hàng quân Nguyễn. Nguyễn Ánh lại thu nhận được
nhiều binh lính ở địa phương; sau đó ông bắt đầu tổ chức tấn công Tây Sơn.
Đông Định vương Nguyễn Lữ nghe tin Nguyễn Ánh trở về vội
vã tránh đi nơi khác để Gia Định cho Phạm Văn Tham giữ. Sau đó khi thấy thế
quân Nguyễn Ánh ngày càng mạnh, Nguyễn Lữ sợ hãi mang quân bản bộ rút chạy về
Quy Nhơn.
Tướng của
Nguyễn Lữ Phạm Văn Tham đã nỗ lực chống trả nhưng vì không nhận được
viện binh, lại trúng mưu Nguyễn Ánh ly gián với Nguyễn Lữ và cuối cùng là cái
chết vì bệnh của Nguyễn Lữ đã làm thế Tây Sơn ở Gia Định ngày càng yếu đi. Phạm
Văn Tham vẫn cố đơn độc chiến đấu, nhiều lần đánh lui quân Nguyễn, có lần đã buộc
Nguyễn Ánh và thuộc hạ phải chạy tới tận Cù lao Hổ (Hổ Châu). Tuy nhiên, ở sông
Ba Việt, tướng Tây Sơn là Nguyễn Kế Nhuận mang 10 chiến thuyền đến hàng Nguyễn
Ánh. Lê Văn Quân lại đánh thắng Tây Sơn ở sông Ba Lai rồi quân Nguyễn Ánh tiến
chiếm Mỹ Tho. Nguyễn Ánh tìm cách củng cố thế đứng ngay khi chiếm được Mỹ Tho.
Quân tướng theo Nguyễn Ánh ngày càng đông, Phạm Văn Tham
vẫn cố chống cự để chờ viện binh, nhưng lúc đó Thái Đức Hoàng đế chỉ lo phòng bị
người em Bắc Bình vương Nguyễn Huệ ở phía Bắc mà không đoái hoài đến việc cứu
phía Nam.
Quân Tây Sơn ở Gia Định ngày càng thế cùng sức kiệt và
không ngừng bị quân Nguyễn Ánh bao vây chia cắt, chiêu hàng tướng sĩ. Đến tháng
4 nâm lịch ăm 1788, tướng
Tây Sơn Võ Tánh đem hơn 1 vạn quân theo Nguyễn Ánh. Phạm Văn Tham
sau đó đầu hàng Nguyễn Ánh. Tây Sơn lại mất Nam Hà, Nguyễn Ánh dẹp yên đất Gia
Định.
Người Pháp giúp đỡ
Jean-Marie Dayot và em trai Félix Dayot là một trong những
người Pháp tình nguyện giúp Nguyễn Ánh từ đầu theo lời kêu gọi của Bá Đa Lộc,
chỉ huy hai tàu chiến châu Âu trong hải đội của Nguyễn Ánh, tham gia và có công
lớn trong hai trận thủy chiến ở Thị Nại năm 1792 và năm 1793.
Ngày 27 tháng 12 năm 1787, Bá Đa Lộc cùng Nguyễn Phúc Cảnh
rời Pháp và trở lại Pondichéry để đợi sự chi viện từ phía chính quyền Louis,
nhưng ngày 14 tháng 7 năm 1789 giai cấp tư sản Pháp đã làm cuộc cách mạng lật đổ
triều đại phong kiến Louis, thiết lập nền cộng hòa tư sản, cộng thêm việc Bá tước
nhận trách nhiệm chi viện là De Conway vốn có hiềm khích với Bá Đa Lộc đã tấu
sàm, nước Pháp tỏ ra không muốn nhắc đến hiệp ước cũ nữa.
Chờ mãi không nhận được sự chi viện từ Bá tước De Conway,
Giám mục Bá Đa Lộc đã tự quyên góp tiền từ các thương gia có ý định đặt cơ sở
buôn bán ở Đại Việt cùng với số tiền 15.000 franc Pháp của gia đình mình cho,
đem mua súng đạn và tàu chiến. Tháng 6 năm 1789, Bá Đa Lộc cùng Nguyễn Phúc Cảnh
về đến Gia Định. Tiếp đó, các tàu buôn chở súng ống thuốc đạn cũng lục tục sang
sau. Bấy giờ những người Pháp gồm Jean-Baptiste Chaigneau, Philippe Vannier, De
Forcant, Olivier de Puymanel, Jean-Marie Dayot v.v.. cả thảy đến non 20 người
theo Bá Đa Lộc sang gia nhập phe Nguyễn Ánh. Những người Pháp mà do Bá Đa Lộc
chiêu mộ này ra sức giúp đỡ Nguyễn Ánh trong việc tiến hành du nhập kỹ nghệ, và
xây dựng, sửa sang thành Gia Định, Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên, Biên Hòa, Bà Rịa,
huấn luyện cơ đội pháo thủ, tổ chức bộ binh và rèn luyện tập binh lính theo lối
châu Âu, trung gian mua tàu chiến và vũ khí...
Các hoạt động giúp đỡ Nguyễn Ánh về mặt quân sự của Giám
mục Bá Đa Lộc không phải là sự trợ giúp chính thức của chính phủ Pháp mà chỉ là
hành động tự nguyện của một nhóm người theo sự vận động cá nhân của Giám mục.
Ổn định Nam Hà. Tổ chức chính quyền và kinh tế
Khi vừa chiếm lại Gia Định, Nguyễn Ánh bắt đầu tổ chức lại chính quyền bằng
cách lựa các viên tham mưu quân đội chuyển qua các bộ lập thành một triều đình,
đồng thời cho tăng cường phát triển giáo dục, mở khoa thi, thu dùng các nhân sĩ
người Việt và Minh Hương đã theo ông trước đó. Đến tháng 6 năm 1789, ông đưa ra
chính sách lấy sản xuất nông nghiệp làm trọng trên cơ sở số lớn đất đai phì
nhiêu nhưng lại bị bỏ hoang nhiều vì cộng đồng di dân chưa định hình và chiến
tranh liên miên ở vùng Gia Định. Nguyễn Ánh cho đặt nhóm quan điền toán gồm 12 người (một
số vị nổi bật là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tòng Châu, Hoàng Minh
Khánh) để đi bốn dinh miền Nam là Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Vĩnh, Trấn Định để
đốc thúc nhân dân làm việc nông nghiệp, phàm ai lười biếng sẽ bị bắt sung quân.
Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn đề ra chính sách là nếu người hoặc nhóm người làm ruộng
đất tốt thu trên 100 thùng lúa, còn ruộng đất xấu thu trên 70 thùng lúa thì sẽ
được thưởng như sau: dân thường sẽ được miễn việc xâu (những việc quan lại cần
nhân công địa phương làm như đào kênh, đắp thành) một năm; phủ binh thì sẽ được
miễn đi đánh nhau một năm. Những người dân lậu (người không ở trong sổ bộ quản
lý của địa phương) cũng có thể làm ruộng dưới sự quản lý của quan điền toán và
được xem như là một người lính; nếu như họ thiếu vốn thì cũng có thể được cho
vay trả sau. Từ tháng 10 năm 1790, binh lính cũng được huy động vào việc sản xuất
nông nghiệp khi phép Ngụ binh ư nông được thi hành. Binh lính được khuyến khích
cầy cấy để tận dụng các mảnh đất bị bỏ hoang vì chiến tranh. Nhóm Trung Quân và
các nhóm thủy quân được cử đến khai thác vùng Thảo Mộc Câu (sông Vàm Cỏ ngày
nay) lập ra trại Đồn Điền dưới sự chỉ huy của chánh cơ Nguyễn Bình. Trại này được
nhà nước trợ cấp dụng cụ và giống cây, phần thu hoạch được sẽ sung vào kho
công. Các quan
địa phương khác cũng phải lập đội đồn điền và nộp thuế theo hạn mức 6 hộc lúa mỗi
người trong đội; bất cứ ai tuyển được 10 người trở lên sẽ được làm quan quản trại
và trừ tên trong sổ làng (tức là khỏi đi lính). Số lúa gạo thu được từ các đồn
điền này được giữ trong một kho gọi là kho Tích Trữ.
Để có thêm lúa gạo phục vụ chiến tranh, Nguyễn Ánh cho đặt
thêm thuế phụ ngoài thuế ruộng (thuế điền) một năm hai kỳ thu là thuế thị túc
và thuế thị nạp. Mức thu như sau:
Năm 1792, từ một tới năm phương lúa trên một người.
Năm 1799, vùng Bình Định và Phú Yên nộp 17 thăng gạo cho
mỗi mẫu ruộng.
Năm 1800, mỗi người ở Gia Định nộp hai phương gạo (riêng
người già và tàn tật thì chỉ nộp một nửa). Ruộng mỗi mẫu sẽ nộp 1 phương gạo.
Tới năm 1791, Nguyễn Ánh cho đặt một lệ về việc khẩn
hoang rằng ba năm đầu từ ngày khẩn hoang sẽ miễn thuế. Ai muốn khẩn hoang phải
nộp đơn trước 20 ngày, sau hạn này ruộng sẽ giao cho binh lính, dân chúng không
được quyền tranh chấp nữa.
Các chính sách cải cách nông nghiệp này đã khiến việc sản
xuất lúa gạo ở vùng Gia Định tăng cao và giúp rất lớn cho việc chiến tranh với
Tây Sơn của Nguyễn Ánh. Thời gian này, ông có thể nuôi được một đội quân lên đến
30.000 lính và 1.200 thuyền chiến (ước tính năm 1800), cũng như đáp ứng nhu cầu
quân nhu các lần ông đi đánh nhau với Tây Sơn ở Diên Khánh (năm 1795 và 1796)
và Quy Nhơn (năm 1799) một cách "không hề thiếu thốn". Một chứng minh
khác cho việc dư lúa gạo này là việc năm 1802 có nạn đói lớn ở Gia Định, Nguyễn
Ánh lấy kho gạo quân ra phát cho dân và cho giảm thuế ruộng ở Gia Định. Cùng trong thời
gian, Xiêm La có hạn hán, Nguyễn Ánh cho xuất 8.800 vuông gạo để giúp.
Ngoài gạo, chính quyền cũng chú trọng tới các mảng nông
nghiệp khác, ví dụ như trầu cau dùng cho có dịp phong tục lễ tiết. Đặc biệt, Nguyễn
Ánh rất quan tâm đến ngành trồng mía sản xuất đường vì đây là thứ hàng hóa quan
trọng dùng để trao đổi buôn bán binh khí: ông đặt ra hạn định mỗi năm dân phải
nộp 6000 kg đường, mặt khác cấp vốn cho dân sản xuất để rồi đến mùa cho thu mua
hàng hóa với giá chợ. Chính sách này khiến cho sản lượng đường tăng lên trông
thấy trong khi giá cả lại hạ xuống.
Từ khi quay trở lại Gia Định, Nguyễn Ánh cũng bắt đầu cho
đưa các nhóm thợ thủ công ông đưa từ miền Trung Đại Việt vào. Năm 1791, Nguyễn
Ánh quy hoạch lại nghề thủ công ở vùng Gia Định: ông cho quy hoạch ra 64 ty thủ
công gồm đủ các loại ngành nghề được phân bố khắp các dinh. Khu vực Sài Gòn có
sở Nhà Đồ gồm 22 ty trong đó có các ty thợ mộc, thợ sơn, thợ cưa (các ty này là
cơ sở quan trọng cho Nguyễn Ánh phát triển thủy quân, ông đề ra chính sách đãi
ngộ thợ trong các ty này như là lính chính thức, họ được ăn lương và miễn sưu
thuế hằng năm; chỉ phải có lễ mừng cho các quan sở tại).0 Bên cạnh các
ty, còn có tổ chức các đội chuyên trách phục vụ cho các ty và tổ chức gọi là
"nậu" gồm dân thợ cùng nghề ở các vùng dân cư hẻo lánh, chưa nên thôn
xóm. Đối với các "nậu", chính quyền chỉ kiểm tra vả thu thuế và thành
viên của các nậu chỉ phải trả thuế thân và nộp sản phẩm thay cho sưu dịch.
Việc mua bán với nước ngoài cũng được khuyến khích và kiểm
soát chặt chẽ (nhất là đối với các mặt hàng có liên quan tới quân sự như kẽm, sắt,
đồ đồng, diêm, lưu huỳnh, sắt, gang, chì đen), để có thêm nguồn tài chính và
binh khí. Tất cả đều phải do nhà nước mua bán và quản lý, ai mua bán lén hoặc
quan lại nào không kiểm soát được đều bị tội phạt nặng. Từ trước khi
Nguyễn Phúc Cảnh về, Nguyễn Ánh đã đưa ra chính sách mời gọi thuyền nhà Thanh
vào buôn bán; hễ thuyền nào có chở các thứ đã kể trên thì quan lại ở Gia Định sẽ
mua rồi thanh toán lại bằng gạo tùy theo số hàng ít hay nhiều. Ngoài ra, Nguyễn
Ánh còn thường xuyên cho thuộc cấp đi qua các khu vực do thực dân phương Tây kiểm
soát gần Việt Nam để mua binh khí, trong đó quân Nguyễn thường xuyên lui tới nhất
là các khu vực lãnh thổ phía Tây như Batavia, Malacca, Transquebar.
Mặt khác, Nguyễn Ánh còn gặp khó khăn với cư dân bản địa
của vùng Gia Định là người Khmer vì họ thường xuyên nổi dậy, ông phải cho hai
tướng người Khmer của mình (một người là Nguyễn Văn Tồn) về coi các vùng có số
dân Khmer đông để thiết lập các khu vực tự trị, đề ra các chính sách và luật lệ
hạn chế xung khắc với người Việt, việc tương tự cũng diễn ra ở khu vực Hà Tiên.
Nguyễn Ánh còn cho xây dựng các lũy đất phòng ngừa các nhóm người Khmer nổi dậy
như: lũy Trấn Di ở Ba Trắc và lũy Thanh Sơn ở Ba Lai. Nguyễn Ánh vẫn cho các
quan chức người Khmer quản lý các khu vực có đông người Khmer sinh sống để trấn
an họ, cụ thể như Già Tri Giáp coi phủ Ba Xắc, Ốc Nha Trích coi phủ Trà Vinh.
Năm 1791, Nguyễn Ánh lệnh cho người Hoa ở Long Xuyên ai làm ruộng không có đồ
dùng thì nhà nước cho vay, ai không làm ruộng thì phải đi phu dịch. Người Khmer
và người Hoa ở phủ Ba Xắc và Trà Vinh được phép khai khoang đất nhưng phải nộp
thuế. Ở Ba Xắc, cho Ốc Nha Lá làm quan phủ cai quản người Khmer, Lâm Ngũ Quan
cai quản người Hoa. Ở Trà Vinh, Lư Việt Quan cai quản người Hoa. Đồng thời,
Nguyễn Ánh cũng cấm dân Việt tranh giành đất của người Khmer ở Ba Xắc và Trà
Vinh. Ngoài ra thì chính sách đối xử cũng giống người Việt: cũng phải nộp thuế,
đi lính.
Bên cạnh đó, ông cũng cho kiểm tra dân số để tiện việc bắt
lính và thu thuế, đưa ra các chính sách chống trộm cướp và gìn giữ an ninh; các
hình thức tệ nạn như phù thủy, đổ bác, đồng bóng, hát xướng đều bị cấm. Đồng thời
ông cũng đưa ra chính sách hạn chế nấu rượu để tiết kiệm gạo và cho thuộc quan
tổ chức các hoạt động mua vui cho dân chúng.
Chính sách quân sự và ngoại giao
Quân Tây Sơn vào thời gian này thường xuyên đột kích Gia
Định để lấy lương thực vào mùa gặt. Vì vậy, hành động đầu tiên của Nguyễn Ánh
sau khi chiếm được thành Gia Định nhờ các sĩ quan Pháp trong quân đội mình xây
dựng một tòa thành kiểu châu Âu trên đất Gia Định.
Tòa thành này bắt đầu được xây dựng vào năm 1789, do hai
sĩ quan người Pháp là Theodore Lebrun và de Puymanel thiết kế với tổng nhân
công xây dựng ước chừng 30.000 người. Việc xây dựng đã buộc quan lại Gia Định
phải áp một mức thuế cao và các nhân công lao động bị ép phải làm việc tới mức
cực hạn, khiến cho một cuộc nổi loạn nổ ra. Đến năm 1790, tòa thành hoàn tất với
chu vi khoảng 4176 mét, xây theo theo kiểu Vauban, có ba mặt được sông nước che
chở có tên là Bát Quái. Sau đó, Nguyễn Ánh cho đặt Phiên An trấn thành Gia Định
kinh (kinh thành hay thủ phủ Gia Định). Tòa thành Bát Quái này đã khiến cho Tây
Sơn không bao giờ tìm cách chiếm lại Gia Định nữa, đem đến cho Nguyễn Ánh một lợi
thế nhất định trước kẻ thù chính của ông. Nguyễn Ánh tỏ ra rất thích thú về mảng
kỹ thuật xây thành quách của phương Tây, ông yêu cầu các sĩ quan Pháp đi về
châu Âu để tìm và mang về cho ông các sách và nghiên cứu về chủ đề này.
Nhằm tăng cường quân đội, kinh tế và tăng sức phòng thủ,
từ tháng 10 năm 1788, Nguyễn Ánh cho người bắt tráng đinh thành lập các phủ
binh. Nhiều người Pháp được Nguyễn Ánh đưa vào huấn luyện quân đội; ví dụ như
Jean-Marie Dayot được phái huấn luyện chiến thuật cho thủy binh. Và có khoảng tổng
cộng 4 sĩ quan 80 binh sĩ người Pháp tham gia đánh trận, chủ yếu ở vai trò trợ
chiến dưới sự chỉ huy của các tướng lĩnh người Việt. Đối với vũ khí mà các thuyền
buôn của người Châu Âu mang đến, Nguyễn Ánh giao cho các quan chỉ huy quân sự ở
Trấn Biên mua lại bằng đường cát.
Ở Cần Giờ, Đồng Tranh, Vũng Tàu, Nguyễn Ánh cho dựng các
phong hỏa đài (các điểm cao đốt lửa thông báo khi có giặc để phòng bị). Các
Thành Cá Trê, Thành Vàm Cỏ được xây lại, và các tướng thân cận được điều ra
đóng quân và tuần tiễu ở các nơi. Kỷ luật quân đội được Nguyễn Ánh siết chặt và
ông thực hiện chính sách luân chuyển "binh luôn theo tướng" để đảm bảo
khả năng chỉ huy luôn ở mức tốt nhất. Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn cho lựa ra các quân tinh
nhuệ, hăng hái đánh kẻ địch của ông để luyện tập kỹ càng và trả lương hậu nhằm
kiến tạo ra một đội quân riêng gọi là "quân chiến tâm", là nhóm tinh
binh khi vào trận luôn phải xông lên tuyến đầu nếu lui chạy thì sẽ bị phạt theo
quân pháp còn nếu bỏ trốn thì gia đình phải chịu tội liên đới. Bên cạnh đó,
Nguyễn Ánh còn cho lập "Chế tạo cục" là một nhà máy diêm tiêu, đúc
súng hỏa mai, đại bác đủ các kích cỡ phục vụ quân sự. Đến khoảng sau trận Thị Nại
năm 1782, ông tìm cách củng cố tượng binh qua việc sai người đến Đồng Nai, Bà Rịa
bắt voi, tăng cường trao đổi voi với các nước Chân Lạp và Xiêm; lấy từ dân cống
nạp và thu từ các trận đánh với Tây Sơn. Mặt khác, ông rất quan tâm đến việc
phong thưởng và đãi ngộ binh sĩ tử trận và có công để cổ vũ tinh thần quân lính:
ông cho lập sở Hoạn dưỡng để chăm sóc thương binh, và xây các đền Hiển Trung,
Sinh Trung để thờ cúng binh sĩ tử trận.
Nhận thấy địa thế Gia Định là sông ngòi, biển nhiều, đồng
thời thiên nhiên cực kỳ ưu đãi các sản vật và tài nguyên cần thiết như dầu cây
rái, trám, sơn và đặc biệt là gỗ; Nguyễn Ánh ra sức phát triển ngành đóng thuyền.
Từ trước khi chính sách chính thức về "ty" và "nậu" ngành
thủ công nghiệp, Nguyễn Ánh đã cho thành lập các nậu dầu rái, trám, sơn nhằm phục
vụ cho ngành đóng thuyền: từ năm 1790 lệnh cho dinh Trấn Biên và Phiên Trấn mộ
dân lập nậu dầu rái với định mức thuế 8 vò dầu, cho miễn lao dịch chỉ phải nộp
thêm thuế thân; từ 1791 lệnh lập cá nậu dầu rái ở đạo Long Xuyên với lệ thuế 5
vò dầu và 100 cây nến, miễn hẳn thuế thân. Đến năm 1799, ông thống nhất lệ thuế
tất cả các vùng thành 6 vò dầu rái, 50 cây đèn cầy và nửa cây đèn lớn. Cũng cùng
cách tổ chức cho các nậu dầu rái, Nguyễn Ánh từ năm 1790 cũng thành lập các nậu
dầu trám với lệ thuế 800 cân dầu trám, 1 cây đèn lớn và 40 cây đèn nhỏ, cho miễn
lao dịch chỉ phải nộp thuế thân. Các nậu buồm lá ở Trấn Biên và Phiên Trấn hằng
năm phải nộp 80 bó buồm. Đối với gỗ, từ sau 1789, Nguyễn Ánh ra lệ thuế cho các
quan coi đạo Trấn Biên, Trấn Định và Vĩnh Trấn phải dự trên số phu cục tượng và
các đội nậu biệt nạp phải nộp như sau: 40 người phải nộp đủ gỗ đóng một chiếc
sai thuyền; và kết quả của chính sách là đạo Long Xuyên nộp 10 chiếc, Kiên
Giang 3 chiếc, và Trấn Giang là 5 chiếc. Để tăng năng suất lấy gỗ, Nguyễn Ánh cấp
cho đội lấy gỗ 300 quan tiền mua 300 con trâu chuyên dùng kéo gỗ từ rừng Quang
Hóa (Rừng Quang Hóa thuộc Tây Ninh ngày nay).
Có nguyên liệu rồi, Nguyễn Ánh ra sức đốc thúc đóng tàu:
năm 1789 ông đóng được 40 chiếc thuyền và 100 chiếc thuyền biển; hai năm sau
đóng thêm được 100 chiếc với gỗ ván lấy từ rừng Quang Hóa và rừng Chân Lạp. Đến
năm 1793, Nguyễn Ánh cho mua hẳn một chiến hạm cũ của Châu Âu rồi sai người gỡ
ra để sao chép lại. Nguyễn Ánh đích thân giám sát việc đóng những chiếc thuyền
theo kiểu này. Nhờ tích cực vậy nên ngay cùng năm, quân Nguyễn đóng được những
chiến hạm nổi tiếng là Long Ngư, Long Thượng, Long Hưng, Long Phi, Bằng Phi, Phụng
Phi, Hồng Nhi, Loan Nhi, Ưng Nhi (trong này quan trọng nhất là ba chiếc Long
Phi được trang bị đến 32 khẩu đại bác, Phụng Phi và Bằng Phi có 26 khẩu) với sức
chứa trên 300 người mỗi thuyền. Những năm tiếp theo, Nguyễn Ánh vẫn tiếp tục
kiên nhẫn cho đóng thêm thuyền như năm 1896 cho đóng thêm 15 chiến hạm hiệu là
"Gia" và xếp theo tam tài cùng thập nhị chi: Thiên, Địa, Nhân, Tý, Sửu,
Dần, Mão.. cho đến Hợi là đủ 15 chiếc[141]. Đến năm 1800, cho đóng thêm 15 chiếc
thuyền biển nữa và 1801 thì có thêm 200 hạm có tên là Anh, Vũ, Thước, Nga,
Quyên, Phu, Lệ, Diên, Chiêu, Ly. Nhờ tích cực vậy, có khi mỗi 2 năm mà Nguyễn
Ánh đóng thêm gần được 300 pháo hạm và 10 năm thì tổng số thuyền của Nguyễn Ánh
lên được gần 1.200 chiếc.
Các chính sách phát triển kinh tế-quân sự này đã giúp rất
lớn cho quân đội của Nguyễn Ánh, ông đã phát triển lên được một đội quân có thể
cạnh tranh nổi với Tây Sơn: theo John Barrow, một quý tộc người Anh du lịch nhiều
nơi và là kiểm toán viên tòa đại sứ Anh Quốc tại Trung Quốc năm 1793, thì quân
số của Gia Định đầu thế kỷ 19 lên tới 139.800 người. Thủy binh của Nguyễn Ánh
cũng trở nên hùng mạnh và có ưu thế hơn hẳn so với thủy binh của Tây Sơn, chính điều này
đã giúp Nguyễn Ánh có khả năng vượt biển đánh thẳng vào cảnh Quy Nhơn của Tây
Sơn các năm 1790, 1797, 1798; và Nha Trang vào năm 1793, với trận quyết định tại
Thị Nại năm 1801. Cho đến khi kết thúc chiến tranh; Nguyễn Ánh có một số thuyền
hùng hậu lên tới 100 chiến hạm, 800 pháo hạm và 500 bán pháo hạm.
Tới lúc này, đối với nước Pháp, Nguyễn Ánh bắt đầu tìm đối
sách về mặt ngoại giao: khoảng năm 1790, ông viết quốc thư với đại ý "cảm
ơn nước Pháp", nhưng ông không còn cần họ giúp theo hiệp ước hiệp ước
Versailles năm 1787 đã ký trước đây nữa. Đồng thời với việc trên là công cuộc
giao thiệp với ba nước lớn Xiêm La, Chân Lạp, Vạn Tượng: ông cho quân chiếm
đóng Chân Lạp, giữ quan hệ hòa hiếu với Xiêm La để yên ổn với Vạn Tượng (khi
này trong tầm khống chế của Xiêm La), ngoài ra còn có quan hệ với một ít quốc
gia nhỏ khác. Kết quả là cả ba quốc gia lớn đều có sự giúp đỡ ít nhiều cho Nguyễn
Ánh trong cuộc chiến của mình.
Bắc tiến thắng lợi
Tây Sơn suy yếu
Tháng 4 âm lịch năm 1790, Nguyễn Ánh sai Lê Văn Quân mang
6.000 quân thủy bộ ra đánh chiếm được Phan Rí và Bình Thuận[147]. Sau đó, Lê
Văn Quân đóng giữ Phan Rang, Nguyễn Văn Thành giữ Chợ Mơ (Mai Thị), Võ Tánh giữ
Phan Rí. Nguyễn Ánh sau đó gọi Nguyễn Văn Thành và Võ Tánh rút binh về. Tháng 6
âm lịch năm 1790, Đô đốc Tây Sơn là Hồ Văn Tự mang hơn 9.000 quân vây đánh Phan
Rang, Lê Văn Quân phải về Ỷ Na cố thủ, cầu cứu Nguyễn Ánh. Tháng 7 cùng năm,
quân Tây Sơn bao vây Lê Văn Quân và Nguyễn Văn Thành trong thành Phan Rí, Nguyễn
Ánh lệnh cho Nguyễn Huỳnh Đức và Võ Tánh giải cứu. Sợ Tây Sơn lại đánh Bình Thuận,
Nguyễn Ánh cho rút quân về Gia Định, cho Lê Văn Quân về giữ Hưng Phước.
Đến năm 1792, Quang Trung cho cướp biển Tề Ngôi quấy phá
vùng biển Bình Khang, Bình Thuận, quân Nguyễn Ánh phải phòng bị. Tháng 6 năm
1792, Nguyễn Ánh dò biết Nguyễn Nhạc tập trung nhiều chiến thuyền ở của biển Thị
Nại mà ít phòng bị, liền lợi dụng mùa gió Nam, ông cho hai tướng Nguyễn Văn
Trương, Nguyễn Văn Thành và hai sĩ quan đánh thuê người Pháp là Dayot và
Vannier đi trước, tiến quân đánh và đốt phá thủy trại Tây Sơn tại Thị Nại rồi
rút về, tháng 7 thì Nguyễn Ánh lại đến đóng ở Phan Rang, sau lại về Gia Định.
Sau khi chiến thắng quân Thanh, vua Quang Trung đang chuẩn
bị phối hợp với vua anh đem quân vào Nam đánh Gia Định thì đột ngột qua đời
(1792), con là Nguyễn Quang Toản còn nhỏ tuổi lên nối ngôi, hiệu là Cảnh Thịnh.
Quang Toản nhỏ tuổi nên thi hành nhiều chính sách yếu kém so với tiên đế và
không đủ sức lãnh đạo khiến cho Tây Sơn bắt đầu khủng hoảng và chia rẽ. Loạn lạc
liền nổ ra ở Bắc Hà: sĩ phu trung thành với nhà Lê nổi lên tôn Lê Duy Cận (Thực
lục ghi là Lê Duy Vạn, con Lê Hiển Tông) làm minh chủ, Duy Cận liên lạc với
Nguyễn Ánh để cùng đánh Tây Sơn, việc này góp phần làm cho nhà Tây Sơn nhanh
chóng suy yếu. Nội bộ Tây Sơn xảy ra tranh chấp, quyền hành rơi vào tay ngoại
thích Bùi Đắc Tuyên. Nguyễn Nhạc lại nghi ngờ Quang Toản, càng tạo thuận lợi
cho Nguyễn Ánh. Nhân vào thế đó, Nguyễn Ánh ra sức mở các đợt tấn công ra Quy
Nhơn theo nguyên tắc đã định trước đó: "Gặp nồm thuật thì tiến, vãn thì về,
khi phát thì quân lính đủ mặt, về thì tản ra đồng ruộng". Dân chúng vùng
miền Trung khi này, sau nhiều năm mệt mỏi dưới các tranh chấp nội bộ Tây Sơn, bắt
đầu quay sang ủng hộ Nguyễn Ánh; trong dân gian lưu truyền một câu ca dao lục
bát thế này: "Lạy trời cho cả gió nồm/Để cho chúa Nguyễn kéo buồm thẳng
ra."
Tháng 4 âm lịch năm 1793, Nguyễn Ánh cùng các tướng Võ
Duy Nguy, Nguyễn Văn Trương, Võ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức, Lê Văn Duyệt, Nguyễn
Phước Hội, Philippe Vannier, Nguyễn Văn Hòa, Chưởng cơ Cố đem đại quân tiến
đánh, lần lượt chiếm được Phan Rang, Nha Trang, Diên Khánh, Phú Yên rồi tranh
thủ đánh Thị Nại, tới tận thành Quy Nhơn của vua Thái Đức Nguyễn Nhạc. Vua Thái
Đức cho con là Nguyễn Văn Bảo ra chống giữ và cầu cứu Phú Xuân.
Tháng 8 âm lịch năm 1793, Quang Toản sai Ngô Văn Sở, Phạm
Công Hưng, đô đốc Hố và Chưởng cơ Thiêm (Thực lục ghi là Thái úy Nguyễn Văn
Hưng, Hộ giá Nguyễn Văn Huấn, Tư lệ Lê Trung, Tư mã Ngô Văn Sở, Đô đốc Hố và
Chưởng cơ Thiêm)
đem 17.000 quân, 80 thớt voi và 30 chiếc thuyền chia nhiều đường tiến vào cứu,
quân Nguyễn Ánh rút lui. Trên đường về Gia Định, Nguyễn Ánh sai quân đắp thành
Diên Khánh để Nguyễn Văn Thành giữ, còn Bình Khang để Nguyễn Huỳnh Đức giữ. Đến
tháng 11 âm lịch năm 1793, Nguyễn Ánh lại sai con là Đông cung Thái tử Cảnh ra
giữ Diên Khánh, gọi Thành và Đức về. Cùng thời gian, quân Phú Xuân của Tây Sơn
nhân dịp đánh chiếm luôn đất đai, kho tàng của vua Thái Đức ở thành Quy Nhơn.
Lúc đó Nguyễn Nhạc đang bệnh trên giường, nghe tin cơ nghiệp của con mình là
Quang Bảo bị chiếm mất, uất quá thổ huyết mà qua đời. Quang Toản cho an trí
Quang Bảo ra huyện Phù Ly, còn mình thì cai quản luôn toàn bộ đất đai của vua
bác.
Cũng trong thời gian này, Nguyễn Ánh sử dụng mối quan hệ
hữu hảo của mình với vua Xiêm để mở thêm một cánh quân từ phía Tây: Nguyễn Ánh
yêu cầu vua Xiêm cho Nguyễn Văn Thoại (vốn đang đi sứ ở Bangkok) sang Vạn Tượng
nhằm cùng với nước này phối hợp đánh Tây Sơn và vua Xiêm đồng ý. Đến khoảng năm
1793, vua Xiêm cho phép Nguyễn Ánh đưa quân vào Vạn Tượng để tạo thêm nghi binh
áp lực đối với khu vực trấn Nghệ An của Tây Sơn. Thời gian sau, tướng Nguyễn
Văn Thoại cùng với vua Vạn Tượng Inthavong (Chiêu Ấn trong tiếng Việt) đã rất
thành công trong kế hoạch quấy rối Tây Sơn từ phía Tây khiến (tuy nhiên việc
này cũng khiến Xiêm trở nên nghi ngờ mối quan hệ Vạn Tượng-Nguyễn Ánh).
Tháng 3 âm lịch năm 1794, Quang Toản sai Phạm Văn Hưng và
Trần Quang Diệu vào Quy Nhơn. Quân Nguyễn ban đầu gặp Tây Sơn là rút chạy khiến
cho Tây Sơn tiến quân nhanh chóng: Tây Sơn đánh được tới tận vùng Ba Ngòi,
Khánh Hòa và sau đó là thủy bộ phối hợp vây thành Diên Khánh (khi này do Nguyễn
Phúc Cảnh và Bá Đa Lộc trấn giữ). Nguyễn Văn Hưng dẫn hơn 40.000 quân bộ tiến
đánh Phú Yên, Trần Quang Diệu mang thủy quân đánh Nha Trang. Dựa thế thành kiểu
mới vững chãi và việc Tây Sơn không có vũ khí công thành hiệu quả, quân Nguyễn
thực hiện nội công ngoại kích khiến cho Tây Sơn bị tiêu hao nhiều sinh lực và
buộc họ phải rút lui. Thấy thế, Nguyễn Ánh liền cho quân đuổi theo truy kích tới
tận đầm Thị Nại, nơi thủy binh của ông chiếm ưu thế và dồn ép mạnh quân Tây
Sơn. Ngoài ra, một số cánh quân Nguyễn khác gồm cả thủy lẫn bộ đánh trận ở nhiều
nơi, trong đó họ thắng vài trận quan trọng ở núi Chúa (nay thuộc Ninh Thuận) và
Đại Cổ Lũy (Quảng Ngãi) nhưng chẳng thể giữ lâu vì sức của quân Tây Sơn vẫn còn
mạnh.
Tháng 8 âm lịch năm 1794, Nguyễn Ánh cho Thái tử Cảnh về
Gia Định, tháng 9, Nguyễn Ánh cũng về Gia Định, để một mình Võ Tánh ở lại giữ
Diên Khánh. Tháng 11 âm lịch năm 1794, Trần Quang Diệu kéo quân bao vây thành
Diên Khánh còn Lê Trung cắt đường tiếp viện cho Võ Tánh tại Bình Thuận. Đến năm
1795, Tây Sơn phản công, họ cho quân nhiều lần vào đánh Phú Yên, vây thành Diên
Khánh lần nữa, và còn tìm cách mua chuộc Xiêm La với mục đích cô lập Nguyễn Ánh.
Tây Sơn định dùng kế "viễn giao cận công" (hòa xa đánh gần) nên mời
Xiêm La hợp tác. Tuy vậy, Nguyễn Ánh và vua Xiêm Rama I vốn có quen biết từ lâu
nên định hợp sức lừa lại Tây Sơn, cùng phối hợp, quân Xiêm đánh đường núi, quân
Nguyễn đánh đường thủy, giành lấy Phú Xuân, cô lập Quy Nhơn. Kế hoạch này không
thành vì Xiêm bận đối phó quân Miến Điện.
Quân Nguyễn dẫu lâm vào thế phòng thủ cũng ra sức chống cự,
nhiều lần kìm hãm, thậm chí là đánh lại được quân Tây Sơn nhưng vẫn không ngăn
được dòng tiến quân của Tây Sơn. Tướng Lê Trung tiến sâu vào lãnh thổ của quân
Nguyễn, đánh chiếm được đến tận Phan Rí. Tháng 2 âm lịch năm 1795, Nguyễn Ánh
ra sức phản công: cho Thái tử Cảnh giữ Gia Định, ông chia các tướng trấn giữ
nhiều nơi nhằm kiềm hãm Tây Sơn rồi tự mình đem binh đi cứu Diên Khánh, có lúc
đánh ra tận Phú Yên để tạo gọng kiềm kẹp quân Tây Sơn[. Mặc cho cố gắng vậy,
cho tới thời điểm tháng 4 năm 1795, mọi nỗ lực của quân Nguyễn đã không thể phá
được Tây Sơn mà chỉ tạo ra thế giằng co qua lại. Chiến cục giằng co này đặc biệt
rõ ở các khu vực Ninh Thuận - Khánh Hòa; trong khi thành Diên Khánh vẫn bị Tây
Sơn vây chặt.
Tuy nhiên, chính lúc này nội bộ Tây Sơn lại nổ ra mâu thuẫn,
các tướng tranh quyền: Tư khấu Võ Văn Dũng giết thái sư Bùi Đắc Tuyên và Ngô
Văn Sở trong khi Quang Toản bất lực không làm gì được. Lê Trung, người đang giữ
Phan Rí, lại thuộc phe Bùi Đắc Tuyên nên Võ Văn Dũng sai Nguyễn Văn Huấn đem
quân vào tìm cách trị tội. Lê Trung sau đó rút về hội quân với Quang Diệu để
vây Diên Khánh. Việc này khiến Trần Quang Diệu dù đang đánh trận cũng đành rút
quân chủ lực về Quy Nhơn giải quyết. Được dịp, quân Nguyễn ra sức tiến quân và
giải vây được cho Diên Khánh, đồng thời đánh chặn đường rút của Trần Quang Diệu
khiến cho quân Tây Sơn phải khó khăn lắm mới rút đi được. Khi Quang Diệu về tới
nơi thì nảy sinh mâu thuẫn, suýt đánh nhau với Võ Văn Dũng. May nhờ Quang Toản
sai Phan Huy Ích ra khuyên giải thì cả hai tướng mới đồng ý hòa. Các tướng Tây
Sơn chia làm bè phái, gọi là tứ trụ. Nhưng ngay sau đó Quang Toản lại nghe lời
gièm pha tước mất binh quyền của Trần Quang Diệu. Tây Sơn từ đó cứ lục đục mãi,
các quan tướng nghi kị giết hại lẫn nhau tạo thêm thuận lợi cho Nguyễn Ánh.
Tháng 8 âm lịch năm 1795, Nguyễn Ánh cho Tôn Thất Hội ở lại
giữ Diên Khánh, còn mình kéo hết quân về Gia Định.
Thống nhất quốc gia
Tháng 3 âm lịch năm 1797, Nguyễn Ánh dẫn đại quân ra đánh
Quy Nhơn. Nguyễn Văn Trương đánh được Tây Sơn ở Phú Yên, còn Võ Tánh và Nguyễn
Văn Thành đánh chợ Hội An (có lẽ chợ Hội An thuộc Phú Yên chứ không phải Hội An
ở Quảng Nam), riêng Nguyễn Ánh ra tận Quy Nhơn giao tranh với Lê Trung tại Thị
Nại thu được nhiều khí giới. Nhưng khi tới Quy Nhơn thấy thế Tây Sơn thủ mạnh
quá, Nguyễn Ánh vòng lên đánh Đà Nẵng rồi Hải Vân. Quân Nguyễn định đánh lấy
Chiêm Dinh (dinh Quảng Nam), quân Tây Sơn tập trung đông ở Đà Nẵng để phòng giữ.
Nhưng được mấy tháng, quân Nguyễn lại rút về vì thuyền chở quân lương từ Gia Định
bị ngược gió không lên kịp. Thời gian này, Nguyễn Ánh cho người dụ hàng Quang Bảo
nhưng việc chưa thành thì Quang Toản ra tay trước, bắt và giết được Quang Bảo.
Tuy nhiên, Tây Sơn lại rơi vào lục đục, Quang Toản nghi ngờ giết hại nhiều triều
thần, võ tướng, khiến cho sức chiến đấu suy giảm, thêm nhiều người sang hàng
Nguyễn Ánh.
Trên mặt trận ngoại giao, Nguyễn Ánh vẫn giữ áp lực với
Tây Sơn nhằm cô lập họ: ông vẫn giữ liên lạc vào giao thiệp thường xuyên với
Rama I nhằm thông báo tình hình với vua Xiêm. Tháng 8 năm 1797, Nguyễn Ánh sai
Trần Phước Chất sang Xiêm bàn việc phối hợp với quân Xiêm đánh Nghệ An, Thuận
Hóa bằng đường thượng đạo từ Vạn Tượng. Tháng 2 năm 1798, ông sai Nguyễn Huỳnh
Đức, Nguyễn Văn Trương dẫn thủy quân sang giúp Xiêm đánh Miến Điện và bàn việc
quân. Tháng 2 năm 1799, Nguyễn Ánh sai Nguyễn Văn Thụy (Thoại) và Lưu Phước Tường
sang Xiêm La, nhờ Xiêm cho một đạo quân Chân Lạp và Vạn Tượng đi đường núi đến
sát biên giới Nghệ An để nghi binh và vua Xiêm đồng ý làm theo. Đồng thời, theo
kế của Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường, Nguyễn Ánh còn cho sứ đi ngoại
giao với nhà Thanh, với mục đích lợi dụng mâu thuẫn và thù hằn của quốc gia này
với Tây Sơn, và cả sự có mặt của Lê Chiêu Thống ở Trung Quốc để khiến nhà Thanh
giúp mình. Nhưng việc không thành do khi sứ của Nguyễn Ánh là Ngô Nhơn Tĩnh và
Phạm Thận sang đến nơi thì Lê Chiêu Thống đã mất.
Tháng 3 âm lịch năm 1799, Nguyễn Ánh lại tự cầm đại quân đi
đánh thành Quy Nhơn, quân Nguyễn lợi dụng khi này Tây Sơn đang lục đục để tiến
quân nhanh chóng, đánh chiếm các vùng xung quanh rồi tới vây thành Quy Nhơn,
riêng Nguyễn Ánh dựa thế thủy binh có lúc tiến ra tận Quảng Ngãi. Đô đốc Tây
Sơn là Lê Chất hàng Nguyễn Ánh. Tuy Quang Toản ngay lập tức sai Trần Quang Diệu
và Vũ Văn Dũng đem quân vào cứu nhưng việc này không hiệu quả lắm do bị quân
Nguyễn chặn đánh gắt gao. Tháng 6 âm lịch năm 1799, Võ Văn Dũng và Trần Quang
Diệu tiến quân tới Quảng Ngãi, Lê Văn Duyệt và Tống Viết Phước chặn lại ở Tân
Quan. Diệu và Dũng định phối hợp đánh úp quân Nguyễn lúc nửa đêm, không ngờ có
người gặp con nai kêu lên, quân Tây Sơn tưởng bị quân Đồng Nai (quân Nguyễn) phục
kích, đội hình tan vỡ, bị quân Nguyễn truy sát. Lương thiếu mà chờ mãi không có
viện binh, các quan tướng giữ thành Quy Nhơn của Tây Sơn là Vũ Tuấn, Lê Văn
Thanh, Trương Tấn Thúy và Nguyễn Đại Phác cầm hơn 1 vạn quân mở cổng thành đầu
hàng.
Sau khi chiếm được thành Quy Nhơn, Nguyễn Ánh bèn đổi tên
Quy Nhơn thành Bình Định, rồi cho quân tới trấn giữ thành. Đồng thời, Nguyễn
Ánh cũng tìm cách thu phục dân chúng vùng Quy Nhơn vì ông biết rất rõ đây là đất
phát tích của Tây Sơn: ông tiếp tục chính sách tha thuế của Tây Sơn, trọng dùng
hàng binh và ra tay trừng phạt nặng các tướng lĩnh dưới quyền hà hiếp dân chúng
vùng này.
Cũng vì Quy Nhơn mang tính đất tổ, Tây Sơn ngay lập tức
tìm cách chiếm lại. Cuối năm 1799, hai đại tướng Tây Sơn là Thiếu phó Trần
Quang Diệu và Tư đồ Vũ Văn Dũng đã kéo quân bộ và thủy vào đánh thành Bình Định,
hai ông tiến quân nhanh chóng vì quân phòng thủ Nguyễn do Võ Tánh chỉ huy chống
không nổi cộng thêm nhiều hàng tướng hàng binh của Tây Sơn trong hàng ngũ quân
Nguyễn liên tục ra hàng Tây Sơn như Phạm Văn Điềm phản lại quân Nguyễn, chiếm
Phú Yên. Đến tháng 1 năm 1800, quân Tây Sơn bắt đầu vây thành Quy Nhơn, Trần
Quang Diệu đóng bộ binh ở Thạch Tân, Vũ Văn Dũng đóng thủy quân ở cửa biển Thị
Nại. Nguyễn Ánh liền cho quân ra cứu nhưng không tiến được do bị bộ binh Tây
Sơn chặn lại, ông thấy thế bèn chia quân đi đánh các nơi. Tháng 2 âm lịch năm
1800, Nguyễn Ánh lệnh cho Chân Lạp đưa 5.000 lính và voi sang giúp, tháng 5 thì
tới. Tháng 6 âm lịch năm 1800, hai tướng Nguyễn là Nguyễn Văn Thụy và Lưu Phước
Tường phối hợp với quân Vạn Tượng đánh xuống Nghệ An và Thanh Hóa gây cản trở
quân Tây Sơn ở phía Bắc.
Tháng 1 âm lịch năm 1801, Nguyễn Ánh cho thủy quân tấn
công Thị Nại, tiêu diệt hoàn toàn thủy quân Tây Sơn do Vũ Văn Dung chỉ huy. Tuy
nhiên, Tây Sơn vẫn còn vây chặt thành Bình Định. Nhận thấy quân Tây Sơn vây Quy
Nhơn còn mạnh, Nguyễn Ánh cho người lẻn mang thư đến bảo tướng quân Nguyễn giữ
thành là Võ Tánh mở đường máu mà trốn ra nhưng Võ Tánh kiên quyết tử thủ để tạo
đều kiện cho Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân, chính việc này khiến thời gian hai đại
tướng Tây Sơn bị cầm chân lên hơn một năm. Nhận thấy tinh binh Tây Sơn đều tập
trung cả ở chiến trường Quy Nhơn nên Nguyễn Ánh mang quân chủ lực vượt biển ra
đánh phía bắc. Tháng 3, quân Nguyễn chiếm được Quảng Nam. Ngày mồng 1 tháng 5
âm lịch năm 1801, Nguyễn Ánh kéo quân đánh nhau dữ dội với Tây Sơn ở cửa Tư
Dung. Đến mùng 2, quân Nguyễn đụng độ và bắt được Phò mã Tây Sơn Nguyễn Văn Trị
và Đô đốc là Phạm Văn Sách, rồi tiến vào cửa Eo, Quang Toản bỏ chạy ra Bắc Hà. Đến ngày 3, Nguyễn
Ánh giành được Phú Xuân. Sau đó, Nguyễn Ánh sai Lê Văn Duyệt và Tống Viết Phước
theo đường bộ và thủy về cứu thành Bình Định.
Nghe tin Quang Toản bại trận ở Phú Xuân, Trần Quang Diệu
đang vây thành Bình Định sai quân về cứu nhưng đụng độ quân Nguyễn của Lê Văn
Duyệt đang xuống phía nam nên quân không về được. Trong khi đó, Võ Tánh và Ngô
Tòng Châu cùng các tướng giữ thành Bình Định thấy đã cạn kiệt lương thực, biết
không chống nổi Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng, nên tự sát để bảo toàn tính mạng
cho quân lính trong thành. Tây Sơn tái chiếm thành Bình Định.
Tuy bị mất thành Bình Định nhưng Nguyễn Ánh vẫn tập trung
phần lớn binh tướng đối phó với cuộc phản công của Quang Toản ở phía bắc, khi
vua Tây Sơn dốc toàn lực ở Bắc Hà được hơn 3 vạn quân kéo vào để chiếm lại Phú
Xuân và giúp Trần Quang Diệu. Mùng 1 tháng giêng âm lịch năm 1802, Tây Sơn theo
đường biển và đường bộ đánh vào Phú Xuân. Nguyễn Quang Thùy dẫn thuyền chiến tới
cửa Nhật Lệ thì bị Nguyễn Văn Trương chặn đánh. Bùi Thị Xuân thúc voi dẫn quân
Tây Sơn đánh nhau với quân Nguyễn ở Trấn Ninh, quân Tây Sơn nghe tin bị thua ở
ngoài biển thì hỗn loạn, tan vỡ. Quang Toản chạy về Quảng Bình. Hay tin, Nguyễn
Ánh bèn tiến hành chặn đánh quân Tây Sơn ở sông Gianh, Quang Toản thua lớn bỏ
chạy ra Bắc Hà. Trên đà thắng lợi, Nguyễn Ánh sai Lê Văn Duyệt điều quân 3 mặt
đánh vào Quy Nhơn. Trần Quang Diệu cùng Vũ Văn Dũng nghe tin Quang Toản đã bại
trận, phải bỏ thành, mang quân ra cứu viện Nghệ An. Bị quân Nguyễn chặn đường,
quân Tây Sơn buộc phải vòng qua đường Vạn Tượng (Lào). Lúc tới Nghệ An thì thấy
thành đã mất, quân sĩ bỏ chạy gần hết, vợ chồng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân
bị bắt. Riêng
Vũ Văn Dũng không rõ số phận.
Sau khi chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Ánh làm lễ lên ngôi
hoàng đế ngày 2 tháng 5 năm Nhâm Tuất (nhằm ngày 1 tháng 6 năm 1802). Để tượng
trưng sự thống nhất Nam-Bắc lần đầu tiên sau nhiều năm, Nguyễn Ánh chọn niên hiệu
là Gia Long, Gia lấy từ Gia Định và Long lấy từ Thăng Long. Sau đó ông cho người
đem toàn bộ ấn sách nhà Thanh trao cho Tây Sơn trả lại và xin phong, rồi sai Lê
Văn Duyệt kéo quân tiếp ra Bắc Hà diệt hoàn toàn nhà Tây Sơn.
Tháng 6 âm lịch năm 1802, Gia Long tiến ra chiếm được
Thăng Long, Quang Toản không chống nổi, bỏ chạy và sau đó bị bắt. Nhà Tây Sơn bị
tiêu diệt, Gia Long chính thức thống nhất quốc gia, đặt tên nước là VIỆT NAM.
Biên tập
theo Wikipedia
Phạm Văn Hải