Trang

22 tháng 11, 2014

Sự cố sân bay Tân Sơn Nhất lên báo quốc tế

BTTD: Có gì đâu mà làm to chuyện. Mất điện đúng quy trình thui.
Sự cố mất điện ở sân bay Tân Sơn Nhất hôm 20/11 được báo nước ngoài quan tâm, sau khi một cựu quan chức sân bay cho rằng đây là trường hợp chưa từng xảy ra trên thế giới.
20141120-tansonnhat-wikicommon-3858-4657
Sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất, Việt Nam. Ảnh: Wikipedia Common
Trưa 20/11, nhiều chuyến bay quốc tế và trong nước đến sân bay Tân Sơn Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh, đều không thể hạ cánh vì hệ thống radar mất tín hiệu do sự cố mất điện tại đài kiểm soát không lưu. Ông  Lê Trọng Sành, nguyên trưởng phòng quản lý bay sân bay Tân Sơn Nhất, đánh giá đây là sự cố mà "trên thế giới chưa từng xảy ra trường hợp nào như thế".
Trong bài viết với tiêu đề "Mất điện ở sân bay Việt Nam, máy bay phải quay đầu", hãng thông tấn AFP đưa thông tin vụ việc và trích dẫn các báo trong nước. "Sự cố mất điện hôm 20/11 tại đài kiểm soát không lưu của sân bay lớn nhất Việt Nam khiến các radar không thu phát được tín hiệu trong hơn một giờ, buộc hàng loạt chuyến bay phải thay đổi hành trình", bài báo viết.
"Dù hồ sơ an toàn bay của Việt Nam là tương đối tốt, nhưng một chuỗi các sự cố xảy ra trong thời gian gần đây khiến du khách không khỏi lo lắng", AFPbình luận.
Trong khi đó, Channel News Asia còn liệt kê lại một số sự cố mà hàng không Việt Nam gặp phải trong năm qua.
Tháng trước, chiếc máy bay của hãng hàng không Vietnam Airlines chuẩn bị cất cánh từ sân bay Tân Sơn Nhất thì bị một trực thăng quân sự bay cắt mặt khiến hai phi cơ suýt xảy ra va chạm.
Hồi tháng 6, máy bay của VietJet Air chở theo 200 hành khách, dự kiến đáp xuống sân bay ở Đà Lạt nhưng cuối cùng hạ cánh tại một sân bay khác, cách đó hơn 100 km.
Hãng tin Xinhua của Trung Quốc dẫn nhận xét của ông Lại Xuân Thanh, Cục trưởng Cục Hàng không Việt Nam, Bộ Giao thông Vận tải, cho rằng, việc sân bay Tân Sơn Nhất bị mất điện là "sự cố kỹ thuật cực kỳ nghiêm trọng, chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử hàng không Việt Nam", trong bài viết được đăng tải hôm qua.
Nhật báo Strait Times của Singapore hay trang báo điện tử Global Post của Mỹ cũng đưa thông tin vụ việc trong mục những câu chuyện nổi bật.
Vũ Hoàng

40% nhân viên không lưu có tay nghề trung bình và yếu

Theo Bộ trưởng Giao thông Đinh La Thăng, chất lượng kiểm soát viên không lưu hiện nay rất thấp cả về trình độ và tiếng Anh. Đây được coi là những nguyên nhân gây ra sự cố hàng không thời gian qua.
Trao đổi với báo chí sáng 22/11, Bộ trưởng Đinh La Thăng nhìn nhận vụ việc sự cố mất điện tại Trung tâm kiểm soát đường dài Hồ Chí Minh và tiếp cận Tân Sơn Nhất (ACC HCM) ngày 20/11 là rất nghiêm trọng, không chỉ thiệt hại kinh tế cho các hãng hàng không mà còn ảnh hưởng đến hình ảnh đất nước. Ông Thăng khẳng định, Bộ Giao thông Vận tải sẽ làm rõ trách nhiệm và xử lý nghiêm các cá nhân có liên quan đến sự cố này.
"Không có lý do gì để cả 3 nguồn điện UPS đều bị mất, có nguyên nhân chủ quan hay khách quan, có bị phá hoại hay không sẽ được làm rõ", Bộ trưởng Thăng nói.
khong-luu-5119-1416625687.jpg
Kiểm soát viên không lưu là người dẫn đường cho máy bay. Ảnh: Đ.Loan
Bộ trưởng Thăng đánh giá, đề án nâng cao năng lực và chất lượng dịch vụ bay của Tổng công ty quản lý bay cho thấy nguồn nhân lực của tổng công ty, trình độ kiểm soát viên không lưu rất thấp cả về trình độ và tiếng Anh. Những vụ sự cố trong gần đây không phải trực tiếp do kiểm soát viên không lưu song cho thấy sự yếu kém của cả hệ thống.
Theo báo cáo của Tổng công ty Quản lý bay Việt Nam, nhân viên không lưu hiện có tỷ lệ tay nghề trung bình và yếu chiếm khoảng 40%, trình độ tiếng Anh chưa đạt tiêu chuẩn ICAO (mức 4) còn ở mức cao (chiếm 31%). Bên cạnh đó, nhận thức trách nhiệm nghề nghiệp của một bộ phận kiểm soát viên không lưu còn hạn chế, chưa thấy hết được tầm quan trọng, sự sống còn của đơn vị trong việc đảm bảo an toàn dẫn đến còn hiện tượng chủ quan, phân tán khi làm nhiệm vụ.
Theo Tổng công ty Quản lý bay, nguyên nhân do chưa có sự quan tâm đúng mức của lãnh đạo các cấp dẫn đến không có chiến lược, chính sách hữu hiệu cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực; chất lượng tuyển dụng đầu vào thấp, thiếu các chương trình, giáo trình, tài liệu có chất lượng. Đội ngũ giáo viên, huấn luyện viên thiếu cả về số lượng, hạn chế cả về chất lượng.
Mặc dù qua gần 20 năm,  ngành hàng không không có các vụ tai nạn có thiệt hại về người, tuy nhiên việc duy trì, bảo đảm an toàn trong toàn ngành nói chung và trong lĩnh vực điều hành bay nói riêng còn chưa vững chắc, các sự cố uy hiếp an toàn xảy ra ở tất cả các khâu trong đó nguyên nhân chủ quan do yếu tố con người chiếm tỷ trọng lớn.
Kiểm soát viên không lưu là con cháu lãnh đạo

Về thông tin một trong 4 kiểm soát viên điều hành hôm 29/10 xảy ra vụ máy bay Vietnam Airlines vi phạm khoảng cách với máy bay quân sự huấn luyện là con cháu lãnh đạo Công ty quản lý bay miền Nam, ông Đoàn Hữu Gia, Phó tổng giám đốc Tổng công ty quản lý bay VN, cho biết: “Ngành nào cũng có con cháu cả, không riêng gì ngành hàng không. Con cháu của tổng giám đốc hay ai khi vào công ty cũng phải đáp ứng được năng lực và chịu trách nhiệm trước cơ quan. Chúng tôi đối xử bình đẳng với tất cả cán bộ nhân viên trong ngành”.
Đoàn Loan

21 tháng 11, 2014

Một quốc gia nhỏ chỉ ăn rồi chơi


Tạ Duy Anh/ Quê Choa
Có lẽ không quốc gia nào mà cuộc sống của giới công chức chứa nhiều điều nghịch lý như ở Việt Nam: Lương không đủ sống nhưng lại thuộc thành phần khá giả của xã hội; đã vào biên chế là có thể nằm lỳ cho đến hết đời, ngang nhiên đòi hỏi mọi chế độ phúc lợi, ngay cả khi chẳng làm gì; là người làm thuê cho dân nhưng lại hành xử như ông chủ có quyền ban ơn; năng lực cũng như tinh thần trách nhiệm trước công việc phần lớn ở mức trung bình và thấp, nhưng cực kỳ có khả năng trong việc kinh doanh “quyền lực Nhà nước” để tư lợi ...Nhưng điều nghịch lý nhất là một nền hành chính cồng kềnh, ì ạch, dôi dư cả triệu người như vậy lại vẫn cứ đang tiếp tục ngày một phình to?

Không phải là do tôi bịa ra hiện thực đó. Trong một hội nghị có đưa tin trên truyền hình và sau đó hầu như các báo đều đưa lại, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói thẳng ra rằng: “Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”. Nói cách khác, cái số 30% công chức đó hoàn toàn không cần thiết, y như cái bướu trên cổ. Với 2,8 triệu công chức, chỉ cần làm phép tình nhẩm cũng ra ngay con số thuộc diện có cũng như không kia khoảng trên 800.000 người. Nghĩa là mỗi 100 người dân Việt Nam, phải nuôi không một ông (bà) vô công rồi nghề mang danh công chức! Vậy tại sao một nền dịch vụ công chỉ cần 2 triệu người, mà phải trả lương cho tận những gần ba triệu? Ai phải chịu trách nhiệm về vấn đề này? Trong khi chưa thể tìm ra câu trả lời, chúng tôi chỉ xin làm thứ công việc đơn giản hơn là giúp mọi người hình dung một phần cái gánh nặng vật chất và tinh thần mà cả xã hội đang phải è lưng chịu đựng, để “cõng” gần một triệu công chức dư thừa đó.

Trước hết, 800 ngàn người lớn đến mức nào? Đó là số dân (hơn kém chút ít) của Cyprus, Bahrain, Bhutan, Qatar, Đông Timor...Hay nó có quy mô gấp đôi dân số Luxemburg, Brunei, Malta, Iceland...

Thứ hai, và đây là vấn đề chính, cần bao nhiêu tiền để nuôi cái đám công chức thừa thãi ấy? Chắc chắn là không ai có thể tính chính xác, vì có những công chức thuộc loại dư thừa, nhưng lại hưởng mức thu nhập nhiều người mơ ước. Hẵng chỉ tính đơn giản thế này: Mỗi người trong số đó, vì họ là công chức, nên thuộc diện thu nhập trung bình khá (so với mức 1000 USD trung bình) sẽ nhận của Nhà nước khoảng 60 triệu đồng (gần 3000 USD) một năm. Nghĩa là cần số tiền lên tới 50.000 tỷ đồng (2,5 tỉ USD) cho việc chi lương để ngày ngày 800.000 người ăn mặc sang trọng chỉ để “sáng vác ô đến cơ quan, tối vác ô về nhà” mà không làm bất cứ việc gì. Tuy nhiên, số tiền phải bỏ ra phục vụ việc ngồi chơi xơi nước của “một quốc gia nhỏ” ấy trên thực tế còn lớn hơn nhiều. Theo thông lệ thì số tiền lương cho công chức chỉ bằng hai phần ba số tiền phải chi ra để họ có thể làm việc, được tính vào khoản duy trì hoạt động của cơ quan Nhà nước. Đó là tiền thuê nhà, tiền điện, tiền điện thoại, tiền khấu hao tài sản, tiền phúc lợi, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, chi phí đi lại và cơ man nào những thứ tiền khác được gọi bằng cái tên chung là văn phòng phí. Khiêm tốn tính gộp thì con số 50.000 tỉ đó phải cộng thêm khoảng 20.000 tỉ đồng. Giờ ta thử xem 70.000 tỷ đồng nhiều đến mức nào? Nó nhiều hơn toàn bộ số tiền thu được từ xuất khẩu gạo năm 2012; nó bằng khoảng 10-12 lần số tiền phí bảo trì đường bộ mà Bộ GTVT dự kiến thu được hằng năm từ ô tô, xe máy với giá phải trả là hứng chịu biết bao lời chì chiết của dư luận; nó bằng già nửa số tiền 120.000 tỉ đồng cần để nâng cấp quốc lộ 1A lên thành đường bốn làn xe ô tô; nó giúp cho khoảng 7 triệu dân miền núi đủ gạo ăn trong một năm để không phá rừng. Nếu có ngần ấy số tiền, toàn bộ các xã nghèo miền núi có trường học, có chợ, có đường trải bê tông. Nó có thể mua được số bò giúp cho Chương trình Lục lạc vàng duy trì liên tục 150.000 buổi, với khoảng 900.000 gia đình nông dân thuộc dạng nghèo nhất nước có cơ hội đủ cơm ăn. Nó là con số dài tới mức mà không một nông dân bình thường nào đọc chính xác được.

Nhưng đấy mới chỉ tính về khoản vật chất, cho dù không hề nhỏ nhưng chưa chắc đã là lớn nhất. Tai họa của nạn biên chế tràn lan là nó khiến cho bộ máy hành chính công của chúng ta thuộc loại cồng kềnh, kém hiệu quả và lạc hậu vào loại nhất khu vực. Nhàn cư vi bất thiện. Vì không làm gì nên những ông, bà công chức thừa thãi trên trở thành những “con bệnh” của xã hội. Ta hãy xem họ làm gì mỗi ngày để tiêu hết 8 giờ vàng ngọc? Nếu là đàn ông thì phần lớn lướt web, chơi game oline, xem phim sex, tìm cách môi giới chạy chọt dự án. Thời gian còn lại ngồi nghĩ mưu kế tư lợi hoặc hại người khác. Còn với thành phần nữ giới thì mua sắm tối ngày, ăn uống, khoe của tối ngày, buôn dưa lê tối ngày... Nhiều người coi trụ sở cơ quan chẳng hơn gì cái bếp nhà mình, tranh thủ tận dụng điện nước miễn phí để nấu nướng. Số còn lại, nếu không làm những việc như trên, thì làm chim bói cá, cứ thấy ở đâu có mầu mỡ là đến. Cũng vì thừa dẫn đến lười, ích kỷ, đấu đá chèn ép nhau thay vì thực thi công vụ. Có rất nhiều người cả một đời công chức chỉ chuyên kiện cáo, lao vào đấu đá vì những lợi ích cá nhân. Nhưng lương của họ thì vẫn cứ đến hẹn lại lên. Chức của họ thì cứ thăng tiến theo tuổi tác. Kèm với lương với chức là đủ thứ tiêu chuẩn ưu đãi khác. Những công bộc này, về nguyên tắc là những người giúp việc cho “ông chủ” Nhân dân, nhưng trên thực tế cũng là những người quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, tham lam, làm khổ “ông chủ” vào loại nhất thế giới. Làm bất cứ việc gì thuộc phạm vi chức phận cũng đòi lót tay. Trong bất cứ nhiệm vụ nào cũng lồng lợi ích của mình vào. Từ lái xe, nhân viên đóng dấu, nhân viên gác cổng...đến những người có tí chức, tí quyền đều là những kẻ chỉ thạo ăn tiền, vòi vĩnh, hạch sách...biến cửa Công đường thành nơi nhếch nhác, bất tín, đáng sợ hơn cả hang hùm. Nền đạo đức xã hội xuống cấp, có phần đóng góp không nhỏ của những thành phần được gọi là công chức ấy.

Nhưng thiệt hại vẫn chưa dừng lại ở đó. Nạn chạy chức chạy quyền thì ai cũng biết. Nhưng nạn chạy chọt để được thành công chức Nhà nước còn khốc liệt hơn và cũng bi hài hơn rất nhiều. Vì số người tham gia luôn rất đông, diễn ra trên một diện rộng, với sự tham gia của mọi thành phần. Nó làm hư hỏng cả người có quyền nhận và người được nhận. Người có quyền nhận thì một khi đã lấy tiền, đã nhúng chàm, làm sao còn dám yêu cầu cấp dưới phải nêu cao đạo đức, kỷ cương, nhân cách-ngoại trừ đó là một truyện hài! Người được nhận vào làm công chức thì cậy tiền nên không cần học, không cần trau dồi chuyên môn, coi thường kỉ cương, phép tắc. Đó là chưa kể họ phải tìm cách ăn chặn, ăn bẩn, vơ vét bằng mọi cách để bù lại số vốn đã bỏ ra.

Nhưng những bệnh tật trên, dù rất trầm trọng, nếu quyết tâm ngăn ngừa, vẫn còn nhiều hy vọng chữa chạy, dù rất tốn kém. Song có một thứ bệnh do nạn chạy công chức gây ra rất khó chữa, thuộc loại nan y, là bệnh ỷ lại, lười biếng và mất khả năng tự trọng. Căn bệnh thuộc loại lây nhiễm này có thể huỷ hoại nhân cách cả một thế hệ, góp phần làm nghèo đất nước. Người ta cần một cái bằng đại học với bất cứ giá nào đôi khi không phải để sau đó làm việc, cống hiến, mà để có cơ hội gia nhập cái đội quân công chức vốn là thừa thãi kia. Với những người này, cái điều đáng lẽ thành nỗi xấu hổ khi chả làm gì ngoài việc “sáng vác ô đi, tối vác ô về”, thì lại là mục tiêu phấn đấu, là sự nghiệp của đời họ. 

Liệu có khác gì một thứ quốc nạn?

(Rút từ cuốn Làng quê đang biến mất, NXB Hội nhà văn và Công ty Văn hóa truyền thông Nhã Nam ấn hành tháng 5-2014.)

Tác giả gửi Quechoa với sự cho phép của Nhã Nam

Khi Tổng...chống tham nhũng, tham nhũng...

Ông Trần Văn Truyền và những câu nói chống tham nhũng nổi bật

Đăng Bởi  - 
Ảnh: Internet
Ảnh: Internet
Ông Trần Văn Truyền nguyên là Tổng Thanh tra Chính phủ từ năm 2007 đến năm 2011. Thanh tra Chính phủ là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ Việt Nam, có chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng ngừa, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.
Vì vậy, với cương vị là người đứng đầu cơ quan Thanh tra Chính phủ, ông Trần Văn Truyền đã có rất nhiều lần phát biểu trước báo giới liên quan đến các vấn đề, trường hợp tham nhũng, chống tham nhũng, chống tiêu cực tại Việt Nam.
Mời bạn đọc cùng Một Thế Giới điểm lại một số câu nói nổi bật nhất của ông Truyền trong thời gian đảm nhiệm các trọng trách quan trọng.
Xử lý tham nhũng cán bộ nghỉ hưu dễ hơn 
Năm 2005, khi còn là Phó chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra trung ương, ông Truyền từng khẳng định rằng: Hiện nay tính chất tham nhũng ngày càng phức tạp. Mức độ tổn thất do tham nhũng cũng lớn hơn. 
"Hồi xưa, nghe vài trăm triệu đồng đã kinh hồn, giờ hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ... Nội vấn đề đất đai nó chỉ cần quặt quẹo trên quy hoạch, cấp phép lòng vòng một chút, khi phát hiện ra thì đã mất hàng trăm tỉ đồng rồi", ông nói.
Bên cạnh đó, cách thức tham nhũng cũng rất đa dạng; có thể là vi phạm pháp luật để tham nhũng, cũng có thể bằng những cách rất hợp pháp như mua bán, đầu cơ đất đai. 
"Song hợp pháp đến đâu, khi truy nguyên nguồn gốc cũng là tham nhũng. Vì nhờ có chức quyền, anh nắm được quy hoạch, đầu cơ đúng chỗ đúng lúc nên mới mua 1 đồng bán 10, 100 đồng. Biểu hiện tham nhũng rất rõ: một số cán bộ giàu lên nhanh chóng. Căn cứ đồng lương, kể cả việc sản xuất kinh doanh gia đình cũng không thể lý giải được mức sống đó".
"Qua những vụ tham nhũng lớn vừa rồi, chúng tôi nhận thấy xử lý cán bộ đã nghỉ hưu dễ hơn nhiều. Còn người gián tiếp mà đang tại chức, họ chạy (chức) rất dữ".
Cũng trong bài báo đó, khi nói về vấn đề cán bộ kê khai tài sản, ông Truyền chắc nịch: "là cần thiết để giám sát, quản lý cán bộ... Trong nền kinh tế 2 mặt của chúng ta thì kê khai tài sản cũng chỉ mang tính tương đối. Có phải cái gì cũng thể hiện bằng nhà, đất. Ngay cả nhà, đất họ có đứng tên đâu; tiền cho con du học thì họ khai là cô dì, chú bác... cho (Pháp Luật TP.HCM, 5.7.2005).

Cái chính là do phẩm chất đạo đức 
"Vị trí trách nhiệm của mình đang được người dân quan tâm, kỳ vọng, tôi ý thức được chuyện đó và sẽ làm hết sức mình, làm đầy đủ trách nhiệm và dám chịu trách nhiệm.
Đúng là có những việc vượt ngoài khả năng của mình, thậm chí có việc trong khả năng nhưng không thể làm khác nữa được thì cũng phải chấp nhận, vì không thể một mình giải quyết được. Tôi sẽ suy nghĩ và tự thấy khi nào đó không hoàn thành nhiệm vụ hoặc dân hết tín nhiệm thì mình sẽ thôi, sẽ từ chức".
"Bất cứ cuộc thanh tra nào, bất cứ vụ giải quyết án nào cũng đều có “chạy”. Chạy trực tiếp, chạy gián tiếp, chạy nhiều, chạy ít tùy mỗi việc". "Cái chính là do phẩm chất đạo đức, họ không tự giữ mình" - (TTO, 30.3.2007).
Càng công khai, càng minh bạch, càng dễ kiểm soát
Bên lề cuộc đối thoại với các nhà tài trợ về phòng chống tham nhũng, ông Truyền cho biết Chính phủ đang xây dựng chiến lược phòng chống tham nhũng từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. 
Trong đó, theo ông công khai, minh bạch là vấn đề cốt lõi nhất, xương sống nhất. 
"Càng công khai, minh bạch, càng kiểm soát được tình hình; nhất là công khai các hoạt động của bộ máy nhà nước, công khai các việc mà công chức nhà nước phải làm; từ đây công khai, minh bạch luôn cả về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức" - (TTO, 4.12.2007).

Chỉ có báo chí chùng, cơ quan tham nhũng không chùng
Về những vụ án tham nhũng được coi là “đầu voi đuôi chuột”, ông Truyền giải thích: "Có những vụ bản chất không nghiêm trọng nhưng do cách xử lý của các cơ quan chức năng chưa thật rõ ràng, dứt khoát đã dẫn đến hiểu lầm... Việc “chùng” xuống là do cách thông tin".
"Nếu được nói trên diễn đàn Quốc hội, tôi sẽ nói công tác chống tham nhũng hiện không chùng xuống, nếu chùng xuống thì chỉ có báo chí chùng, còn các cơ quan chống tham nhũng khác không chùng".
Đối với vấn đề cán bộ liệt kê - công khai tài sản, ông nói: “Luật không quy định công khai mà chỉ yêu cầu thẩm tra khi bị tố cáo, hay trước khi bổ nhiệm. Nếu thẩm tra thấy không đúng mới công khai. 
Hiến pháp đã quy định người dân có quyền giữ bí mật tài sản của mình. Nên chúng tôi không thể kiến nghị sửa hiến pháp được. Hiến pháp chưa sửa thì chưa thể công khai" - (TTO, 31.10.2008).
Phải theo dõi cả hồ sơ kê khai tài sản của cán bộ nghỉ hưu
Giải thích lý do vì sao đợt kê khai tài sản của các bộ đầu tiên đầu tiên (31.12.2007) Thanh tra Chính phủ chưa đặt ra vấn đề các cán bộ, công chức đã kê khai đầy đủ, trung thực hay chưa, thì ông Truyền cho hay đây là nghĩa vụ và thực hiện theo pháp luật quy định. Nó mang tính pháp lý đối với cán bộ, công chức. 
Ý nghĩa của việc kê khai tài sản lần này chỉ nhằm mục đích xác lập hồ sơ kê khai tài sản ban đầu của cán bộ, công chức. Các cơ quan chức năng sẽ dựa vào bảng kê khai này như một lời cam kết, trình bày của cán bộ với tổ chức. 
Sau này, trong quá trình quản lý, nếu phát hiện cán bộ nào kê khai không trung thực sẽ bị xử lý. Hoặc sau này, tài sản của người đó có khác đi thì phải giải trình cho tổ chức một cách rõ ràng. Giải trình không rõ, có nghĩa là không trung thực với tổ chức và phải bị xử lý kỷ luật về tội không trung thực.
Cũng theo ông, hồ sơ kê khai tài sản được theo dõi, quản lý theo cả một quá trình, ngay cả khi cán bộ đó nghỉ hưu, hoặc chuyển công tác sang ngành khác, địa phương khác. Trong trường hợp đã về hưu mà phát hiện có tài sản bất minh, không giải trình được, lúc đó cơ quan pháp luật cũng sẽ căn cứ theo luật hiện hành để xử lý - (VnEconomy 10.2.2009).
Đấu tranh chống tham nhũng là phải biết hy sinh
Trao đổi với báo chí tại hành lang Quốc hội trước phiên đối thoại với Tổ chức Minh bạch quốc tế về tham nhũng trong giáo dục (sáng 28.5.2010), Tổng thanh tra Chính phủ khi còn đương chức cho biết tham nhũng trong giáo dục đang phức tạp và khuyên những người đấu tranh phải biết hy sinh. Bản thân ông cũng phải hi sinh nhiều.
"Tiêu cực trong giáo dục vẫn tồn tại nhiều. Nói chung dư luận xã hội có nhiều, nhưng đánh giá vấn đề phải có những bằng chứng cụ thể".
"Đấu tranh chống tham những, tiêu cực rất gian nan, khó khăn nên chúng ta phải có bản lĩnh, dám đương đầu và chấp nhận để đấu tranh. Nếu đấu tranh mà giải quyết được tình trạng tiêu cực thì đó là có lợi cho cái chung, đất nước đang cần, nhân dân đang mong" - (TTO 28.5.2010).
Khai là phải trung thực
Sáng 14.6.2010 bên hành lang Quốc hội, ông Truyền đã có cuộc trao đổi với báo chí về một số vấn đề liên quan đến việc kê khai tài sản của ông Ðặng Hạnh Thu, người vừa bị cho thôi chức tổng cục trưởng Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính) vào thời gian đó.
Cụ thể, dư luận và báo chí phản ánh ông Ðặng Hạnh Thu có nhiều lô đất ở Ðồng Nai, nơi ông này từng làm cục trưởng Cục Hải quan (trước khi làm tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, ông Thu là phó tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan).
Ông nói: "Thứ nhất, về đất mua như vậy là đúng pháp luật, công khai, minh bạch. Thứ hai là có kê khai tài sản, và nói chung trong việc này nếu xét trên nhiều góc độ cũng không có vấn đề gì gọi là sai trái nghiêm trọng. Thế nhưng có việc anh là cán bộ mà mua quá nhiều đất.
"Bây giờ tiền thì thiếu gì nguồn, chứ đâu phải mình hỏi lấy tiền đâu chung chung vậy. Hơn nữa vì gia đình vợ anh Thu làm doanh nghiệp, làm ăn kinh tế, có khả năng thì mua cũng là điều bình thường. Chỉ có chuyện trong thời điểm đó mà mua nhiều nền đất như thế thì người ta không đồng tình thôi. Chứ còn về tiền nong thì không có vấn đề gì khuất tất".
"Kê khai tài sản thì nhiều hay ít là do tài sản, khai phải trung thực chứ không lo khai nhiều thì sẽ có ý kiến này ý kiến khác", ông nói thêm - (TTO, 15.6.2010).
Thi Anh tổng hợp

Hoa Kỳ ra nghị quyết tranh chấp biển

  • 21 tháng 11 2014
Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ vừa nhất trí thông qua nghị quyết về tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông và Biển Hoa Đông.
Kết quả biểu quyết được chủ tịch Ủy ban này, Dân biểu Ed Royce, thông báo sau phiên điều trần hôm 20/11.
Nghị quyết, mang mã số H.Res-714 được ủy ban của Hạ viện Mỹ phê chuẩn với sự đồng thuận tuyệt đối.
Được Dân biểu Dân chủ Eni Faleomavaega đề xuất hồi tháng Chín năm nay, nghị quyết lên án các hành động cưỡng chế hoặc sử dụng vũ lực gây hấn, cản trở các quyền tự do tại vùng biển và không phận quốc tế ở khu vực châu Á Thái Bình Dương.
Nghị quyết này cũng chỉ trích việc Trung Quốc thiết lập vùng nhận dạng phòng không trên Biển Hoa Đông và kêu gọi nước này không có các hành động tương tự trên những vùng biển khác trong khu vực.
Dân biểu Faleomavaega cũng thúc giục chính phủ Hoa Kỳ tái khẳng định sự ủng hộ đối với các giải pháp ôn hòa, mang tính tập thể trong tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông và Biển Hoa Đông, cũng như đối với quyền tự do hàng hải, quyền sử dụng vùng trời và vùng biển trong khu vực châu Á Thái Bình Dương theo khuôn khổ luật pháp quốc tế.
Nghị quyết đồng thời kêu gọi các nước ASEAN cũng như đồng mình, đối tác của Hoa Kỳ và các bên có yêu sách thúc đẩy việc thiết lập Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC).
Trong buổi điều trần tại Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ hôm 20/11, ông Faleomavaega nhắc lại những điều mà ông gọi là 'hành động gây hấn' trong khu vực của Trung Quốc, bao gồm việc cắt dây cáp tàu thăm dò của Việt Nam hồi năm 2011, dùng súng đe dọa ngư dân Việt Nam và thành lập thành phố Tam Sa.
Ông cũng nói ông "muốn tán dương lập trường ôn hòa nhưng kiên định của Việt Nam, vốn đã dẫn đến việc Trung Quốc phải rút lui giàn khoan HD981".

Thu hồi nhà, đất của ông Trần Văn Truyền

Ngày 21/11, UB Kiểm tra TƯ đã có thông cáo báo chí về kết luận kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm về thực hiện chính sách nhà, đất đối với ông Trần Văn Truyền, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Ban cán sự đảng, nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ.

Toàn văn thông cáo như sau: Thực hiện chỉ đạo của Ban Bí thư, UB Kiểm tra TƯ đã tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm về thực hiện chính sách nhà đất đối với đồng chí Trần Văn Truyền, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Ban cán sự đảng, nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ. Sau khi báo cáo xin ý kiến Ban Bí thư, UB Kiểm tra TƯ thông báo:
Tại kỳ họp lần thứ 26, ngày 02-03/10/2014 và kỳ 27, ngày 29-30/10/2014 qua xem xét, thảo luận báo cáo kết quả kiểm tra, UB Kiểm tra TƯ nhận thấy:
Đồng chí Trần Văn Truyền là cán bộ xuất thân từ gia đình có công với cách mạng, có quá trình cống hiến lâu dài, đảm nhiệm nhiều chức vụ lãnh đạo chủ chốt ở địa phương và cơ quan Trung ương, có những đóng góp thiết thực trong công tác xây dựng Đảng và chính quyền trên các cương vị và chức trách, nhiệm vụ được giao.
Tuy nhiên, trong thời gian còn đương chức và khi về nghỉ hưu, đồng chí đã có một số khuyết điểm, vi phạm trong thực hiện chính sách nhà, đất như sau:
1. Về thửa đất tại số 598B5 Nguyễn Thị Định, phường Phú Khương, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre
Tháng 12-1992, đồng chí Trần Văn Truyền được Quân khu 9 cấp thửa đất tại lô số 61 thuộc Khu C, địa chỉ 598B5 Nguyễn Thị Định, phường Phú Khương, thị xã Bến Tre do đơn vị Quân y thuộc Tỉnh đội Bến Tre quản lý với diện tích 210 m2 (diện tích trên thực tế là 351 m2). Việc đồng chí Trần Văn Truyền tuy không phải là cán bộ quân đội nhưng được cấp mảnh đất trên là do Tỉnh đội Bến Tre đề nghị với Quân khu 9, trong khi đồng chí không có đơn đề nghị, không có xác nhận của cơ quan, đơn vị nơi công tác.
Sau khi được cấp đất, gia đình có san lấp mặt bằng, làm tường rào nhưng không làm nhà ở mà cho người khác mượn để mở quán bán cơm. Đến năm 2002, khi được chính quyền địa phương thông báo nộp 16 triệu đồng tiền sử dụng đất để làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đồng chí Trần Văn Truyền làm đơn đề nghị miễn giảm tiền sử dụng đất theo chính sách với gia đình người có công và được Cục Thuế tỉnh Bến Tre quyết định miễn giảm theo Nghị định số 38/CP, ngày 23-8-2000 của Chính phủ đúng với số tiền là 16 triệu đồng.
Năm 2007, UB Kiểm tra TƯ tiến hành kiểm tra Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bến Tre về nhà ở, đất ở. Qua kiểm tra cho thấy, năm 1992, đồng chí Trần Văn Truyền đã nhận đất của Quân khu 9, đến năm 2003 đồng chí lại được tỉnh bán cho căn nhà số 06 Lê Quý Đôn, Phường 1, thành phố Bến Tre theo Nghị định 61/CP của Chính phủ; do vậy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã yêu cầu đồng chí Truyền trả lại mảnh đất trên cho Tỉnh đội Bến Tre quản lý; đồng chí Trần Văn Truyền cũng đã có đơn trả lại. Nhưng từ năm 2007 đến nay, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh chưa thu hồi được thửa đất trên, do giữa gia đình đồng chí Trần Văn Truyền và các cơ quan chức năng của tỉnh chưa thống nhất được mức giá đền bù phần chi phí gia đình bỏ ra để san lấp mặt bằng và làm tường rào. Trong khi chưa giải quyết dứt điểm, thì đến năm 2013, đồng chí lại có đơn xin làm nhà tạm trên lô đất này cho con dâu làm kho chứa bia và đã được Sở Xây dựng cấp giấy phép.
Như vậy, đồng chí Trần Văn Truyền biết mình không đúng đối tượng được cấp đất, nhưng vẫn nhận. Sau khi đã được mua nhà theo Nghị định số 61/CP và sau khi được Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu trả lại, đồng chí đã không kiên quyết, dứt khoát thực hiện, sau đó lại có đơn xin làm nhà tạm để con dâu sử dụng. Việc làm trên của đồng chí Trần Văn Truyền thể hiện sự thiếu gương mẫu của người cán bộ lãnh đạo, gây dư luận không tốt đối với bản thân đồng chí.
Thường trực Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bến Tre và các cơ quan chức năng thực hiện không nghiêm chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc thu hồi đất, để kéo dài, gây dư luận không tốt đối với lãnh đạo ở địa phương.
Trần Văn Truyền, tham nhũng, biệt thự, Thanh tra Chính phủ 
2. Về căn nhà tại số 06 Lê Quý Đôn, Phường 1, thành phố Bến Tre
Năm 2002, UBND tỉnh đồng ý cho gia đình đồng chí Trần Văn Truyền, được thuê căn nhà số 06 Lê Quý Đôn, Phường 1, thành phố Bến Tre với diện tích: nhà chính 118,22 m2, nhà phụ 24,48 m2, khuôn viên đất 117,69 m2. Trước khi đồng chí nhận nhà, Công ty Xây dựng và Phát triển nhà Bến Tre đã tiến hành sửa chữa, cải tạo mới căn nhà trên với tổng chi phí là 413,385 triệu đồng.
Năm 2003, khi đã chuyển công tác ra Hà Nội, đồng chí Trần Văn Truyền có đơn xin mua căn nhà số 06 Lê Quý Đôn và đã được UBND tỉnh Bến Tre ra Quyết định chuyển quyền sử dụng đất và bán cho đồng chí căn nhà trên theo Nghị định 61/CP. Trong đơn xin mua nhà, đồng chí Truyền cam kết chưa được cấp đất theo chính sách nhà, đất của Nhà nước. UBND tỉnh Bến Tre đã quyết định bán cho đồng chí Trần Văn Truyền căn nhà trên theo Nghị định 61/CP, với số tiền miễn giảm là 76,291 triệu đồng; số tiền còn phải nộp cho Nhà nước là 277,969 triệu đồng.
Như vậy, thời điểm mua căn nhà trên, đồng chí Trần Văn Truyền đã được hưởng chính sách miễn giảm tiền sử dụng đất tại số 598B5 Nguyễn Thị Định trước đó vào năm 2002. Bản thân đồng chí Trần Văn Truyền đã thiếu tự giác, thiếu gương mẫu khi đồng thời trong hai năm 2002 và 2003 được hưởng 2 lần chính sách về nhà, đất của Nhà nước, không đúng với quy định tại khoản 4, Điều 2, Nghị định 61/CP của Chính phủ "Việc hỗ trợ tiền sử dụng đất đối với người có công với cách mạng chỉ xét một lần cho một hộ gia đình...”. Việc UBND tỉnh chỉ đạo cho sửa chữa, bán cho đồng chí Trần Văn Truyền căn nhà số 06 Lê Quý Đôn cũng có một số khuyết điểm, vi phạm.
3. Về căn nhà số 105 Nguyễn Trọng Tuyển, Phường 15, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh
Năm 2003, khi đã chuyển ra Hà Nội công tác, đồng chí Trần Văn Truyền có đơn gửi UBND Thành phố Hồ Chí Minh trình bày hoàn cảnh khó khăn do công tác xa ở Hà Nội và có nhu cầu nhà ở tại Thành phố Hồ Chí Minh trong khi gia đình không có khả năng mua đất để xin thuê nhà tại Thành phố và đã được UBND Thành phố giải quyết cho đồng chí thuê căn nhà số 105 Nguyễn Trọng Tuyển, Phường 15, quận Phú Nhuận.
Năm 2008, do thời hạn hợp đồng gần hết, đồng chí có làm đơn và được Công ty Quản lý - Kinh doanh nhà Thành phố Hồ Chí Minh đồng ý chuyển tên trong hợp đồng cho con gái là Trần Thị Ngọc Huệ làm việc tại Công ty cổ phần Bảo hiểm dầu khí Sài Gòn, tiếp tục được thuê căn nhà trên.
Đến tháng 3-2011, đồng chí làm đơn trình bày hoàn cảnh khó khăn, bức xúc về nhà ở và đề nghị UBND Thành phố Hồ Chí Minh bán căn nhà này cho đồng chí và để con gái là Trần Thị Ngọc Huệ đứng tên. Sau đó các cơ quan chức năng của Thành phố Hồ Chí Minh đã đồng ý bán căn nhà trên cho bà Trần Thị Ngọc Huệ theo hình thức thu 100% tiền sử dụng đất theo đơn giá do Thành phố quy định hàng năm và thực hiện quy trình bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước theo Nghị định 61/CP của Chính phủ, nhưng không tính miễn, giảm các khoản được hỗ trợ theo chính sách. Vào thời điểm tháng 7/2014, qua kiểm tra và báo cáo của công an quận Phú Nhuận, đồng chí Trần Văn Truyền và gia đình không sử dụng căn nhà này mà cho người khác ở và bán hàng.
Tại thời điểm làm đơn xin mua căn nhà này, vợ đồng chí là bà Phạm Thị Thủy đang đứng tên sở hữu căn nhà số 465/48C khu phố Phước Hậu, phường Phú Khương, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh là nhà được tặng; con gái đồng chí là Trần Thị Ngọc Huệ đang đứng tên sở hữu căn hộ 28.04A, Khu căn hộ cao cấp Hùng Vương tại Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
Như vậy, đồng chí Trần Văn Truyền đã thiếu trung thực, không báo cáo thông tin đầy đủ, đúng sự thật về nhà, đất; đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến quyết định bán nhà của UBND Thành phố Hồ Chí Minh không đúng đối tượng và chính sách của Nhà nước. Sau khi được mua thì không sử dụng ngay mà lại để cho người khác ở và bán hàng. Việc làm trên của đồng chí là có vi phạm, làm cho uy tín cá nhân bị giảm sút, gây dư luận xấu trong xã hội.
4. Về nhà công vụ tại số 61, đường Trần Quang Diệu, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội
Năm 2004, đồng chí Trần Văn Truyền được Cục Quản trị A, Ban Tài chính quản trị Trung ương hợp đồng với Văn phòng Chính phủ cho thuê nhà công vụ phòng số 607, B1, Khu nhà A, 61 Trần Quang Diệu, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội với diện tích 95m2...
Tháng 10-2011, đồng chí Trần Văn Truyền nghỉ hưu theo chế độ. Đầu năm 2014, khi có thông tin, dư luận về thực hiện chế độ nhà công vụ và Ủy ban Kiểm tra Trung ương nắm tình hình thì đồng chí mới đề nghị trả lại nhà. Đến tháng 5-2014, Bộ Xây dựng đã tiếp nhận lại căn hộ trên.
Như vậy, sau khi đã nghỉ hưu gần 3 năm ở tỉnh Bến Tre, đồng chí Trần Văn Truyền mới trả lại nhà công vụ ở Hà Nội cho Nhà nước. Với cương vị nguyên là cán bộ cấp cao, đồng chí có khuyết điểm khi chưa thực sự gương mẫu trong sử dụng nhà công vụ.
5. Về căn nhà biệt thự tại xã Sơn Đông, thành phố Bến Tre
Trần Văn Truyền, tham nhũng, biệt thự, Thanh tra Chính phủ
Ảnh TL
Từ năm 2009 - 2010, con trai đồng chí Trần Văn Truyền là Trần Hoàng Anh, cán bộ cảnh sát giao thông Công an tỉnh mua gom đất của 4 hộ dân (với 08 thửa liền kề), diện tích 16.567,4m2, tổng số tiền theo hợp đồng là 1,43 tỷ đồng (ngoài ra còn 01 lô đất gần 8.000 m2 của con gái đồng chí là Trần Thị Ngọc Huệ mua, nhưng chưa sử dụng).
Tháng 12-2012, căn cứ đơn đề nghị của ông Trần Hoàng Anh, UBND thành phố Bến Tre cấp phép xây dựng nhà cho ông Trần Hoàng Anh với diện tích xây dựng tầng trệt 441,71 m2; tổng diện tích sàn 1.226,61 m2; công trình có 03 tầng với chiều cao là 19,96m. Tháng 5/2014, UBND Thành phố Bến Tre đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất cho ông Trần Hoàng Anh. Đồng chí Trần Văn Truyền có báo cáo giải trình về nguồn kinh phí đầu tư xây dựng công trình trên là từ 07 tỷ đồng tiền của vợ chồng đồng chí dành dụm và 04 tỷ đồng mượn của bà Phạm Thị Kim Anh, trú tại khu phố Phước Hậu, phường Long Phước, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh và hiện đồng chí đang ở trong căn nhà này..
Như vậy, việc mua đất và xây dựng nhà của các con đồng chí Truyền được thực hiện theo các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, với cương vị nguyên là cán bộ lãnh đạo cấp cao, đồng chí Trần Văn Truyền đã thiếu cân nhắc và chủ quan khi xây dựng công trình biệt thự lớn trong khuôn viên đất rộng, trong khi nhà ở và đời sống nhân dân địa phương trong vùng còn nhiều khó khăn, thiếu thốn; gây phản cảm và tạo dư luận xấu, lan rộng trong xã hội. Việc làm trên của đồng chí thể hiện sự thiếu cân nhắc thận trọng và thiếu gương mẫu trong thực hiện Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ảnh hưởng đến uy tín của cá nhân đồng chí và tổ chức đảng; vi phạm mục C, khoản 1, Điều 1, Hướng dẫn số 03, ngày 15-3-2012 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương thực hiện Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01-01-2011 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm: “Làm những việc pháp luật không cấm, nhưng ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, vai trò tiên phong gương mẫu của đảng viên”.
6. Về căn nhà số 465/48C, khu phố Phước Hậu, phường Long Phước, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh
Nguồn gốc căn nhà số 465/48C, khu phố Phước Hậu, phường Long Phước, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh là từ việc đồng chí Trần Văn Truyền có quen biết gia đình bà Trần Thị Lý, sinh năm 1930, trú tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Lý có nhận đồng chí Trần Văn Truyền làm con nuôi . Tháng 7-2000, bà Lý có lập di chúc để lại cho con gái là Phạm Thị Kim Anh, sinh năm 1967. Trong di chúc của bà Lý có nội dung để lại toàn bộ tài sản cho con gái là bà Kim Anh, do bà Kim Anh toàn quyền quyết định khi bà mất, trong đó đồng ý việc chia tài sản cho các con đỡ đầu và các cháu.
Sau khi bà Lý mất, bà Kim Anh đã mở di chúc để chia số tài sản thừa kế cho một số người, trong đó có đồng chí Truyền. Năm 2008, bà Kim Anh tặng cho vợ đồng chí Trần Văn Truyền là bà Phạm Thị Thuỷ 01 căn nhà 3 tầng, diện tích xây dựng 211,8m2, tổng diện tích sàn là 505,1m2 .tại số 465/48C khu phố Phước Hậu. Từ khi được tặng căn nhà, đồng chí Truyền chưa sử dụng, nay theo báo cáo đã giao lại cho bà Kim Anh quản lý, đồng chí nhận của bà Kim Anh 4 tỷ đồng để làm nhà biệt thự ở Bến Tre.
Tóm lại, từ 6 trường hợp cụ thể về nhà, đất nói trên, qua kiểm tra cho thấy:
Trong thời gian giữ các cương vị lãnh đạo chủ chốt ở địa phương, cơ quan Trung ương và khi đã về nghỉ hưu, đồng chí Trần Văn Truyền đã có khuyết điểm, vi phạm: thiếu cân nhắc, thiếu gương mẫu trong việc tự mình thực hiện hoặc tác động, đề nghị với các cơ quan chức năng để xử lý một số trường hợp về nhà, đất có liên quan đến lợi ích của bản thân và gia đình; trong đó có việc thiếu trung thực, có việc vi phạm hoặc chưa gương mẫu thực hiện tốt quy định về những điều đảng viên không được làm và thực hiện Cuộc vận động học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Những việc làm của đồng chí gây phản cảm, tạo dư luận xấu ở địa phương và lan rộng trong xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của bản thân đồng chí và tổ chức đảng.
Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy, Ban cán sự đảng UBND tỉnh và các cơ quan chức năng tỉnh Bến Tre có khuyết điểm, vi phạm trong việc còn nể nang, không chỉ đạo thu hồi dứt điểm lô đất tại số 598B5 Nguyễn Thị Định, phường Phú Khương, thành phố Bến Tre; trong việc sửa chữa, cải tạo mới và bán cho đồng chí Trần Văn Truyền nhà số 06 Lê Quý Đôn, thành phố Bến Tre theo Nghị định 61/CP.
UBND Thành phố Hồ Chí Minh và các cơ quan chức năng của thành phố đồng ý bán cho con gái đồng chí Trần Văn Truyền căn nhà tại số 105 Nguyễn Trọng Tuyển, Phường 15, quận Phú Nhuận là không đúng đối tượng, thiếu căn cứ pháp lý, có sự nể nang, vi phạm Quyết định số 118/TTg, ngày 27-11-1992 của Thủ tướng Chính phủ; Công văn số 2527/BXD-VP, ngày 18-12-2008 của Bộ Xây dựng và Công văn số 76/UBND-ĐTMT, ngày 20-02-2009 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh.
UB Kiểm tra TƯ nhận thấy, những khuyết điểm, vi phạm của đồng chí Trần Văn Truyền đến mức phải thực hiện quy trình xem xét, xử lý trách nhiệm theo quy định.
UB Kiểm tra TƯ đã báo cáo và được Ban Bí thư đồng ý (như nêu tại Công văn số 9161-CV/VPTW, ngày 20-11-2014 của Văn phòng Trung ương Đảng), theo đó Ban Bí thư yêu cầu:
Đối với đồng chí Trần Văn Truyền
+ Kiểm điểm trách nhiệm theo quy trình về các khuyết điểm, vi phạm nêu trên trước Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bến Tre và UB Kiểm tra TƯ.
+ Yêu cầu các thành viên trong gia đình thực hiện nghiêm các quyết định xử lý về nhà, đất của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Đối với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bến Tre
+ Thực hiện quy trình kiểm điểm, xử lý trách nhiệm đối với đồng chí Trần Văn Truyền về những khuyết điểm, vi phạm nêu trên.
+ Chỉ đạo các cơ quan chức năng thu hồi dứt điểm thửa đất tại số 598 B5 Nguyễn Thị Định, phường Phú Khương, thành phố Bến Tre theo quy định của pháp luật.
+ Chỉ đạo kiểm điểm trách nhiệm các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc chậm thực hiện kết luận của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc thu hồi thửa đất nói trên và việc cải tạo, sửa chữa, bán nhà số 06 Lê Quý Đôn, thành phố Bến Tre.
Đối với Ban Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh
+ Chỉ đạo các cơ quan chức năng thu hồi căn nhà số 105 Nguyễn Trọng Tuyển, phường 15, quận Phú Nhuận theo hướng đề xuất của UBND Thành phố Hồ Chí Minh tại Công văn số 685/UBND-ĐTMT-M, ngày 30-9-2014.
+ Chỉ đạo kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm các tổ chức, cá nhân có liên quan khi không thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật trong việc bán nhà thuộc sở hữu nhà nước tại số 105-Nguyễn Trọng Tuyển, quận Phú Nhuận.
Theo TTXVN

Dự án du lịch Hải Vân: Không thể bất chấp an nguy

-Sự an nguy với đất nước là điều không thể đánh đổi với bất cứ mối lợi nào, lại càng không cho phép bị thao túng vì những toan tính lợi ích riêng tư, cục bộ.

Vụ cấp phép cho nhà đầu tư nước ngoài đầu tư xây dựng khu nghỉ dưỡng ở Cửa Khẻm, Hải Vân, một địa điểm quan yếu về quân sự đang thu hút sự chú ý chính đáng của công luận.
Sau những phát biểu chính thức của lãnh đạo Đà Nẵng, một số tướng lĩnh, cơ quan có trách nhiệm và báo chí, chắc chắn Chính phủ sẽ xem xét và giải quyết việc này thỏa đáng. Rõ ràng rằng dù quyết định  thế nào thì sự việc này cũng đều sẽ gây ra thiệt hại. Vấn đề là chọn cái thiệt hại nhỏ.
Sự an nguy với đất nước là điều không thể đánh đổi với bất cứ mối lợi nào, lại càng không cho phép bị thao túng vì những toan tính lợi ích riêng tư, cục bộ.
Đất nước, Đà Nẵng, Huế, Hải Vân
Phối cảnh dự án. Theo VOV
Những gì loan tải trên các phương tiện thông tin chính thức đã gợi nên nhiều điều chung rất đáng lo ngại. Sau đây là một số trong những vấn đề đó:
Về quản lý địa giới: Mảnh đất Cửa Khẻm thuộc địa giới tỉnh nào? Đà Nẵng cho là nó thuộc khu vực chưa được phân định (?), Thừa Thiên- Huế cho là thuộc mình. Sự thật thế nào?
Một địa điểm trọng yếu như thế về quốc phòng (như khẳng định của các tướng lĩnh) mà lại để “mù mờ” không biết thuộc địa phương nào thì là điều không thể chấp nhận. Đà Nẵng và Huế cùng với Hải Vân là những địa danh nổi tiếng trong nước và quốc tế, đâu phải là  “vùng sâu vùng xa”, lại càng không cho phép “châm chước” cho điều này vì bất cứ lý do gì. Ai, cơ quan nào phải chịu trách nhiệm về việc này? Khi có động dạng thì sao.
Điều rất đáng suy nghĩ là ý kiến của hai địa phương khác hẳn nhau. Ý kiến khác nhau là chuyện thường, nhưng đáng quan ngại ở đây là cách tiếp cận và kết luận trái ngược nhau.
Đà Nẵng thì nhấn mạnh tính chất hiểm yếu về quốc phòng của địa điểm, và vì vậy kiến nghị không thể để cho một cơ sở nước ngoài chốt ở đây, dù là với danh nghĩa khu nghỉ dưỡng. Ý kiến này được sự đồng tình của nhiều tướng lĩnh đương chức và đã nghỉ hưu (trừ một số vị thuộc Bộ Chỉ huy quân sự Thừa Thiên- Huế).
Thừa Thiên- Huế, địa phương cấp phép thì bảo vệ cho quyết định của mình, viện lý do là đã làm đúng các thủ tục.
Chẳng lẽ những người lãnh đạo ở đây chỉ quan tâm duy nhất việc làm tròn “thủ tục” mà không hề suy nghĩ gì đến sự an nguy của đất nước? Thật lòng tôi không muốn tin như vậy. Trước khi bàn về thủ tục và việc thực hiện nó như thế nào thì mọi người đều có thể đặt ra hai câu hỏi:
Thứ nhất, lãnh đạo Thừa Thiên – Huế có cân nhắc yếu tố quốc phòng khi quyết định cấp phép không? Nếu có, thì họ đã cân nhắc thế nào, và tại sao không đưa ra những điều đã cân nhắc đó để bảo vệ quyết định của mình?
Thứ hai, tại sao hai nhóm ý kiến trái ngược nhau lại “phân tuyến” trùng khít theo ranh giới địa phương? Hai tỉnh liền kề của khúc ruột Miền Trung chẳng lẽ có vận mệnh khác nhau và khác cả vận mệnh chung của dân tộc?
Tất cả lãnh đạo địa phương (cấp ủy tỉnh và huyện) đều được đào tạo thống nhất về  quốc phòng toàn dân nên không thể đổ thừa cho sự hiểu biết không đồng đều… Chẳng lẽ những mối lợi cục bộ và cá nhân đã che mắt?
Lãnh đạo Thừa Thiên- Huế nói nhiều đến việc chấp hành đúng các thủ tục. Nếu cuối cùng chính phủ quyết định dừng dự án thì kết luận chắc chắn phải rút ra là thủ tục có vấn đề, hoặc việc thực hiện thủ tục có vấn đề, hoặc cả hai đều có vấn đề.
Thủ tục phân cấp cấp phép cho cấp tỉnh: Tỉnh được giao quyền cấp phép đên đâu? Để thực hiện quyền đó thì phải “xin ý kiến và được chấp thuận” những gì đối với cấp trên ở TƯ. Nếu tỉnh đã làm đầy đủ các thủ tục đó và được chấp thuận (điều kiện để cấp giấy phép) thì tại sao bây giờ các cơ quan cấp trên lại đòi họ báo cáo?
Phải chăng trong khi ra quyết định/ chấp thuận đã bỏ qua những yếu tố quốc phòng, nay được nhắc thì mới nhớ đến? Nếu giấy phép đã được cấp theo đúng luật, thì việc thu hồi giấy phép có căn cứ luật pháp không?
Cho đến nay, dư luận chỉ đề cập tập trung về trách nhiệm các cơ quan quản lý hành chính. Nhưng có lẽ trước hết phải xem xét trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu đảng bộ. Vì theo quy chế lãnh đạo hiện nay  của các cấp ủy địa phương, các quyết định quan trọng (như mức cấp phép đầu tư Cửa Khẻm) đều được bàn và quyết đinh trong tập thể cấp ủy/ ban thường vụ.
Thiếu tướng Nguyễn Quy Nhơn, Phó Tư Lệnh Quân khu 5  cho biết, đây là khu vực đất địa hình loại 2, quản lý trong thời bình. Đất loại này được giao cho địa phương quản lý đất đai và giao cho dân sản xuất bình thường. Không được liên doanh, liên kết với đối tác nước ngoài, kể cả Việt kiều. Trong khi đó, vốn đầu tư của Công ty cổ phần Thế Diệu - Trung Quốc. (Theo VOV)
Người đứng đầu đảng bộ địa phương đương nhiên có trách nhiệm lớn nhất, cả với tư cách là thành viên đảng ủy quân sự quân khu.
Từ lâu đã hình thành nề nếp dành cho cơ quan quân sự thẩm quyền có ý kiến về địa điểm xây dựng các cơ sở kinh tế, xã hội là trên những địa bàn trọng yếu về quốc phòng. Trong trường hợp này, liệu điều đó có được thực sự tôn trọng và thực hiện nghiêm túc không?
Trả lời báo chí, các cơ quan quân sự cũng có quan niệm khác nhau về tính chất hiểm yếu của địa điểm này? Và nếu thật họ quan niệm khác nhau thì đã có lúc nào họ trao đổi với nhau để báo cáo sự không thống nhất đó lên những người lãnh đạo cấp trên?  Phải chăng các thủ tục được thực hiện cho xong?
Trong khi xem xét và ra quyết định giải quyết vụ Cửa Khẻm, Chính phủ và các bộ ngành có liên quan, các tổ chức đảng cần xem xét kỹ lưỡng, thay đổi, điều chỉnh những quy định hiện hành và kiểm tra việc thực hiện các quy định đó, xử lý trách nhiệm nghiêm túc những người lãnh đạo để không lặp lại những vụ việc tương tự.