Trang

3 tháng 7, 2014

Việt Nam đối diện trách nhiệm lịch sử to lớn

Việt Nam đang thật sự đối diện với một trách nhiệm to lớn mà lịch sử giao phó đó là sử dụng luật pháp quốc tế để duy trì hoà bình trong một khu vực trọng yếu của thế giới.

Điều gì ảnh hưởng đến tranh chấp?
Trong thời gian qua, những nước trong khu vực như Philippines, Malaysia, Indonesia, Việt Nam... đã có nhữnng biến chuyển quan trọng xung quanh các tranh chấp trên biển Đông.
Với Philippines, sau một thời gian đối thoại hoà bình để giải quyết tranh chấp, trước lập trường không thay đổi của Trung Quốc, vào cuối tháng 1/2013, Philippines quyết định khởi kiện Trung Quốc ra Toà án Trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS.
Cuối tháng 2/2014, Francis Jardeleza, luật sư phụ trách tư vấn cho chính phủ Philippines về vụ kiện, kêu gọi Việt Nam và Malaysia tham gia vào vụ kiện. Một tháng sau lời kêu gọi, Philippines chính thức trình hồ sơ pháp lý gần 4.000 trang lên Toà án Trọng tài theo đúng quy trình.[1]
Tại Malaysia, vào tháng 3/2013, các tàu chiến Trung Quốc lần đầu tiên xuất hiện ở bãi cạn James, sâu vào trong EEZ của Malaysia, cách bờ biển bang Sarawak chỉ 43 hải lý. Đây là điểm cực Nam trong “đường lưỡi bò” của Trung Quốc. Trong khoảng 6 tháng sau, Malaysia triển khai kế hoạch thành lập một căn cứ hải quân mới ở thị trấn lớn nhất của bang Sarawak để đối phó với đe doạ của Trung Quốc.[2]
Từ đầu thập niên 1990 cho đến gần đây, Indonesia là nước không có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc. Indonesia giữ vị thế trung lập và đóng vai trò trung gian trong hoà giải giữa các bên. Sau khi ký kết “Tuyên bố về ứng xử” (DOC) với những giới hạn của nó năm 2002, trong gần một thập niên qua, Indonesia cùng các nước ASEAN khác soạn thảo "Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông" (COC) mang tính ràng buộc hơn là DOC. Nỗ lực này không nhận được phản ứng tích cực của Trung Quốc.
Hoàng sa, Việt Nam, biển Đông, Trung Quốc, COC, DOC, tranh chấp lãnh thổ
Nguồn tư liệu cổ do tác giả cung cấp
Vào giữa tháng 4/2014, Indonesia thay đổi vị thế trung lập khi tuyên bố nước này quyết định tăng cường lực lượng quân sự ở quần đảo Natuna trước sự kiện “đường lưỡi bò” của Trung Quốc bao gồm cả lãnh hải của Indonesia.[3]
Về phía Việt Nam, từ đầu thập niên 2000 cho đến nay, Trung Quốc hàng năm ngang nhiên tuyên bố lệnh cấm đánh cá trên vùng biển của Việt Nam. Không những thế, Trung Quốc còn liên tục gây thiệt hại tài sản và nhân mạng cho ngư dân của Việt Nam.[4]
Vào đầu tháng 10/2011, trước sự chứng kiến của lãnh đạo hai đảng, Việt Nam và Trung Quốc ký kết thỏa thuận nhằm giải quyết vấn đề trên biển “thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị”.[5]
Vào cuối tháng 11/2011, lãnh đạo chính phủ Việt Nam lần đầu tiên đề cập đến sự kiện Trung Quốc sử dụng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa năm 1974.[6]
Trước sự leo thang gây hấn, khiêu khích, và vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế của Trung Quốc, vào cuối tháng 4/2013, lãnh đạo Việt Nam cũng lần đầu tiên đề cập đến luật pháp quốc tế như một công cụ để giải quyết tranh chấp với Trung Quốc.[7]
Hoàng sa, Việt Nam, biển Đông, Trung Quốc, COC, DOC, tranh chấp lãnh thổ
Nguồn tư liệu cổ do tác giả cung cấp
Đầu tháng 5/2014, khi ngang nhiên đặt giàn khoan Hải Dương 981 sâu vào trong EEZ của Việt Nam, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, Trung Quốc chính thức cho Việt Nam và quốc tế biết rằng các cam kết của Trung Quốc với Việt Nam, bao gồm thoả thuận ký năm 2011, về giải quyết tranh chấp biển đảo trên Biển Đông bằng “đối thoại hoà bình” hoàn toàn không có giá trị.[8]
Trong gần 40 năm nay, Việt Nam không ngừng kêu gọi Trung Quốc đối thoại hoà bình để giải quyết tranh chấp Hoàng Sa-Trường Sa.
Theo Wang Hanling (Vương Hàn Lĩnh), học giả Trung Quốc, quan điểm của Trung Quốc  là: “Không có gì để đàm phán cả… Chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc chưa bao giờ là đề tài tranh chấp và Việt Nam đã thừa nhận điều này trong quá khứ. Thảo luận về nỗ lực hợp tác bảo vệ tài nguyên, tìm kiếm cứu nạn và các việc khác là một chuyện, chủ quyền của Trung Quốc là một chuyện khác”.
Lập trường của Trung Quốc về Hoàng Sa không thể nào dứt khoát hay rõ ràng hơn: Hoàng Sa là của Trung Quốc. Họ còn ngang ngược đề nghị Việt Nam “gác tranh chấp, cùng khai thác” ở Trường Sa, ở khu vực biển đảo của Việt Nam.[9]
Bước đột phá trong tranh chấp Biển Đông
Với diện tích hơn 3,5 triệu km2, Biển Đông là một phần của Biển Thái Bình Dương, tiếp cận với lãnh hải của Việt Nam, Trung Quốc, vùng lãnh thổ Đài Loan, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, và Singapore.
Trong thời đại toàn cầu hoá kinh tế, Biển Đông không những quan trọng với các nước tiếp cận mà còn cực kỳ quan trọng với nhiều nước đã và đang phát triển khác trên thế giới.
Hàng năm có hơn 5.300 tỷ dollar mậu dịch quốc tế đi ngang qua Biển Đông trong đó 1.200 tỷ dollar mậu dịch là của Mỹ. Số lượng mậu dịch này đóng góp vào con số thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc, với gần 320 tỷ dollar trong năm 2013, chiếm 3,5% GDP của Trung Quốc hay gấp đôi GDP của Việt Nam trong cùng năm.[12]
Do vị thế chiến lược của hai quần đảo này, Việt Nam năng động, tích cực trình bày cho thế giới thấy rõ rằng, Hoàng Sa-Trường Sa đóng vai trò then chốt trong “đường lưỡi bò” của Trung Quốc trên Biển Đông.
Khi sử dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc, Việt Nam không chỉ giải quyết vấn đề chủ quyền lãnh hải giữa riêng hai nước mà còn giúp mang lại an ninh và ổn định cho tất cả các nước phụ thuộc vào giao thông hàng hải ngang qua một khu vực quan trọng hàng đầu thế giới và có diện tích rộng bằng một phần ba diện tích nước Mỹ.
Cách hành xử như trên chứng minh mạnh mẽ cho thế giới thấy rằng Việt Nam là một nước tôn trọng luật pháp và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.
Hoàng sa, Việt Nam, biển Đông, Trung Quốc, COC, DOC, tranh chấp lãnh thổ
Để tạo đột phá trong bế tắc và để tranh thủ thuận lợi hiện có, xét từ góc độ luật pháp quốc tế, chứng cứ lịch sử và tình hình khu vực như đề cập trong bài, Việt Nam nên công khai kêu gọi Trung Quốc đồng ý để các toà án quốc tế giải quyết tranh chấp Biển Đông.
Trung Quốc có quan toà đại diện trong Toà án Quốc tế và Toà án Luật Biển; Trung Quốc luôn luôn khẳng định trước dư luận thế giới là họ có đầy đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý hậu thuẫn cho đòi hỏi chủ quyền “đường lưỡi bò” nói chung và quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa nói riêng.
Nếu Trung Quốc muốn chứng minh họ cũng là nước tôn trọng luật pháp và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, nếu khẳng định của Trung Quốc về chủ quyền dựa trên cơ sở sự thật, khó có bất cứ lý do chính đáng nào khác cho Trung Quốc viện dẫn để từ chối vai trò giải quyết tranh chấp giữa các nước mà Toà án Quốc tế hành xử hữu hiệu trong hơn 60 năm nay.[13]
Việt Nam đang thật sự đối diện với một trách nhiệm to lớn mà lịch sử giao phó đó là sử dụng luật pháp quốc tế để duy trì hoà bình trong một khu vực trọng yếu của thế giới.
Thái Văn Cầu
Chuyên gia Khoa học Không gian, Hoa Kỳ
-------
Chú thích:
[[1]. “Philippines đưa tranh chấp biển đảo với Trung Quốc ra tòa án LHQ”, 2013
http://dantri.com.vn/diem-nong/philippines-dua-tranh-chap-bien-dao-voi-trung-quoc-ra-toa-an-lhq-688179.htm
“Philippines trình hồ sơ 4.000 trang tài liệu kiện Trung Quốc”, 2014
http://vov.vn/The-gioi/Philippines-trinh-ho-so-4000-trang-tai-lieu-kien-Trung-Quoc/318271.vov
“Philippines Seeks Arbitration at U.N. Over China's Claims in South China Sea”, 2014
http://online.wsj.com/news/articles/SB10001424052702304157204579470951200661852
[2]. “Malaysia ngăn Trung Quốc ở biển Đông”, 2013
http://nld.com.vn/thoi-su-quoc-te/malaysia-ngan-trung-quoc-o-bien-dong-20131019101718341.htm
“Malaysia “rắn” với Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông”, 2014
http://vov.vn/The-gioi/Quan-sat/Malaysia-ran-voi-Trung-Quoc-trong-tranh-chap-Bien-Dong/312698.vov
“Malaysia to establish marine corps, naval base close to James Shoal”, 2013
http://www.janes.com/article/28438/malaysia-to-establish-marine-corps-naval-base-close-to-james-shoal
[3]. “Indonesia hành động trước mối đe dọa Trung Quốc ở Biển Đông”, 2014
http://baodatviet.vn/the-gioi/tin-tuc-24h/indonesia-hanh-dong-truoc-moi-de-doa-trung-quoc-o-bien-dong-3002480/
“Indonesia đổi thái độ về biển Đông”, 2014
http://nld.com.vn/thoi-su-quoc-te/indonesia-doi-thai-do-ve-bien-dong-20140418142844282.htm
“China's Dismaying New Claims in the South China Sea”, 2014
http://online.wsj.com/news/articles/SB10001424052702304279904579515692835172248
“Indonesia Draws a Line in the Sea”, 2014
http://www.asiasentinel.com/politics/indonesia-draws-line-sea/
[4]. “Trung Quốc lại ngang ngược cấm đánh bắt trên Biển Đông” 2014
http://dantri.com.vn/the-gioi/trung-quoc-lai-ngang-nguoc-cam-danh-bat-tren-bien-dong-877402.htm
“Phản đối Trung Quốc đánh đập ngư dân Việt Nam”, 2014
http://www.tienphong.vn/xa-hoi/phan-doi-trung-quoc-danh-dap-ngu-dan-viet-nam-708195.tpo
“Tàu Trung Quốc bắn chết ngư dân Việt Nam”, 2005
http://vietbao.vn/Xa-hoi/Tau-Trung-Quoc-ban-chet-ngu-dan-Viet-Nam/20367005/157/
[5]. “Việt-Trung thỏa thuận nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển”, 2011
http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/viet-trung-thoa-thuan-nguyen-tac-giai-quyet-van-de-tren-bien-2207907.html
[6]. “Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Đòi chủ quyền Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình”, 2011
http://plo.vn/chinh-tri/thu-tuong-nguyen-tan-dung-doi-chu-quyen-hoang-sa-bang-bien-phap-hoa-binh-91884.html
[7]. “Chủ tịch nước khẳng định lập trường về chủ quyền biển đảo”, 2013
http://vov.vn/Utilities/PrintView.aspx?ID=259432
[8]. “Việt Nam không đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông”, 2014
http://vneconomy.vn/20140522015857486P0C9920/viet-nam-khong-doi-chu-quyen-lay-huu-nghi-vien-vong.htm
“Việt Nam đã 20 lần yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan”, 2014
http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/viet-nam-da-20-lan-yeu-cau-trung-quoc-rut-gian-khoan-2993408.html
[9]. Tôn Quốc Tường, Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam ,“Gác lại tranh chấp Biển Đông, chờ điều kiện chín muồi”, 2010
http://www.tienphong.vn/xa-hoi/gac-lai-tranh-chap-bien-dong-cho-dieu-kien-chin-muoi-182662.tpo
Greg Torode, “Vietnam fails to bring China into Paracels talks”, 2011
http://www.scmp.com/article/977002/vietnam-fails-bring-china-paracels-talks
 “Tập Cận Bình: Chủ quyền thuộc Trung Quốc, gác tranh chấp cùng hợp tác”, 2013
http://giaoduc.net.vn/Quoc-te/Tap-Can-Binh-Chu-quyen-thuoc-Trung-Quoc-gac-tranh-chap-cung-hop-tac-post125139.gd
[10]. “U.S. Following Through on Pacific Rebalance, Hagel Says”, 2013
http://www.defense.gov/news/newsarticle.aspx?id=120186
Kurt M. Campbell & Ely Ratner, “Far Eastern Promises. Why Washington Should Focus on Asia”, 2014
http://www.foreignaffairs.com/articles/141241/kurt-m-campbell-and-ely-ratner/far-eastern-promises
[11]. “G7 yêu cầu ‘thượng tôn pháp luật’ Biển Đông, Hoa Đông”, 2014
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/179189/g7-yeu-cau--thuong-ton-phap-luat--bien-dong--hoa-dong.html
“G7 Leaders’ Communiqué, June 2014 – Foreign Policy”, 2014
http://europa.eu/rapid/press-release_IP-14-637_en.htm?locale=en
“Pháp quan ngại trước leo thang căng thẳng ở Biển Đông”, 2014
http://dantri.com.vn/the-gioi/phap-quan-ngai-truoc-leo-thang-cang-thang-o-bien-dong-884360.htm
“Úc 'kịch liệt phản đối' hành động đơn phương trên biển Đông”, 2014
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140604/uc-kich-liet-phan-doi-hanh-dong-don-phuong-tren-bien-dong.aspx
“Tony Abbott issues clear signal to China saying government 'strongly discourages' unilateral actions in the region”, 2014
http://www.smh.com.au/federal-politics/political-news/tony-abbott-issues-clear-signal-to-china-saying-government-strongly-discourages-unilateral-actions-in-the-region-20140604-39hyp.html
Shangri-La Dialogue, “Keynote Address: Shinzo Abe”, 2014
https://www.iiss.org/en/events/shangri%20la%20dialogue/archive/2014-c20c/opening-remarks-and-keynote-address-b0b2/keynote-address-shinzo-abe-a787
“EU lo ngại về tình hình Biển Đông”, 2014
http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/eu-lo-ngai-ve-tinh-hinh-bien-dong-2997541.html
“UK speaks in support of EU statement on tensions in South China Sea”, 2014
https://www.gov.uk/government/news/uk-speaks-in-support-of-eu-statement-on-tensions-in-south-china-sea
[12]. Bonnie S. Glaser, “Armed Clash in the South China Sea”, 2013
http://www.cfr.org/world/armed-clash-south-china-sea/p27883?cid=rss-internationalpeaceandsecuri-armed_clash_in_the_south_china-041112
“Trade in Goods with China”, 2014
http://www.census.gov/foreign-trade/balance/c5700.html
“Thủ tướng: GDP bình quân đầu người năm 2013 đạt 1.960 USD”, 2013
http://dantri.com.vn/kinh-doanh/thu-tuong-gdp-binh-quan-dau-nguoi-nam-2013-dat-1960-usd-811231.htm
[13]. Ngô Vĩnh Long, “Việt Nam nên kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế”, 2014
http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/174731/-viet-nam-nen-kien-trung-quoc-ra-toa-an-quoc-te-.html
Dương Danh Huy, “Việt Nam cần kiện ra tòa quốc tế”, 2014
http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/606498/viet-nam-can-kien-ra-toa-quoc-te.html

Nhật thay đổi lớn về quốc phòng

Cập nhật: 10:23 GMT - thứ ba, 1 tháng 7, 2014

Thủ tướng Shinzo Abe đã thúc đẩy thay đổi trong chính sách an ninh
Nội các Nhật Bản hôm 1/7 thông qua thay đổi lớn trong chính sách an ninh của nước này, mở đường cho việc quân đội Nhật tham chiến ở nước ngoài.
Theo hiến pháp của Nhật, Tokyo bị cấm sử dụng vũ lực để giải quyết xung đột, trừ trường hợp phòng vệ.
Nhưng việc diễn giải lại luật sẽ cho phép "phòng vệ tập thể" - dùng vũ lực để bảo vệ các đồng minh bị tấn công.
Các nhà lập pháp của liên minh cầm quyền thông qua thay đổi trên vào sáng thứ Ba và nội các sau đó cũng có bước đi tương tự trong cùng ngày.
Thủ tướng Shinzo Abe đã thúc đẩy mạnh mẽ cho thay đổi này, ông lập luận rằng Nhật cần phải thích nghi với môi trường an ninh đang thay đổi ở vùng châu Á - Thái Bình Dương.
Hoa Kỳ - quốc gia mà Nhật Bản có quan hệ đồng minh về an ninh từ hàng chục năm qua - cũng sẽ hoan nghênh bước đi này, tuy nhiên, Trung Quốc, nước vốn đang có quan hệ căng thẳng với Tokyo, sẽ rất tức giận.
Quyết định này cũng gây nhiều tranh cãi ở ngay trong nước Nhật.
Hôm Chủ Nhật, một người đàn ông tự thiêu ở trung tâm Tokyo để phản đối.

'Không cứu vãn'

Một người đàn ông đã tự thiêu tại trung tâm Tokyo hôm Chủ Nhật phản đối việc thay đổi chính sách quân sự
Ông Abe hồi tháng Năm đã hậu thuẫn cho thay đổi, sau khi ban cố vấn của ông ra bản phúc trình khuyến nghị thay đổi luật quốc phòng.
Nhật thông qua bản hiến pháp hòa bình sau khi đầu hàng hồi Thế chiến II. Kể từ đó, binh lính Nhật không tham gia vào các hoạt động chiến đấu, dẫu cho có một nhóm nhỏ tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc.
Nhật lâu nay giữ quan điểm rằng theo luật quốc tế, Nhật có quyền phòng vệ chung, nhưng cũng cho rằng không thể thực thi được quyền đó do những hạn chế trong hiến pháp.
Ban cố vấn của ông Abe khuyến nghị rằng nếu Nhật diễn giải lại hiến pháp để cho phép được phòng vệ chung, thì các điều kiện sẽ được áp dụng nhằm đảm bảo sức mạnh sẽ không bị lạm dụng.
Hôm thứ Hai, hàng ngàn người đã tham gia biểu tình phản đối tại Tokyo.
Những người chỉ trích ông Abe sợ rằng đây sẽ là bước đi đầu tiên tiến tới việc sửa đổi chính thức hoặc xóa bỏ Điều 9 Hiến pháp, là điều khoản tuyên bố từ bỏ chiến tranh.
"Tôi nghĩ rằng nếu chúng tôi bây giờ không chặn chính phủ ông Abe thì sẽ không thể cứu vãn được," Étuo Nakashima, 32 tuổi, nói với hãng tin Reuters.
Nhưng những người khác tin rằng bản hiến pháp là di tích hậu chiến mà Hoa Kỳ áp đặt lên Nhật Bản, hạn chế việc Tokyo được có các hoạt động bình thường của một quốc gia hiện đại.
Trung Quốc, nước hiện đang có tranh chấp lãnh thổ gay gắt với Nhật, lên tiêng phản đối thay đổi, cáo buộc Nhật "tái quân sự hóa" trong thời ông Abe.
Nay, nội các đã chuẩn thuận bước đi; các sửa đổi pháp lý sẽ phải được quốc hội thông qua. Nhưng với việc diễn giải lại thay vì sửa đổi hiến pháp, ông Abe tránh được việc cần có trưng cầu dân ý.

Phụ thuộc thương lái quá nhiều


Nhiều trại sản xuất nấm ở xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai phải bỏ hoang do sản phẩm không tiêu thụ được
Nhiều trại sản xuất nấm ở xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai phải bỏ hoang do sản phẩm không tiêu thụ được

Việc tiêu thụ nông sản đang phụ thuộc hoàn toàn vào thương lái. Họ đến tận nơi để thu mua, tới khi thương lái vắng bóng thì người sản xuất không biết tiêu thụ sản phẩm ở đâu

Vì sao thị trường nội địa vẫn hút hàng nhưng người trồng nấm ở Đồng Nai, Lâm Đồng lại đứng trước nguy cơ phá sản do bí đầu ra? Chúng tôi cố gắng đi tìm câu trả lời nhưng khi hỏi người trồng nấm thì họ lắc đầu không biết; còn các ngành chức năng có liên quan thì bảo đang… tìm hiểu tình hình!
Vai trò cầu nối mờ nhạt
Ngày 3-7, bà Vũ Thị Minh Châu, Phó Chủ tịch UBND huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, cho biết sau khi báo thông tin, huyện đã thúc đẩy nhanh việc tìm hiểu, khảo sát nguyên nhân để giúp sản phẩm bà con nông dân có đầu ra. “Từ trước tới nay, người dân sản xuất với số lượng lớn nhưng mang tính tự phát. Sắp tới, huyện sẽ đề xuất Sở Nông nghiệp - Phát triển nông thôn và Sở Công Thương có hướng tìm hiểu xem bà con bị vướng mắc ở công đoạn nào để tháo gỡ” - bà Châu nói.
Trong khi đó, bà Nguyễn Thị Phương Dung, Chủ tịch Hội Nông dân thị xã Long Khánh, cho rằng qua nắm tình hình thì xưa nay, người trồng nấm chủ yếu bán sản phẩm cho thương lái xuất sang Trung Quốc. Từ nhiều tháng nay có thể do thương lái không xuất hiện nên các đại lý thu gom trong vùng cũng ngừng thu mua, người trồng nấm phải “treo trại” hoặc chỉ trồng cầm chừng.
Cũng theo bà Dung, ở Long Khánh hiện có cả ngàn hộ trồng nấm với hàng ngàn trại, đây là vùng sản xuất nấm truyền thống và còn sản xuất cả meo (gốc) cung cấp cho các vùng khác. “Chúng tôi đang nóng ruột chờ các đơn vị chức năng tìm đầu ra cho bà con nếu thật sự thị trường trong nước có nhu cầu, đồng thời cũng nên làm rõ nguyên nhân nguồn hàng ứ đọng có phải do từ các thương lái Trung Quốc hay không; cũng không loại trừ khả năng họ lợi dụng tình hình giao thương giữa hai nước hiện nay để ép giá” - bà Dung nói.
Sản xuất manh mún, quên làm thương hiệu
TS Võ Mai, Phó Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam, đặt vấn đề: “Đã đi bán chưa mà biết ế?”. “Việc buôn bán nông sản qua Trung Quốc trước giờ chủ yếu qua đường tiểu ngạch, không ký hợp đồng nên thương lái lo sợ chuyện cấm biên mà chủ động không đưa hàng đi chứ không phải do phía Trung Quốc ngưng thu mua hay trả hàng về. Hiện tại, việc buôn bán qua tiểu ngạch với Trung Quốc vẫn bình thường. Tuy nhiên, đây cũng là dịp không chỉ nông dân mà cả bộ máy nhà nước xem lại mình, không để phụ thuộc vào một thị trường nhưng để xúc tiến thị trường mới cần phải có thời gian” - TS Mai phân tích.
Bà Mai nói thêm: Không chỉ nấm mà nông sản nói chung, việc tiêu thụ đang phụ thuộc hoàn toàn vào thương lái, họ đến tận nơi để thu mua, đến khi thương lái vắng bóng thì người sản xuất không biết nơi tiêu thụ. Để khỏi phụ thuộc thương lái, nông dân phải liên kết lại mới có nguồn lực đầu tư nghiên cứu, phát triển thị trường, xây kho bảo quản, nhà máy chế biến, xe vận chuyển đưa đi tiêu thụ nhưng nông dân không thể tự làm mà phải có sự hỗ trợ từ phía nhà nước.
Dưới góc độ là đầu mối thu mua, bà Hải Yến, trưởng phòng kinh doanh một công ty chuyên cung ứng nấm tại TP HCM, nêu thực tế là nhiều người trồng nấm hiện nay làm tự phát, không bảo đảm quy trình trồng an toàn nên công ty không thể thu mua, dù giá rẻ. Ngoài ra, nấm trồng trong nước chỉ tập trung ở một số loại trong khi thị trường có nhu cầu đa dạng nên công ty đang nhập khẩu nấm đùi gà, kim châm, linh chi trắng, xám từ Hàn Quốc, Trung Quốc...  
Hiện nay, ế nhất là nấm bào ngư (trắng, xám, Nhật), giá sỉ chỉ còn 10.000 đồng/kg, bằng một nửa so với bình thường do sản lượng tăng đột biến. Loại nấm này sau khi hái chỉ để được 3 ngày, cũng không để trên giàn được vì nấm sẽ bị già. Đối với nấm mèo (trước giờ chủ yếu bán qua Trung Quốc), thị trường trong nước có nhu cầu thấp nên sẽ khó khăn tiêu thụ nếu không tìm được thị trường xuất khẩu mới.
Nhiều người trống nấm tại TP HCM dù tiêu thụ tốt vẫn phải thừa nhận thực tế là đang phụ thuộc vào thương lái và trung gian quá nhiều. Hơn nữa, do chưa có công nghệ bảo quản nên nấm Việt Nam đa phần chỉ bán tươi và rất nhanh hư trong khi nấm Trung Quốc để được cả tuần nên tiểu thương chuộng do không lo bị lỗ vì ế. Nông dân chỉ biết hái nấm (đối với nấm tươi), nấm khô thì phơi hoặc sấy rồi bán, chuyện làm thương hiệu thì còn xa. Nhiều người khoe nấm của mình được vào siêu thị, thậm chí xuất khẩu nhưng lại đứng tên một công ty khác! 
Làm tự phát nên không nắm được!
“Số người trồng nấm tập trung ở thị xã Long Khánh và xã Sông Trầu huyện Trảng Bom đến cả ngàn hộ, làm ăn từ vài chục năm nay, tuy nhiên vẫn theo dạng tự phát chứ chưa phải làng nghề hay HTX nên chúng tôi chưa nắm được cụ thể. Sắp tới, chúng tôi sẽ đặt vấn đề với các bên liên quan để tìm hiểu tình hình, tìm hướng khắc phục...” - ông Phạm Minh Đạo, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đồng Nai, nói.

Người trồng nấm bất an

Theo Ngọc Ánh – Xuân Hoàng
Người lao động

Thêm cơ hội cho nhà đầu tư và TTCK


Thêm cơ hội cho nhà đầu tư và TTCK

Quỹ ETF nội đang thu hút sự quan tâm của nhiều NĐT và kỳ vọng tạo thêm tính hấp dẫn cho thị trường chứng khoán (TTCK), giúp thị trường phát triển ổn định và bền vững.

Hàng loạt cuộc hội thảo, giới thiệu về ETF (quỹ hoán đổi danh mục - Exchange Traded Fund) đã được các sở giao dịch chứng khoán (GDCK), công ty chứng khoán (CTCK) liên tục triển khai tới nhà đầu tư (NĐT) trong vài tháng trở lại đây và dự kiến ra đời vào quý III năm nay. 

Quỹ ETF nội đang thu hút sự quan tâm của nhiều NĐT và kỳ vọng tạo thêm tính hấp dẫn cho thị trường chứng khoán (TTCK), giúp thị trường phát triển ổn định và bền vững.
Cơ hội cho NĐT nhỏ
Theo ông Nguyễn Xuân Bình, Phó Giám đốc bộ phận Phân tích - Đầu tư CTCK Bảo Việt (BVSC), ETF (dạng quỹ mở) sẽ quy đổi chứng chỉ quỹ (CCQ) lấy rổ danh mục chứng khoán theo đúng cơ cấu của quỹ. Tùy vào mục đích khi thành lập, các quỹ ETF có thể đầu tư bám theo các chỉ số cụ thể, như các cổ phiếu có vốn hóa lớn, nhỏ; chỉ số ngành; nhóm cổ phiếu tăng trưởng.
Thông thường, các quỹ ETF đầu tư vào các cổ phiếu vốn hóa lớn được niêm yết trên TTCK bởi có tính thanh khoản cao hơn như VN30 hay HNX30. Chẳng hạn trên thị trường sơ cấp, quỹ ETF phát hành CCQ theo lô lớn (tối thiểu 100.000 CCQ), nên thường chỉ các NĐT tổ chức hoặc đại lý phát hành trực tiếp mua, sau đó các CCQ này được phân phối trên thị trường thứ cấp như một mã cổ phiếu riêng lẻ. Do vậy NĐT nhỏ lẻ có thể tham gia trên thị trường thứ cấp, có nghĩa dễ mua cũng dễ bán.
Những ưu điểm khi đầu tư vào quỹ ETF có thể nhận thấy như, do đầu tư theo chỉ số nên việc đa dạng hóa danh mục, phân tán rủi ro tốt hơn so với đầu tư vào quỹ thông thường (dạng quỹ đóng); tính công khai minh bạch cũng cao hơn khi giá trị tài sản ròng (NAV) được công bố hàng ngày, thậm chí giá trị tài sản ròng tham chiếu (iNAV) được cập nhật 15 giây/lần theo giá thị trường của chứng khoán cơ cấu; thanh khoản tốt hơn. Một điểm đáng lưu ý của việc thu hút vốn ngoại với quỹ ETF chính là room.
Nếu như quỹ đóng room cho nước ngoài bị giới hạn, thì với quỹ ETF lại không giới hạn do mục tiêu hướng tới của NĐT ngoại là triển vọng lợi nhuận của doanh nghiệp chứ không phải sở hữu doanh nghiệp (NĐT ngoại nắm tỷ lệ sở hữu vượt room khi bán lại không nhận được cổ phiếu mà bằng tiền với giá tại thời điểm giao dịch).
Theo Thông tư 229 hướng dẫn thành lập quỹ ETF, các thành viên lập quỹ (AP) được phép đặt lệnh mua và bán đồng thời. Câu hỏi đặt ra là như vậy họ sẽ đặt lệnh nhanh tay hơn và liệu có gây thiệt thòi cho NĐT nhỏ? Theo ông Nhữ Đình Hòa, Tổng giám đốc BVSC, việc cho phép các AP được đặt lệnh mua và bán nhằm tránh việc giá CCQ giảm xuống sâu so với NAV. Với việc 15 giây công bố iNAV cũng sẽ giúp NĐT có thông tin cập nhật, tránh bán thấp hơn NAV của CCQ. Đây là ưu điểm nhằm khắc phục nhược điểm so với quỹ đóng, tránh được việc như năm 2011 thị giá CCQ quỹ đóng thấp hơn 50-60% NAV.
Cẩn trọng rủi ro

Thêm cơ hội cho nhà đầu tư và TTCK (1)Với lượng tiền nhỏ, NĐT rất khó phân bổ cổ phiếu của mình theo rổ chỉ số nào đó, nên việc đầu tư mua CCQ ETF là phù hợp. Mặt khác, xét về lý thuyết đầu tư, nếu không thắng được thị trường thì nên theo thị trường, như đầu tư theo chỉ số sẽ bám sát tăng, giảm. Chẳng hạn như ETF xây dựng trên VN30 thì sự biến động của VN30 phản ánh đúng danh mục đầu tư mong muốn và khi VN30 tăng danh mục đầu tư cũng sẽ tăng. 
Thêm cơ hội cho nhà đầu tư và TTCK (2)

Ông Nhữ Đình Hòa
Tổng giám đốc BVSC
Theo ông Bình, khi tham gia đầu tư vào CCQ ETF, NĐT cũng sẽ phải đối mặt với những rủi ro. Đó là rủi ro hệ thống đối với chỉ số mô phỏng, tức khi chỉ số giảm NĐT cũng sẽ gánh chịu thua lỗ; sai số mô phỏng khi chênh lệch giữa tỷ suất lợi nhuận của ETF và chỉ số cơ sở do sự biến động của thị trường hoặc các hoạt động chia, tách, sáp nhập, nhất là khi thị trường thiếu thanh khoản; rủi ro về tỷ giá đối với NĐT nước ngoài.
Bên cạnh đó, NĐT nắm giữ CCQ ETF không có các quyền đối với chứng khoán thành phần, mà chính công ty quản lý quỹ mới đóng vai trò là cổ đông của các cổ phiếu cơ cấu và được các quyền liên quan như tham dự đại hội cổ đông, nhận cổ tức, cổ phiếu thưởng…
Ngoài ra, NĐT còn đối mặt với rủi ro từ thời điểm phát hành CCQ đến khi niêm yết, nếu có độ trễ và trong giai đoạn này sẽ không giám sát được nhà điều hành quỹ có thực hiện đúng điều lệ và thực tế có chênh NAV với chứng khoán cơ sở hay không.
Tuy nhiên, theo một đại diện Sở GDCK Hà Nội (HNX), NĐT sở hữu CCQ vẫn có thể được nhận cổ tức nếu mã chứng khoán trong danh mục trả cổ tức. Tuy nhiên, tỷ lệ trả cổ tức sẽ thấp hơn do phải trừ đi các chi phí, vì nguồn thu chính của quỹ ETF Việt Nam đến từ cổ tức của các cổ phiếu trong danh mục (chứng khoán cơ sở) và khoản chênh lệch mua bán lại cổ phiếu, CCQ. Mặt khác, nếu quỹ không trả cổ tức mà tiếp tục đầu tư vào chứng khoán thì trong bất kỳ trường hợp nào đây cũng là tài sản của NĐT.
Theo dự kiến, trong quý III năm nay, quỹ ETF nội đầu tiên sẽ tiến hành IPO và niêm yết trên sàn GDCK. Để chuẩn bị cho các quỹ ETF giao dịch, hiện HOSE và HNX đã sẵn sàng cho việc này. Theo bà Nguyễn Thị Hoàng Lan, Phó Chủ tịch HĐQT kiêm Phó Tổng giám đốc HNX, hiện HNX đã chuẩn bị đầy đủ hạ tầng để sẵn sàng giao dịch ETF. Từ năm 2013, HNX đã chuẩn bị cho giao dịch thứ cấp các CCQ và đã chạy thử với gần 80 CTCK. Trung tâm lưu ký cũng đã xây dựng hệ thống và chạy thử.
Theo đại diện HNX, các đơn vị đăng ký dự kiến sẽ dùng chỉ số HNX30. Còn về lâu dài, HNX sẽ tạo thêm các chỉ số mới để làm hàng hóa cho các ETF hoạt động.
Theo Hà My
Sài gòn Đầu tư tài chính

5 kịch bản cho biển Đông


-Với bối cảnh hiện nay, chúng tôi cho rằng có năm kịch bản cho tranh chấp Biển Đông trong 10 năm tới.
TQ không đưa được chứng cứ nào
Trước luật pháp quốc tế, chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý là yếu tố thuyết phục nhất.
Tuy nhiên, chuyên gia luật pháp quốc tế cũng nhận định, trong giải quyết tranh chấp lãnh thổ, trên đất liền hay trên biển, khả năng để các bên có chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý không cao.
Theo Nuno Sergio Marques Antunes, chuyên gia Bồ Đào Nha về tranh chấp hàng hải quốc tế, “tranh chấp dựa duy nhất trên lập luận pháp lý ... tương đối hiếm. Tuyệt đại đa số các cuộc tranh chấp lãnh thổ thiếu lập luận pháp lý có ý nghĩa. Trong phần lớn các trường hợp, những lập luận không mang tính pháp lý nổi bật hơn”.
Mỗi bên trong tranh chấp lãnh thổ phải tận dụng tất cả chứng cứ nghiêm túc bất kể hình thức nào, như Brian Taylor Sumner, chuyên gia Mỹ về luật pháp quốc tế khẳng định bao gồm 9 loại khác nhau, trong đó có chứng cứ lịch sử.
biển Đông
Chứng cứ lịch sử về chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa của Trung Quốc, dựa vào cổ sử hay ngay cả dựa vào các sự kiện xảy ra trong 60 năm qua chứa đựng nhiều sai lầm, lắm lúc với chủ đích để đánh lừa dư luận.
Trong khi một số học giả phương Tây, do dựa vào một phần hay toàn phần cổ sử của Trung Quốc, để đưa quan điểm thuận lợi cho nước này, giới nghiên cứu của Việt Nam đã phân tích những thiếu sót nghiêm trọng trong cổ sử Trung Quốc về chủ quyền Hoàng Sa- Trường Sa của Trung Quốc.
Trong tác phẩm tiếng Anh xuất bản cuối năm 2013, Wu Shicun sử dụng các lập luận sau để biện minh cho đòi hỏi chủ quyền biển đảo trên Biển Đông: Trung Quốc là nước khám phá, nước đặt tên các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, nước nhận triều cống từ phong kiến Việt Nam, VNDCCH từng công nhận chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa thuộc Trung Quốc, CHXHCNVN chỉ kế thừa duy nhất từ VNDCCH, v.v.
Thử xem các lập luận này có giá trị đến đâu?
Trước tiên, nếu cho rằng Trung Quốc là nước khám phá hay nước đặt tên các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa nên có chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa, thì lập luận này không thỏa mãn các tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế về quyền chiếm hữu đề cập ở trên.
Đồng thời, do là nước nhận triều cống từ phong kiến Việt Nam cho đến năm 1885, nên có chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa bị bác bỏ dựa trên chứng cứ lịch sử và dựa trên vụ kiện giữa Pháp và Anh về khu vực Minquiers-Ecrehos.
Lập luận nữa cho rằng, do VNDCCH từng công nhận chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa thuộc Trung Quốc và do CHXHCNVN chỉ kế thừa duy nhất từ VNDCCH nên Trung Quốc có chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa, bị bác bỏ, dựa trên sự không thích ứng của nguyên tắc ngăn chặn (estoppel), quyền kế thừa của quốc gia theo luật pháp quốc tế và chứng cứ lịch sử trong quan hệ quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn 1954-1976.
Ngoài thoả mãn hai tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế trước thời điểm của Công ước Berlin, chứng cứ lịch sử về chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam trong tư liệu cổ phương Tây, trong hơn 200 năm từ đầu thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX đặc biệt thoả mãn tiêu chuẩn nêu lên trong Công ước năm 1885 về nhận thức của cộng đồng thế giới đối với chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Trái lại, cho đến ngày nay, Trung Quốc không trình bày được chứng cứ lịch sử nào thuận lợi cho đòi hỏi chủ quyền của họ từ nguồn tư liệu cổ phương Tây trước thế kỷ XX.
Trung Quốc đề cập đến hai sự kiện: Kuo Sung-tao, Đại sứ Trung Hoa đầu tiên ở Anh vào khoảng năm 1876-1877 tuyên bố Hoàng Sa thuộc Trung Hoa, và Trung Hoa phản đối và ngăn chặn đoàn khảo sát Đức thực hiện công tác đo đạc ở Hoàng Sa và Trường Sa năm
1883.
Bên cạnh không có tư liệu độc lập kiểm chứng tính chính xác về tuyên bố của Kuo Sung- tao. Thực tế cho thấy năm 1885, Đức phổ biến bản đồ chi tiết khu vực Hoàng Sa mà họ đã khảo sát trong các năm 1881-1883.
So sánh với Trung Quốc, chứng cứ lịch sử về chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam rõ ràng, vững chắc hơn.
Tuy nhiên, do sự gián đoạn gần 20 năm trong nỗ lực nghiên cứu chủ quyền và giới thiệu nghiên cứu chủ quyền trước dư luận thế giới, và nhằm đảm bảo tính khoa học và nghiêm túc của nó, hồ sơ chứng cứ chủ quyền của Việt Nam còn cần sự quan tâm của giới chuyên gia và nghiên cứu, như người viết đề nghị năm 2011:
“Để khắc phục thiếu sót trong quá khứ, và để loại bỏ lỗ hổng trong lập luận chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa, nhà nước Việt Nam nên khẩn trương hỗ trợ giới nghiên cứu (độc lập cũng như trực thuộc bộ máy chính quyền), thúc đẩy tham khảo tư liệu ở Trung tâm Lưu trữ Quốc gia và từ các nguồn khác (kể cả ngoài nước), chuyển dịch những nghiên cứu đúng đắn từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài (cụ thể như tiếng Anh, tiếng Hoa), tư vấn chuyên gia ở ngoài nước về giải quyết tranh chấp lãnh thổ, đào tạo lớp người trẻ với chuyên môn nghiệp vụ cao, v.v.
5 kịch bản
Vào cuối tháng 9 năm 1975, trong cuộc họp giữa lãnh đạo hai nước, khi Bí thư Thứ nhất đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn nêu vấn đề Hoàng Sa-Trường Sa, Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình thừa nhận có tranh chấp và đề nghị hai nước thảo luận sau. Nhưng, sau gần 40 năm, tranh chấp vẫn chưa được giải quyết rốt ráo.
biển Đông
Ảnh: Hoàng Sang (chụp từ Hoàng Sa)
Với bối cảnh hiện nay, chúng tôi cho rằng có năm kịch bản cho tranh chấp Biển Đông trong 10 năm tới:
Kịch bản thứ nhất, Trung Quốc sử dụng vũ lực để đánh chiếm một phần hay toàn bộ quần đảo Trường Sa, nhằm “giải quyết vấn đề tranh chấp và xác lập chủ quyền ở những hòn đảo và vùng lãnh hải trước năm 2020” như học giả Trung Quốc khẳng định và các nguồn thông tin khác cho biết.
Trong tranh chấp biển đảo, Trung Quốc từng sử dụng vũ lực với Đài Loan vào thập niên 1950, và sử dụng vũ lực với Việt Nam vào thập niên 1970 và thập niên 1980.
Cuộc phiêu lưu quân sự mới của Trung Quốc ở Trường Sa, nhằm kiểm soát toàn bộ các đảo, đá trong phạm vi “đường lưỡi bò”, sẽ gây mất an ninh, ổn định trên Biển Đông, ảnh hưởng đến lưu thông hàng hải của Mỹ, Nhật, Ấn Độ, v.v.
Không ai ngạc nhiên với nhận định là Trung Quốc đã theo sát diễn biến ở Ukraine và Crimea để đánh giá phản ứng và biện pháp đối phó của Mỹ và Liên hiệp Châu Âu đối với Nga.
Tuy nhiên, do khác biệt lớn với sự sáp nhập của Crimea vào Nga, kịch bản này đưa đến hậu quả kinh tế, quân sự, chính trị, v.v. có khả năng cao nằm ngoài mức dự đoán của lãnh đạo Trung Quốc.
Kịch bản thứ hai, Trung Quốc đồng ý để các toà án quốc tế giải quyết tranh chấp Biển Đông. Do sự yếu kém của Trung Quốc trong chứng cứ lịch sử và pháp lý về chủ quyền, do hành động sử dụng vũ lực năm 1974 và 1988 để chiếm đóng các đảo, đá ở Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam, và do chưa hội đủ điều kiện thuận lợi cho nguyên tắc “quieta non movere”, Trung Quốc phản đối luật hoá hay quốc tế hóa vấn đề biển Đông, kiên trì với chủ trương “đàm phán song phương”, “gác tranh chấp, cùng khai thác”. Hơn ai hết, Trung Quốc hiểu rõ rằng họ mất nhiều hơn được khi phải đối diện với các toà án quốc tế.
Kịch bản thứ ba, Trung Quốc không sử dụng vũ lực nhưng tiếp tục chiến thuật kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp Biển Đông.
Dựa trên các nguyên tắc đã nêu lên trong luật pháp quốc tế, Trung Quốc củng cố vị trí của họ trên Biển Đông nhằm chiếm đóng vĩnh viễn các đảo hiện đang kiểm soát bất hợp pháp. Đây là kịch bản thuận lợi cho Trung Quốc và bất lợi cho Việt Nam, nếu Việt Nam không sử dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp với Trung Quốc trong thời gian tới.
Thực tế cho thấy Trung Quốc đã thành công trong hơn 20 năm qua khi áp lực nước có tranh chấp với Trung Quốc thực hiện “đối thoại hoà bình”, cho đến khi Philippines chính thức khởi kiện Trung Quốc ra Toà án Trọng tài theo Phụ lục VII của UNCLOS đầu năm 2013.
Kịch bản thứ tư, Trung Quốc đẩy mạnh chiến thuật “tằm ăn dâu” trên Biển Đông. Họ tiếp tục hành xử chủ quyền ở các khu vực đang chiếm đóng bất hợp pháp, biến khu vực không tranh chấp thành khu vực tranh chấp, áp lực nước có tranh chấp với Trung Quốc thực hiện “đối thoại hoà bình” hay đi theo chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” ở khu vực “tranh chấp” mới.
Kịch bản này giúp cho Trung Quốc mở rộng ranh giới “đường lưỡi bò” nhưng họ không thể dự đoán được mọi phản ứng, bao gồm khả năng xung đột quân sự có giới hạn, với thành viên khối ASEAN, với Mỹ hay các đồng minh khác của Mỹ.
Kịch bản này bất lợi trên nhiều mặt cho Việt Nam. Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.200 km để kiểm soát, các đảo của Việt Nam hiện đang bị Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp sẽ trở thành vĩnh viễn của Trung Quốc, khu vực thuộc EEZ của Việt Nam, trở thành khu vực “tranh chấp” với Trung Quốc, nếu Việt Nam không sử dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp với Trung Quốc trong thời gian tới.
Kịch bản thứ năm, Trung Quốc đàm phán nghiêm chỉnh với Việt Nam (và với các nước ASEAN có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc) để giải quyết tranh chấp Biển Đông. Đây là kịch bản thuận lợi nhất cho Việt Nam và các nước khác nhưng bất lợi cho tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.
Các sự kiện liên quan đến Biển Đông từ đầu năm 2013 cho đến hôm nay cho thấy tình hình không cho phép Việt Nam chần chừ, trì hoãn trong nỗ lực giải quyết tranh chấp biển đảo với Trung Quốc tận gốc rễ.
Còn nữa
  • Thái Văn Cầu
(Tác giả là  Chuyên gia Khoa học Không gian, sống tại Mỹ)