Trang

4 tháng 5, 2014

VnIndex giảm hơn 4 điểm

Nhiều cổ phiếu đang giảm sàn với dư bán sàn lớn như PVA, SNG, PSG, NVC, GGG…

Thị trường diễn biến không mấy khả quan sau kỳ nghỉ lễ dài khi VN30 giảm sâu gần 8,5 điểm. Bluechips đã kéo thị trường chung xuống dù số mã đứng giá khá nhiều. Những cổ phiếu đáng chú ý là:
-SBS vẫn đạt dư mua trần hơn 20 triệu cổ phiếu. Việc đua trần mua cổ phiếu này không quá bất ngờ khi công ty chứng khoán này tái cơ cấu khá thành công sau 1 năm rời sàn niêm yết. Sự trở lại với giá tham chiếu 900 đồng hồi cuối tháng 4 khiến cổ phiếu này hấp dẫn nhà đầu tư. Tuy nhiên, hiện tượng tiết cung vẫn xảy ra nên thanh khoản cổ phiếu SBS rất thấp.
-Bắt đầu có nhiều cổ phiếu bán bằng mọi giá. Không ngoại trừ là việc "margin call" đã xảy ra ở nhiều cổ phiếu khi việc bán sàn được đặt lệnh khá nhiều. Những cổ phiếu hiện đang giảm sàn với dư bán sàn khá lớn phải kể đến là: HLA (Hữu Liên Á Châu); PSG, PVA, QCC, SNG....
............
Mở cửa phiên giao dịch sáng nay, có lúc 2 sàn đã tăng điểm nhưng đà tăng không giữ được lâu khi hầu hết bluechips giảm điểm.
VN30 sáng nay chỉ có 3 mã tăng trong khi có đến 16 mã giảm điểm. Chỉ số này giảm trên dưới 4 điểm kéo chỉ số VNIndex giảm nhẹ. MSN giảm 1.000 đồng/cp; FPTPVDVIC giảm 500 đồng/cp; GMD giảm 600 đồng…
Trên HNX, KLF dẫn đầu thanh khoản và hiện đi ngược xu thế chung của thị trường, tăng 200 đồng/cp lên 13.800 đồng/cp. PVC tăng mạnh 400 đồng sau thông tin KQKD khá khả quan quý 1.
Nhiều cổ phiếu đang giảm sàn với dư bán sàn lớn như PVASNGPSG,NVCGGG
Thanh Hiên
Theo Trí Thức Trẻ

Tính đại chúng đang thụt lùi


Theo quy định hiện nay, công ty đại chúng phải có 100 cổ đông trở lên, nhưng tại nhiều ĐHCĐ của các công ty niêm yết (là công ty đại chúng) số lượng cổ đông hiện diện thấp hơn con số này rất nhiều.

Chỉ trong 2 ngày 25 và 26-4 đã có hàng trăm đại hội cổ đông (ĐHCĐ) của các công ty đại chúng diễn ra trên cả nước, đây cũng là 2 ngày cao điểm kết thúc mùa ĐHCĐ của năm 2014. ĐHCĐ là dịp tốt nhất để các doanh nghiệp (DN) chứng tỏ hiệu quả của mô hình công ty đại chúng, nhưng trong mùa ĐHCĐ năm nay một số DN lại không muốn làm điều này.
Cổ đông nản
Theo quy định hiện nay, công ty đại chúng phải có 100 cổ đông trở lên, nhưng tại nhiều ĐHCĐ của các công ty niêm yết (là công ty đại chúng) số lượng cổ đông hiện diện thấp hơn con số này rất nhiều. Điều đáng nói là trong một DN luôn luôn có sẵn một lực lượng cổ đông rất đông đảo, đó là cán bộ công nhân viên.
Có công ty những năm đầu mới niêm yết còn chủ động kêu gọi cán bộ công nhân viên, người nhà tham dự ĐHCĐ cho đông, nhưng càng về sau thấy không cần nên thôi khỏi thực hiện nữa. Một cổ đông bên ngoài đến tham dự đại hội chỉ có hai ba chục người buồn như thế nào, như vậy cổ đông chẳng còn muốn quan tâm đến DN.
Một cổ đông tham dự ĐHCĐ của Pomina (POM) diễn ra vào sáng 26-4 đã ngán ngẩm thốt lên tính đại chúng của công ty này ngày càng thấp. Chưa cần đến dự đại hội của POM cũng phần nào nhìn ra được vấn đề này, vì CP của công ty đang niêm yết có thanh khoản vào loại thấp, mỗi phiên chỉ khoảng vài trăm đến vài ngàn CP được giao dịch, lâu lâu mới có phiên vài chục ngàn CP khớp lệnh.
Điều lạ lùng nhất là POM đã niêm yết từ năm 2010, là một DN lớn, có thực lực, nhưng sự nhàm chán trong hoạt động quan hệ NĐT và ĐHCĐ vẫn đi ngược với xu hướng của thị trường. Có thể ví von, NĐT quan tâm đến Hòa Phát (HPG), một đối thủ lớn của POM bao nhiêu lại chán POM bấy nhiêu.
Tại ĐHCĐ của Bảo hiểm Pjico (PGI), trả lời về vấn đề thị giá của CP trên sàn không được như kỳ vọng, lãnh đạo công ty cho biết nguyên nhân một phần vì… không ai muốn bán ra. Câu trả lời khiến NĐT đặt vấn đề phải chăng vị này không hiểu biết gì về chứng khoán hoặc rất thiếu trách nhiệm. Trường hợp của Licogi 16 (LCG), CP có thanh khoản, ĐHCĐ vẫn có nhiều NĐT quan tâm, nhìn có vẻ vẫn “đại chúng”, nhưng thực tế hoàn toàn trái ngược. Việc LCG đã thay đổi nhiều tờ trình trước ĐHCĐ cho thấy cách làm có phần duy ý chí của ban lãnh đạo mà không quan tâm đến quyền lợi của nhiều cổ đông bên ngoài.
Hệ quả NĐT chủ yếu quan tâm đến CP có giá bao nhiêu, biến động thế nào, còn vận mệnh của DN ra sao mặc kệ, miễn đừng tệ quá là được. Còn ban lãnh đạo có vẻ như cũng không muốn huy động các nguồn lực từ cổ đông, lợi thế vô cùng quan trọng của công ty đại chúng để cùng nhau đưa DN phát triển.
Nhà báo - người quan sát bị siết
Góp phần chuyển tải những thông tin về ĐHCĐ của DN và cũng đóng vai “người quan sát” tính đại chúng của DN khá tốt chính là báo giới. Gần như một công thức, hễ DN nào có các sự kiện hot theo hướng không tích cực, lập tức các phóng viên bị “siết” tham dự và động thái này lập tức phản tác dụng.
Cứ nhìn các trang tin điện tử hiện nay sẽ thấy, ĐHCĐ của các DN được tường thuật trực tiếp, mà chỉ cần một trang có thông tin trang khác cũng có thể tận dụng khai thác. Với những DN những năm trước còn niềm nở hoặc tương đối thoải mái trong việc tiếp đón phóng viên đến tham dự ĐHCĐ, thì việc siết lại năm nay có thể xuất hiện câu hỏi rằng DN có chuyện gì lại ngại báo giới? Hoặc minh bạch có chi mà ngại?
Theo sự phát triển của TTCK, NĐT tham gia ngày một đông đảo, nên tất yếu cơ cấu cổ đông của các DN cũng đa dạng, thậm chí phức tạp hơn và nếu không có cách ứng xử hợp lý phần thiệt sẽ thuộc về DN. Thí dụ, một đối thủ của DN chỉ cần bỏ tiền mua 10 hay 100 CP là có thể tham dự ĐHCĐ và yêu cầu lãnh đạo cung cấp các thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh.
Nếu DN cởi mở quá mức có thể dẫn đến việc lộ những bí mật kinh doanh, nhưng nếu thoái thác sẽ mang tiếng thiếu minh bạch. Từ chỗ thiếu minh bạch, có thể ngay trong đại hội các NĐT muốn tìm hiểu DN thực sự để cân nhắc khả năng hợp tác sâu hơn sẽ không tin tưởng. Với các DN đầu ngành, vị thế lớn giải quyết không khó, nhưng với các DN có quy mô cỡ vừa trở xuống đây là một thách thức thật sự.
Cơ cấu cổ đông đa dạng, nên các yêu cầu đặt ra cho ban lãnh đạo cũng ngày một khắt khe hơn. Khi NĐT ngày một trưởng thành và tinh ý hơn, chỉ cần qua vài câu hỏi đáp có thể biết được những người đứng đầu DN như thế nào.
Một DN niêm yết từ 5 năm trở lên, nếu không có chiến lược rõ ràng và hành động không nhất quán, việc giải đáp khúc mắc của cổ đông cũng như nói về các định hướng tương lai sẽ khó lòng suôn sẻ. Hoặc lãnh đạo của các công ty nhỏ, sau vài câu hỏi của cổ đông đã nổi nóng NĐT cũng nhìn ra được khả năng hợp tác với các cổ đông, các NĐT tổ chức rất thấp. Chưa kể, do báo chí thường xuyên cập nhật, nên chỉ cần năm ngoái nói khác, năm nay nói khác lập tức lãnh đạo DN sẽ bị coi là “chém gió”.
Tính đại chúng đang thụt lùi (1)
ĐHCĐ CTCP Sông Đà 505 năm 2014.
Ngay khi trước ĐHCĐ cũng đã có những DN hành xử theo kiểu bất cần. Một công ty làm trong ngành xây dựng ở miền Trung thậm chí không thèm gửithư mời hay liên lạc với cổ đông. Hay như việc tiến hành hoãn ĐHCĐ, dời ngày không công bố lý do chính đáng cũng khiến nhiều người phải đau đầu tự hỏi không biết DN có chuyện gì hay coi thường cổ đông.
Hiện nay có 2 dạng đại hội “đi cũng như không đi” nếu xét về mặt thông tin. Dạng thứ nhất là của những công ty có tính minh bạch cao như Dược Hậu Giang, Nhựa Bình Minh, Vinamilk, REE, SMC… Thông tin trước, trong và sau đại hội đều được chuyển tải tới các cổ đông rất rõ ràng. Dạng thứ hai dù có đi hay không cổ đông cũng không khai thác được thông tin gì nhiều khi lãnh đạo cứ thỏa sức nói theo lãnh đạo, còn cổ đông có hỏi hay không thì cứ tìm cách tránh né.
Mong rằng dạng thứ nhất sẽ ngày một nhiều hơn, còn dạng thứ 2 ít đi. Một số DN thời gian qua vẫn cứ nói đến vấn đề văn hóa DN, nhưng một DN có văn hóa cũng phải đối xử với cổ đông có văn hóa, đó là điều tất yếu. Chẳng lẽ sau văn hóa DN, lại còn có cả văn hóa ứng xử với cổ đông! Nếu cứ mãi loay hoay như vậy DN sẽ khó lòng phát triển, tính đại chúng cứ mãi thụt lùi.
Theo MINH PHƯƠNG
Sài Gòn Đầu tư tài chính

Thống đốc Bình được mấy phần của "Nửa Giải Nobel"?

Thống đốc Bình được mấy phần của "Nửa Giải Nobel"?

Còn nhớ, cuối năm 2012, Thống đốc Bình đã tự nhận điểm 8 về công tác điều hành và xin được nhận "Nửa Giải Nobel" nếu ông giải quyết được một trong những vấn đề tăng trưởng - lạm phát - tỷ giá.


 
Câu nói vui của ông Bình khi ấy cho thấy, nền kinh tế khó có thể thực hiện đồng thời cả 3 mục tiêu: duy trì tăng trưởng cao, níu lạm phát xuống thấp và giữ giá tiền đồng, nếu không nói là "bất khả thi".
Bài toán tăng tín dụng
Hơn một năm rưỡi trôi qua, các đại biểu Quốc hội đã thôi không chất vấn Thống đốc Bình về cái đầu bài quá khó. Nhưng những vấn đề "nóng" như chống "đôla hóa", "vàng hóa" khi Nhà nước nắm độc quyền vàng, khơi thông tín dụng cho nền kinh tế, xử lý nợ xấu, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng với "lùng nhùng" sở hữu chéo, lợi ích nhóm…, thì vẫn được đặt ra?
Trong đó, tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng trưởng ì ạch, dòng vốn tắc nghẽn đang là bài toán khó với nhà điều hành. Giờ đây, ngân hàng đang phải "gõ cửa" DN chào mời vay vốn, hay cạnh tranh để "được" tài trợ dự án, giành giật khách hàng tốt… Thậm chí, một vài ngân hàng chấp nhận cho vay thấp hơn cả mức lãi suất huy động, chỉ từ 5-5,5%/năm để "câu" khách mà cũng còn chật vật.
Tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp ngày 28/4, đại diện cho khối doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) - chiếm tới 96% số doanh nghiệp Việt Nam- than thở rằng họ vẫn khó tiếp cận vốn ngân hàng với những điều kiện vay vốn quá khắt khe.
Vẫn với sự tự tin vốn có, ông Bình trả lời về những nguyên nhân khiến DNVVN khó vay được vốn ngân hàng. Đó là do các công cụ hỗ trợ DNVVN chưa phát huy hiệu quả trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, là lãi suất đã giảm nhưng vẫn còn cao hơn so với điều kiện của DN. Đặc biệt, là năng lực tài chính, quản trị của DN còn hạn chế, dẫn tới rủi ro nợ xấu lớn khiến ngân hàng phải thận trọng, siết chặt điều kiện cho vay…
Do đó, ngoài nguồn tín dụng ngân hàng, theo ông Bình, cần phải tăng hiệu quả các quỹ hỗ trợ DNVVN, quỹ quản lý tiết kiệm DN, đẩy mạnh liên kết các khâu trong quá trình sản xuất, kinh doanh để tiết giảm chi phí vốn, tăng hiệu quả.
Thống đốc Bình được mấy phần của
"Về lãi suất giảm mà vẫn cao, ngân hàng phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường nên cần chính sách hỗ trợ khác cho DN. Chẳng hạn, chúng tôi đã có nhiều chương trình thí điểm kết nối trực tiếp DN và ngân hàng, địa phương hỗ trợ 2-3% lãi suất thì DN lại hoạt động được…"- ông Bình nói, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết tham gia của chính quyền địa phương các cấp để hỗ trợ DN nhanh chóng khôi phục hoạt động, bên cạnh việc ngân hàng tiếp vốn.
Giai đoạn 2010-2011, các DN liên tục kêu ngân hàng siết chặt tín dụng, cho vay với lãi suất cao tới 25-27%/năm không khác nào "tín dụng đen". Nhiều DN khát vốn vẫn phải "cắn răng" vay lãi cao để duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Cần chính sách ổn định
Có thực tế là, những khoản nợ vay ngân hàng, vay lãi ngoài cùng với lợi nhuận kinh doanh khi ấy cũng chỉ phục vụ mục tiêu duy nhất là "đảo nợ" ngân hàng.
Sau thời gian "đu dây" căng thẳng với gánh nặng chi phí lãi vay quá cao, các DN dần "đuối sức", mất cân đối tài chính trầm trọng, "sa lầy" trong núi nợ xấu hàng nghìn tỷ đồng. Dẫn chứng là hàng loạt đại gia ngành thép, bất động sản, xi măng, cà phê, thủy sản… ngày càng kiệt quệ, không trả được nợ ngân hàng. Ở đường cùng, con nợ còn "liều" bán trộm tài sản bảo đảm, lấy tiền trả nợ, dù biết đó là hành vi "lừa đảo, chiếm đoạt tài sản"…
Giữa năm 2012, Thống đốc Bình đã đưa ra một cam kết gây chấn động thị trường, là "sẽ giữ lãi suất cho vay dưới 15%/năm và giữ ổn định trong vòng 1 năm". Sau đó, NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng rà soát, giảm lãi suất nợ vay cũ về dưới mức 15%/năm, hạ lãi suất huy động để kéo giảm lãi suất cho các khoản vay mới. Biện pháp hành chính này khi đó được DN hồ hởi đón nhận, ngân hàng chấp hành.
Tuy nhiên, điều quan trọng là để được vay, DN phải còn khả năng hoạt động, có phương án kinh doanh khả thi, có nguồn thu trả nợ… thì ngân hàng mới cho vay, hưởng ưu đãi lãi suất rẻ. Đó là còn chưa tính tới thực tế: DN có còn tài sản thế chấp để vay mới không, khi mà những tài sản bảo đảm cho nợ cũ có thể đã bị giảm giá trị, thất thoát tài sản, thanh khoản kém hoặc bị tranh chấp? Nên không ít ý kiến đã tỏ ra hoài nghi với thông điệp của NHNN.
Chưa đầy một năm, Thống đốc Bình đã thực hiện vượt cam kết giảm lãi suất về dưới 15%/năm, kéo lãi suất huy động xuống còn 6%/năm, cho vay ra ở mức 8-9%/năm (như giai đoạn 2005-2006). "Đợt giảm lãi suất huy động xuống 6% vừa qua là một quyết định đầy khó khăn" - Thống đốc Bình nói, đồng thời chỉ rõ định hướng điều hành lãi suất theo diễn biến kinh tế vĩ mô, khả năng cân đối nguồn vốn của ngân hàng, lãi suất giảm ở mức hấp dẫn người dân gửi tiền tiết kiệm.
Nhưng với đa phần DN Việt Nam, hoạt động sản xuất, kinh doanh lâu nay vẫn phụ thuộc vào vốn ngân hàng, mà chính sách tín dụng nới lỏng hay thắt chặt, lãi suất cao hay thấp… có ảnh hưởng quyết định tới tăng trưởng, hiệu quả.
"Điều hành chính sách ổn định, không giật cục thì DN mới yên tâm tính toán phương án kinh doanh" là điều ông Bình nói trên diễn đàn, cũng chính là cam kết mà DN mong mỏi trong nhiều nhiệm kỳ thống đốc trước.
Và nếu thực hiện được, thì ông Bình sẽ được bao nhiêu phần của "Nửa Giải Nobel"?
Theo Thu Hằng ( Thời báo kinh doanh)

Chủ thuyết kinh tế nào cho VN?

Bất kỳ cải cách nào đều phải chịu những chi phí nhất định, có khi rất đắt. Nhưng không vì thế mà không làm

Chúng ta đang ôm đồm nhiều quá, mong muốn nhiều quá. Cái gì cũng muốn làm, từ bao cấp cho học sinh đi học, khám chữa bệnh, xóa nhà tranh tre,...trong khi nguồn lực rất có hạn.

Diễn đàn kinh tế mùa xuân 2014 đã chính thức khép lại với những dư âm có thể còn tương đối lâu dài. Suy cho cùng, câu chuyện về thể chế, nói đi nói lại vẫn...chưa xong, đặc biệt khi mà chúng ta vẫn chưa thực sự "dám" có một cuộc cách mạng đúng nghĩa, cải tiến mọi "luật chơi" cho các chủ thể kinh tế.

Một lần nữa, một diễn giả trong diễn đàn đã đặt lại vấn đề về chủ thuyết kinh tế riêng của Việt Nam. Theo PGS.TS.Lê Xuân Bá, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, chúng ta cần phải có nghiên cứu chủ thuyết phát triển kinh tế riêng có của Việt Nam.Đây là vấn đề không còn quá mới mẻ, nhưng không phải vì thế mà nó không được lưu tâm. Năm ngoái, Bộ trưởng Bùi Quang Vinh còn thẳng thắn, mô hình kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa “làm gì có cái thứ đó mà đi tìm”.
Còn nhớ tháng 7/2011, trong kiến nghị của Ủy ban Kinh tế khóa XII được gửi đến Quốc hội khóa XIII, vấn đề chủ thuyết kinh tế đã được đặt ra, với yêu cầu về ổn định kinh tế vĩ mô, tạo tiền đề cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững trong những chu kỳ tiếp theo.
Muốn cải cách thể chế, tạo sức bật cho nền kinh tế, chúng ta khó có thể khăng khăng giữ vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước, hay nói đúng hơn, dành quá nhiều ưu ái cho khu vực kinh tế này. Một ví dụ nho nhỏ về sự lãng phí nguồn lực được đưa ra tại diễn đàn kinh tế lần này: Ở tỉnh Quảng Ninh (và chắc hẳn không chỉ Quảng Ninh) – có một số công chức Nhà nước nhận lương 1 tháng 8 triệu (mức lương mơ ước với cử nhân mới ra trường tại thủ đô Hà Nội) với công việc duy nhất là…mang báo cho lãnh đạo hàng ngày!
Theo bà Phạm Chi Lan, đó là một sự lãng phí đến mức không tưởng tượng nổi. Bà cũng nhắc lại con số hàng chục nghìn lao động ngành than hiện đang dư thừa, và ước chừng số tiền lãng phí hàng năm lên tới hàng nghìn tỷ đồng. Không có cơ chế kinh tế nào vận hành hiệu quả lại như vậy cả! Những sai lầm trong việc bổ nhiệm nhân sự, không thể cứ thế bắt xã hội "gánh" được. 
Hiện nhiều quốc gia đang áp dụng chủ thuyết thực dụng (pragmatism) trong hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, kết hợp cách thức điều hành hiệu quả nhất mà hai trường phái kinh tế lớn trong lịch sử đưa ra để áp dụng trên thực tế cho một nền kinh tế: (i) Trường phái Keynes cho rằng sự can thiệp đúng lúc của Chính phủ là rất quan trọng để ổn định nền kinh tế và (ii) trường phái tân tự do cho rằng vai trò của Chính phủ là duy trì sự ổn định kinh tế Vĩ mô, bên cạnh đó, các chính sách như khuyền khích phát triển kinh tế tư nhân, tăng cường kỷ luật tài khóa, lãi suất theo cơ chế thị trường, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách hiệu quả, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước,…chính là cơ sở để cơ cấu kinh tế sẽ tự điều chỉnh theo hướng hiệu quả, hợp lý hơn và thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Những sự kết hợp nói trên, nhìn chung, có trong giáo trình của hầu hết các bộ môn về kinh tế. 
Ông Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội, trong trao đổi gần đây với báo chí cho rằng, hiện nay chúng ta phát triển kinh tế không theo một chủ thuyết, hoặc có chủ thuyết mà không được thực hiện tốt. Chúng ta đang ôm đồm nhiều quá, mong muốn nhiều quá. Cái gì cũng muốn làm, từ bao cấp cho học sinh đi học, khám chữa bệnh, xóa nhà tranh tre,...trong khi nguồn lực rất có hạn.
Rõ ràng, đây không phải lần đầu tiên tư duy "đa mục tiêu" được các nhà nghiên cứu nhắc đến. Diễn đàn kinh tế mùa thu 2013, chuyên gia Phạm Hồng Chương đến từ Đại học Kinh tế Quốc dân đã một lần vạch ra rằng,đã đến lúc chúng ta từ bỏ tư duy đa mục tiêu trong hoạch định chính sách. 
Cái chúng ta đang lúng túng, chưa thực sự tiến hành cải cách, có chăng, là việc chúng ta đang “mò mẫm” cái thể chế kinh tế vốn không tồn tại, như Bộ trưởng Bùi Quang Vinh đã chia sẻ.  
Xin kết bài với khuyến nghị của ông Lê Xuân Bá: Cái gì có lợi cho đất nước cho dân tộc thì làm, cái gì không lợi thì bỏ, không câu nệ. 
Minh Thư
Theo Trí Thức Trẻ

Cải cách thể chế và thượng tôn pháp luật


Phòng chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu có lẽ là dòng chữ quen thuộc nhất trong các bản báo cáo của Chính phủ...

Cải cách thể chế và thượng tôn pháp luật
Những thông điệp mạnh mẽ về cải cách thể chế từ Chính phủ nói chung và Bộ trưởng Vinh nói riêng đã dần trở nên quen thuộc.
In
Những đột phá về cải cách thể chế mà trước mắt là đòi hỏi tính thượng tôn pháp luật cần được đề cao và có những biện pháp triệt để nhằm đảm bảo rằng các quy định của pháp luật phải được tuân thủ không có ngoại lệ.
Thông điệp này đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra tại bản báo cáo về tình hình kinh tế xã hội vừa hoàn thành cuối tháng 4, trong bối cảnh các cuộc bàn thảo về cải cách thể chế đã và đang được tiến hành trên diện rộng.

Thượng tôn pháp luật, dĩ nhiên đó không chỉ là đòi hỏi của cải cách thể chế và cũng chẳng phải là điều mới mẻ gì. Nhưng, khi được thể hiện tại báo cáo do Bộ Kế hoạch và Đầu tư giúp Chính phủ chuẩn bị để trình Quốc hội, vẫn có ý nghĩa riêng của nó.

Bởi, tái cơ cấu nền kinh tế hô hào rất quyết liệt song chưa nhúc nhích gì đáng kể, cải cách thể chế kinh tế nói rất nhiều làm chẳng được bao nhiêu, như nhận xét của nhiều chuyên gia, suy cho cùng đều có nguyên nhân từ tính thượng tôn pháp luật chưa phải ở đâu và lúc nào cũng được đề cao.

Ngay tại bản bảo cáo nói trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đánh giá, công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu, mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi. 

Và đây có lẽ cũng là dòng chữ quen thuộc nhất trong phần tồn tại, hạn chế tại các bản báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội trong các kỳ họp gần đây.

Còn ở không ít diễn đàn do các cơ quan của Quốc hội chủ trì, các chuyên gia độc lập cũng đã chỉ rõ những cản trở đổi với quá trình cải cách thể chế đều liên quan đến việc pháp luật bị xem nhẹ. Đó là nạn chạy chức chạy quyền, mua quan bán chức đã trở nên phổ biến, theo nhận xét của chuyên gia Võ Đại Lược. 

Đó là bởi “thế lực doanh nghiệp nhà nước là kinh khủng”, và “nếu nói nhóm lợi ích của Việt Nam thì đây là số một, và là lực cản rất trực tiếp đối với cải cách thể chế”, theo đánh giá của chuyên gia Phạm Chi Lan.

Đó còn là bộ máy hành chính, trong khi thực thi nhiệm vụ của mình, cũng đòi hỏi người dân và doanh nghiệp chi thêm ngoài pháp luật một tỷ lệ không nhỏ, như chuyên gia Lê Đăng Doanh đã viết trong một bản tham luận gửi đến Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân 2014 mới đây.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh có lẽ cũng đã được nghe không dưới một lần những nhận xét nói trên.

Bản báo cáo do ông ký viết rằng, thượng tôn pháp luật trước hết phải được thể hiện trong chính các cơ quan, tổ chức và công chức chịu trách nhiệm thi hành chính sách, rồi mới đến tuyên truyền giáo dục cho người dân ý thức tuân thủ luật pháp.

Vẫn nằm trong nội dung tạo dựng nền tảng pháp lý và động lực bước đầu cho cải cách thể chế trong trung và dài hạn nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Bộ trưởng Vinh còn đề cập giải pháp đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Như, ngăn chặn, làm triệt tiêu các điều kiện và cơ hội phát sinh tham nhũng trong việc hoạch định chính sách, xây dựng và thực hiện pháp luật. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước, ngăn ngừa việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi trên cơ sở xây dựng nền công vụ hiệu quả, minh bạch, phục vụ nhân dân và xã hội. Từng bước xóa bỏ tệ hối lộ trong quan hệ giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước và trong giao dịch thương mại.

Một giải pháp mạnh mẽ nữa cũng được nhấn mạnh. Đó là kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu để xảy ra tình trạng chậm ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thì hành pháp luật, không đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật, không phù hợp với thực tiễn và không khả thi.

Những thông điệp mạnh mẽ về cải cách thể chế từ Chính phủ nói chung và Bộ trưởng Vinh nói riêng đã dần trở nên quen thuộc. Song, điều đang được cả đại biểu Quốc hội và cử tri rất trông đợi là hành động của Chính phủ, trong đó có cá nhân Bộ trưởng để rút ngắn khoảng cách giữa các giải pháp tại báo cáo và hành động trên thực tế.

Cử nhân làm bồi bàn 'tố' tỉ lệ thất nghiệp báo động


(Giáo dục) - Không ít cử nhân đi làm bồi bàn, bán quần áo, giày dép, phục vụ bàn, làm bảo vệ... để nuôi sống bản thân.
Câu chuyện những cậu cử, cô cử không có việc làm đúng ngành nghề đào tạo, phải chấp nhận đi làm đủ thứ việc là chuyện không mới.
Tờ Tuổi trẻ đưa tin, tại một quán ăn ở Q.9, Huỳnh Thị Thúy Hằng, nhân viên tiếp thị cho một hãng bia, đã tốt nghiệp ngành tài chính ngân hàng.
Hằng cho biết sau khi tốt nghiệp năm 2013, Hằng gửi hồ sơ ở nhiều nơi nhưng không xin được việc. Hằng đành làm tạm nhân viên tiếp thị bia một thời gian.
Tương tự như Hằng, Nguyễn Thị Minh Thùy tốt nghiệp CĐ ngành quản trị kinh doanh, không xin được việc làm đúng chuyên ngành, hàng đêm Thùy cũng đi làm tiếp thị bia.
Không ít cử nhân thất nghiệp đã phải chọn công việc tạm thời là phụ bàn, bán hàng... để mưu sinh
Không ít cử nhân thất nghiệp đã phải chọn công việc tạm thời là phụ bàn, bán hàng... để mưu sinh
Tại khu chợ đêm ở khu đô thị ĐH Quốc gia TP.HCM cũng có khá nhiều cử nhân mở sạp bán quần áo, giày dép...
Nguyễn Như Cẩm tốt nghiệp ngành quản lý đô thị Trường ĐH quốc tế Hồng Bàng bán quần áo ở đây e dè cho biết: “Em tốt nghiệp năm 2012, không tìm được việc đúng chuyên ngành, em xin làm nhân viên văn phòng cho một công ty nhưng lương thấp quá nên em nghỉ, chuyển ra đây bán quần áo. Không biết đến bao giờ mới xin được việc đúng chuyên ngành học, giờ tìm việc khó quá!”.
Những ví dụ này không quá bất ngờ bởi trước đó Bộ LĐ-TB-XH khi ra mắt bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam số 1, quý 1/2014 đã công bố tỷ lệ thất nghiệp cao rơi vào những người có trình độ chuyên môn.
Trong đó, thanh niên từ 20 - 24 tuổi tốt nghiệp CĐ - ĐH trở lên thất nghiệp tới 20,75%. Đặc biệt, có hơn 72.000 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp, cao gấp 1,7 lần so với cuối năm 2012.
Theo đó nhiều trường hợp chấp nhận đi làm phụ bàn, bảo vệ... nhưng có trường hợp lại tìm cách học nâng cao bằng cấp của mình.
Theo Ban Đào tạo sau đại học (ĐH Đà Nẵng), những năm gần đây xu hướng sinh viên mới tốt nghiệp ĐH đăng ký học luôn thạc sĩ rất nhiều. Phần vì muốn nâng cao bằng cấp, kiến thức, phần vì chưa có việc làm ổn định.
Nhiều trường ĐH dân lập đăng ký đào tạo sau đại học, mở thêm hàng loạt mã ngành theo nhu cầu đào tạo, sử dụng, khiến số lượng thạc sĩ tốt nghiệp mỗi năm là con số không hề nhỏ.
Tuy nhiên hiện không ít nhà tuyển dụng ngần ngại sử dụng bằng cấp cao vì liên quan hệ số lương thưởng. Thực tế này khiến nhiều thạc sĩ ra trường gặp khó khi xin việc và tiếp tục theo vòng luẩn quẩn đào tạo - thất nghiệp - đào tạo.
Do đó giới chuyên môn cho rằng cần phải cân đối lại nhu cầu thực sự để tránh tình trạng lãng phí nguồn lực như hiện nay.
Phương Nguyên ( Đất Việt )

TQ 'hành xử như thực dân mới'


(Thị trường) - Trung Quốc đang bị cáo buộc chỉ tập trung vào việc khai thác nguyên liệu chứ không giúp tạo công ăn việc làm và thị trường tại Châu Phi.
Cáo buộc này vừa được đưa ra hồi tháng 3/2014. Theo đó, tờ Reuters phản ánh công nhân dầu mỏ của 2 dự án Trung Quốc tại Chad và Niger đã đình công để phản đối tiền lương không hợp lý. Các công ty Trung Quốc còn bị cáo buộc đã đối xử bất công với công nhân địa phương.
Tuy nhiên, ông Lý Khắc Cường, Thủ tướng Trung Quốc nói: “Tôi cam đoan với bạn bè các nước châu Phi rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ theo đuổi con đường thực dân như một số nước đã làm, hoặc cho phép chủ nghĩa thực dân từng có trong quá khứ xuất hiện trở lại ở châu Phi”.
Ông Lý Khắc Cường cũng nói thêm rằng chính phủ Trung Quốc sẵn sàng ngồi lại bàn bạc với các nước châu Phi để giải quyết bất kỳ vấn đề phát sinh nào giữa hai bên, đồng thời cho rằng không nên để những vụ việc “cá biệt” ảnh hưởng đến quan hệ song phương được dựa trên sự bình đẳng và hợp tác đôi bên cùng có lợi.
Phát biểu trước chuyến công du tới 4 nước châu Phi là Ethiopia, Nigeria, Angola và Kenya từ ngày 4 đến 11/5, ông Cường còn cho rằng: "Các tranh chấp phát sinh trong những dự án đầu tư của Trung Quốc tại châu Phi đã khiến mối quan hệ 2 bên đang bị “tổn thương”.
Châu Phi đang cáo buộc Trung Quốc áp chính sách thực dân
Châu Phi đang cáo buộc Trung Quốc áp chính sách thực dân
Trên thực tế từ năm 2012, từ Bắc Phi cho đến Nam Phi , Trung Quốc đổ hàng chục tỷ đôla đầu tư mặc dù bản thân Trung Quốc cũng đang gặp khó khăn do khủng hoảng toàn cầu : 15 tỷ tại Algérie, 4,1 tỷ tại Nam Phi… và sẽ "tiếp tục chính sách hợp tác , nâng cao trị giá gia tăng cho tài nguyên châu Phi….".
Sau đó vào tháng 7/2012, khi đến thăm Sénégal, ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton gián tiếp lên án Trung Quốc thay vì "làm tăng giá trị cho tài nguyên châu Phi thì lại khai thác nó đem đi".
Còn năm 2011, tại Lusaka, thủ đô Zambia, ngoại trưởng Mỹ đã trực tiếp lên án "cách đầu tư của Trung Quốc luôn luôn đi ngược lại chuẩn mực quôc tế về minh bạch và hiệu quả" với mục tiêu sau cùng là thu tóm khoáng sản, dầu khí, gỗ mang về bản quốc.
Trong những năm gần đây, nhiều chuyên gia quốc tế cũng đã chỉ trích Trung Quốc hành xử như một "thực dân mới".
Thực tế trong chục năm qua, hàng hóa Trung Quốc như đồ điện tử, linh kiện thay thế, hàng tiêu dùng, đồ may mặc… với nhiều ưu điểm như rẻ và mẫu mã đẹp, đa dạng đã tràn ngập các thị trường châu Phi.
Không chỉ có vậy, tại các dự án của mình Trung Quốc đã đưa công nhân sang châu Phi làm việc, Trung Quốc đã phần nào giảm nhẹ tình trạng thất nghiệp trong nước, tăng thêm nguồn thu cho nước này.
Hiện có khoảng gần 1 triệu người Trung Quốc sinh sống, làm việc ở châu Phi và gần 1.000 công ty Trung Quốc đang làm ăn ở châu lục này.
Trung Quốc là nhà xuất khẩu vũ khí lớn (hiện đã vượt Anh để đứng thứ 5 thế giới) và nhiều nước châu Phi đã và đang quay sang mua vũ khí của Trung Quốc (có giá rẻ) bên cạnh nhà cung cấp truyền thống là Nga.
Không chỉ có thế, việc chủ động quan hệ tốt với hầu hết các nước châu Phi đã giúp Trung Quốc giành được sự ủng hộ của họ tại Liên Hợp Quốc và các diễn đàn quốc tế, nâng cao vị thế Trung Quốc trong 1 thế giới đa cực hậu Chiến tranh Lạnh. Giao hảo với châu Phi còn rất có ích cho Trung Quốc trong việc cô lập Đài Loan về mặt ngoại giao và thực hành chính sách “một nước Trung Hoa”.
Phương Nguyên