Trang

1 tháng 2, 2014

Văn hóa Việt trong vận khí suy vong


Thụy My
Đầu năm, khi đất trời vào xuân, cũng là dịp để suy ngẫm lại những vấn đề về văn hóa. RFI đã phỏng vấn tiến sĩ Phạm Chí Dũng, cũng là một nhà văn đồng thời còn là người có nhiều bài viết phê bình về văn học nghệ thuật.



Tiến sĩ Phạm Chí Dũng
01/02/2014
RFI : Thân chào tiến sĩ Phạm Chí Dũng, rất vui được tiếp chuyện anh nhân dịp xuân về. Trước hết anh có thể cho biết cảm xúc của anh trong bầu không khí đầu năm mới ?
Rất khó tả, nhưng rõ rệt nhất là thiếu hẳn hương sắc mùa xuân. Làm sao có thể vui nổi khi đây là cái Tết thứ ba liên tiếp tôi chứng kiến cảnh tượng hàng vài chục ngàn công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất không có đủ tiền mua vé tàu xe về quê ăn Tết. Với họ, đang xảy ra một nét văn hóa rất mới, có thể gọi là “văn hóa tết cấm trại”. Tức phỏng theo một điều lệnh trong quân đội, công nhân ở nguyên trong khu nhà trọ mà không dám bước ra đường vì chẳng có tiền. Mà như vậy thì còn gì là tết?
Không khí đường phố cũng uể oải và bải hoải. Chỉ sát Tết người dân mới có chút tiền để mua sắm, nhưng ở nhiều tụ điểm mai và đào vẫn ế chỏng chơ. Khách hàng đã và đang quay lưng với thị trường như một dạng văn hóa phủ nhận trong kinh doanh.
Đã đến lúc người dân không thể mặc định sắc màu của nền văn hóa dân tộc như những báo cáo tô hồng của chính phủ về nền kinh tế hay những nghị quyết của đảng về đường lối kiên định đi lên chủ nghĩa xã hội đến hết thế kỷ 21. Hiện tại được dẫn dắt bởi quá khứ, và tương lai lại được quyết định bởi những gì trong hiện tại.
Quá khứ đó, chúng ta thấy cái gì? Năm 2013 chứng kiến những trận hôi của vĩ đại chưa từng thấy ở một số địa phương, cuộc tranh cướp bánh sushi trong một nhà hàng ngay tại thủ đô, cho dù không thể cho rằng tất cả những người tranh giành đều đói khát và đất nước cũng chưa đến thời đói kém…
Những hiện tượng xã hội đó đang góp phần triệt tiêu nhanh chóng khẩu hiệu của đảng “xây dựng nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc”. Tương tự, điều lạ lùng là trong mấy năm gần đây, chẳng mấy cơ quan tuyên giáo và dân vận còn nhắc tới khẩu hiệu này. Vì sao vậy? Đơn giản là thực tiễn đã trở nên tồi tệ đến mức giới chức đảng lẫn chính quyền không thể cứ mãi tự ru ngủ mình và mị dân xã hội bằng những lý lẽ một chiều đã bị thực tế bào mòn đến tận chân gốc. Dù luôn bị ăn sâu tâm lý thành tích, ít nhất họ cũng phải tự rung động một nỗi xấu hổ tối thiểu nào đó chứ!

RFI
 : Những giá trị truyền thống của ông cha như « Giấy rách phải giữ lấy lề », « Một câu nhịn chín câu lành »…dường như đã bị thay bằng sự vô cảm, tâm lý mạnh được yếu thua. Ngày nào đọc báo cũng đều thấy những tin được gọi là « cướp, hiếp, giết », người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau, thậm chí mạng người có thể bị mất đi vì những lý do rất nhỏ nhặt. Thưa anh, phải chăng đạo đức xã hội đang rơi xuống tận đáy ?
Khi xảy ra cái chết ở thẩm mỹ viện Cát Tường tại Hà Nội vào năm 2013, một quan chức cao cấp ngành y tế đã phải thốt lên rằng đạo đức và y đức đã xuống đến đáy. Nhưng tôi cho là tất cả vẫn chưa phải tồi tệ nhất. Cái tồi nhất nằm ở phía trước, ở thì tương lai đầy sương mù và dưới vực thẳm, mà chế độ này và phần lớn dân chúng vẫn chưa hình dung hết.
Phía trước ấy là một cuộc tha hóa vĩ đại của toàn bộ nền văn hóa. Tuân theo quy luật vật chất quyết định ý thức, kinh tế quyết định văn hóa và bất kỳ khi nào nền kinh tế lao vào hố sâu khủng hoảng, đời sống sẽ trở nên thiếu thốn và đói kém đến mức một bộ phận dân chúng sẵn sàng giết nhau để sinh nhai.
Lịch sử đã chứng minh hết sức cận kề ở một quốc gia đông dân nhất thế giới, chính là Trung Quốc trong thời Cách mạng văn hóa những năm 60 của thế kỷ trước. Khi đó có đến 30 triệu người bị chết không chỉ bởi vô số cuộc thanh trừng, mà còn bởi đất nước này đã rơi vào thảm trạng đói kém đến mức tại một số nơi người dân đã phải ăn nhau để cầm hơi. Đó chính là điều tồi tệ phi nhân tính nhất, mà một nền văn hóa suy đồi đến tận cùng có thể mang lại.
Năm 2013 đã trở nên một đặc tả khá kinh khủng, trên bức tranh khốn quẫn của nền văn hóa đang lao dốc và còn chưa tìm thấy đáy ở Việt Nam. Cùng với cái gọi là nền văn hóa tham nhũng chưa từng thấy ở đất nước này, khắp nơi trong xã hội đã diễn ra cảnh cha con giết nhau, vợ chồng giết nhau, thầy đánh trò và trò giết thầy, nạn cướp của và hiếp dâm nổi lên khắp nơi. Cường hào ác bá cũng hoàn hành tàn lộng và bất chấp đạo lý. Nhưng nghịch lý ghê gớm là kinh tế càng suy thoái, người giàu lại càng giàu. Không biết bao nhiêu quan chức đã ních đầy túi và chỉ còn chờ chực cơ hội biến khỏi tổ quốc nếu xảy ra động loạn…
Rồi một điều tất yếu phải xảy ra là khi luật pháp không còn là mái nhà che chở cho người dân, chính nhân dân đã phải làm thay luật pháp. Nạn tự xử đối với những kẻ trộm chó mèo diễn ra ở Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh… Ở Bắc Giang, khi vài người dân bị công an khởi tố bắt giam vì đánh chết cẩu tặc, đã có đến 800 người dân khác đồng ký tên vào một bản tuyên bố cùng nhận tội. Đó là cái gì? Một loại văn hóa phản kháng của người dân đang phát tiết ngay trong lòng chế độ “của dân, do dân và vì dân”.
Tố chất văn hóa phản kháng đó đã dẫn đến làn sóng chống người thi hành công vụ lan rộng một cách đầy tự phát và bạo lực ở nhiều nơi. Không hiếm cảnh thanh niên đi đường và những người dân “săn sóc” một cách đặc biệt đến hành vi của cảnh sát giao thông, bởi lực lượng cảnh sát bị xem là đối tượng tham nhũng nhất quốc gia này càng ngày càng mang ý nghĩa như một mồi lửa châm ngòi cho các cuộc xung đột tự phát và rất khó kềm chế.
RFI : Thưa anh đầu năm thường nói chuyện vui, nhưng bức tranh thực tế xã hội lại quá xám. Những cách hành xử của con người thường từ nền giáo dục mà người đó được hấp thụ. Vậy thì theo anh trách nhiệm của ngành giáo dục đối với nền văn hóa như thế nào ?
Đóng góp không nhỏ vào sự xuống cấp của nền văn hóa là thực trạng lầy lội và ô nhiễm nặng mùi của ngành giáo dục vẫn chưa hề được cải tạo. Tiên đề “Tiên học lễ, hậu học văn” từ ngàn đời nay đã từ lâu bị phần lớn trường học biến thành thảm trạng mà chúng ta nên nhận thức lại là “Tiên học phí, hậu học thêm”. Có lẽ mệnh đề này mới nói lên tất cả cái thực trạng quay quắt đến mức khốn cùng của môi trường giáo dục đào tạo và giới quan chức điều hành ngày nay.
Không khác gì thị trường bất động sản, vài năm gần đây người ta đã phải dùng đến cụm từ “bong bóng đại học” cho sự bùng nổ bội cung của hàng trăm trường đại học tư thục và dân lập từ Bắc chí Nam. Nhưng ngược lại với đà tăng tiến theo cấp số nhân về số lượng các trường đại học, cao đẳng và chương trình “đào tạo 20.000 tiến sĩ’ của nguyên Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thiện Nhân và đời Bộ trưởng kế vị, chất lượng đào tạo còn lâu mới làm nên một nền văn hóa xứng tầm với Thái Lan. Ít nhất là về tỉ lệ công trình nghiên cứu được công bố trên đầu các tiến sĩ, cùng bài luận văn tả cảnh các cô giáo bỏ nghề và học sinh vùng cao phải bắt chuột ăn thay cơm.
Tình trạng xuống cấp toàn diện của giáo dục và văn hóa cũng khiến cho hiện tượng không có tác phẩm hay trong văn học nghệ thuật trong suốt nhiều năm qua trở nên rất dễ lý giải trong đời sống văn nghệ Việt Nam. Bất chấp các cuộc thi và trao giải thưởng đều đặn hàng năm của các hội đoàn văn học và nghệ thuật nhà nước, vẫn không có lấy vài ba tác phẩm trong lĩnh vực văn học, sân khấu, mỹ thuật, điện ảnh, âm nhạc… ghi dấu ấn cho một tinh thần hồi tâm thành khẩn.
Hầu như tất cả đều nhàn nhạt, nhòa nhạt và luôn đi sau hiện tồn nhức nhối của xã hội ít ra vài thập kỷ. Nhiều nhà văn và nhà viết kịch đủ lòng tự trọng không còn cầm nổi bút, bởi tâm trạng chán chường và thất vọng quá giới hạn cho phép. Chỉ còn một số người viết vì cơm áo gạo tiền, hoặc làm cái gọi là “sáng tạo” vì các đơn đặt hàng và giải thưởng từ Nhà nước. Không thể nói khác hơn, văn học nghệ thuật quốc doanh từ lâu nay đã mang trên mình thiên chức văn hóa cộng sinh.
RFI : Khái niệm « văn hóa cộng sinh » mà anh vừa đề cập, có lẽ không thể loại trừ giới quan chức, vì những lề thói đã ăn sâu vào họ ?
Văn hóa gia đình, văn hóa trường học và văn hóa cộng đồng là ba rường cột của một nền văn hóa. Nhưng một khi cả ba trụ cột ấy đều bị xâm hại một cách trầm kha, thì không còn gì có thể cứu vãn nổi một nền văn hóa chính trị. Nhất là khi nền văn hóa chính trị ấy lại bị ruỗng mục bởi thói vô cảm, vô trách nhiệm và quá đậm đặc tố chất lợi ích nhóm của giới quan chức.
Vì thế, chúng ta có thể coi văn hóa quan chức là thành tố thứ tư gây xâm hại đối với nền văn hóa Việt Nam đương đại, nhưng đặc biệt hơn cả lại là nhân tố cộng sinh ưu tú nhất. Giới quan chức đổ cho 70% doanh nghiệp chủ động đưa hối lộ, nhưng làm sao có thể lý giải sự mâu thuẫn không thể chấp nhận được, giữa tỉ lệ “chỉ có 1% công chức yếu kém” như báo cáo của chính quyền, với con số ít nhất 30% công chức “chủ động nhận hối lộ” trong những kết quả khảo sát về tham nhũng?
Một cuộc khủng hoảng văn hóa đang tăng tiến với gia tốc ngày càng gấp rút. Cuộc khủng hoảng ấy lại biến diễn sang cuộc khủng hoảng niềm tin của người dân đối với xã hội, của công dân đối với đất nước và cuối cùng là của người dân đối với chế độ. Những cuộc điều tra xã hội học đã cho thấy niềm tin của giới trẻ vào đảng và chế độ sa sút khủng khiếp, và trong giới trẻ giờ đây không còn cái gọi là lý tưởng nữa. Nếu có được một cuộc khảo sát độc lập, người ta tin chắc rằng chỉ còn không đầy 10% trong số lớp trẻ tin vào việc “nền văn hóa xã hội chủ nghĩa” có thể tôn tạo cho nền văn hóa dân tộc.
Ngược lại, một chủ nghĩa văn hóa phủ nhận đang hình thành và phát triển rất ghê gớm trong một số khá đông lớp trẻ ở Việt Nam.

RFI
 : Về « chủ nghĩa văn hóa phủ nhận » như anh nói, theo anh lớp trẻ đang phủ nhận những giá trị gì ?
Phủ nhận những giá trị tinh thần, phủ nhận những giá trị truyền thống, và phủ nhận với chính những thế hệ đi trước. Hiện tượng đó làm chúng ta nhớ lại thế hệ mất mát, nảy sinh ở châu Âu trong vài thập kỷ sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Cũng là suy thoái kinh tế trầm kha, cũng là cái nhìn về một tương lai mơ hồ, cũng là tâm trạng đầy bất an và dễ nổi loạn.
Nhưng ở Việt Nam, điều nguy hiểm hơn nhiều là cái tương lai như thế còn trở nên vô định bởi một nền chính trị hủ hóa, cố chấp và luôn có nguy cơ gây nên hiệu ứng hạ cánh cứng. Từ đó sẽ sinh đẻ vô số hậu quả trầm luân cho đời sống người dân, đặc biệt là dân nghèo.
Hơn bao giờ hết, đặc thù văn hóa Việt Nam được quyết định bởi nội lực nền kinh tế và kế sinh tồn của mỗi công dân. Trong giai đoạn “cất cánh” từ thời mở cửa kinh tế những năm 1990, chủ nghĩa kiếm tiền và đầu cơ thượng hạng đã phủ trùm lên cả xã hội, để sau đó vào thời kỳ suy thoái từ năm 2008 đến nay, điều được coi là “văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc” cũng bị suy mòn theo lý lịch không mấy trong sáng của đồng tiền.
Phía trước, màu đen khó che giấu của của nền kinh tế đang chờ đón một khoảng trống chân không văn hóa, nơi mà hố sâu bất bình đẳng xã hội sẽ sâu thẳm hơn bao giờ hết. Tâm lý chà đạp lẫn nhau sẽ thổi bùng lên ngọn lửa tranh đấu cực kỳ tàn khốc giữa các giai tầng và trong chính từng giai cấp, để cuối cùng bản thân nền văn hóa bị giẫm đạp đến kiệt sức.
Không thể lạc quan về nền văn hóa Việt trong năm 2014 và cả những năm sau đó, tôi cho rằng sự biến mất của một nền chính trị đương thời còn dễ được chấp nhận hơn rất nhiều, so với những mất mát của một nền văn hóa dân tộc mà người dân nước Việt có thể phải mất đến nửa thế kỷ để phục hồi nó.
Rất nhiều người như tôi vẫn ngày đêm dồn dập thổn thức trong lòng một câu hỏi đích đáng: Ai và những tác nhân nào đã khiến cho nền văn hóa dân tộc suy đồi và suy vong ghê gớm đến thế? Kẻ nào phải chịu trách nhiệm lịch sử về hậu quả quá đau đớn ấy?
RFI : Xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Phạm Chí Dũng đã dành thì giờ để tâm tình với thính giả RFI Việt ngữ trong những ngày đầu năm về những suy tư liên quan đến nền văn hóa Việt.

Đi tìm hướng phát triển cho Việt Nam

TUANVIETNAM 

Chúng ta tuyên bố xây dựng kinh tế thị trường định hướng XNCN. Không sai, nhưng bây giờ phải rạch ròi, thị trường là thế nào và định hướng XHNC là thế nào?
Việt Nam chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) làm mô hình phát triển. Trong hơn thập kỷ kể từ khi quyết định đường hướng phát triển này, nhiều điểm tích cực của kinh tế thị trường đã được phát huy đem lại mức tăng trưởng kinh tế khá cao để đưa một phần rất lớn người dân Việt Nam - thoát khỏi đói nghèo - nỗi ám ảnh gần như trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, những mặt trái hay khuyết tật của thi trường không được xử lý bằng những cách thức đúng đắn; những trục trặc khi Nhà nước can thiệp hay làm thay thị trường đang làm cho các vấn đề như: Bất bình đẳng, chênh lệch giàu nghèo, ô nhiễm, tham nhũng, lãng phí, băng hoại đạo đức và các mâu thuẫn xã hội ở Việt Nam đang trở nên nghiêm trọng hơn.
Một cách luận rõ ràng về kinh tế thị trường định hướng XHCN dựa trên nền tảng khoa học trong xu thế thời đại ngày nay làm cơ sở giải quyết những bức xúc trước mắt cũng như định hướng phát triển dài hạn cho Việt Nam là quan trọng.
thị trường, XHCN, kinh doanh, kinh tế, chính sách, Nhà nước, vai trò
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Vinh Quang (2013): "Chúng ta tuyên bố xây dựng kinh tế thị trường định hướng XNCN. Không sai, nhưng bây giờ phải rạch ròi, thị trường là thế nào và định hướng XHNC là thế nào? Đâu phải nó là một mô hình kinh tế thị trường riêng biệt so với thế giới. Bởi "kinh tế thị trường" là cái tinh hoa của nhân loại rồi, còn "định hướng XHCN " là nói về vai trò của Nhà nước"

Vấn đề của Việt Nam
Do quan điểm phải gắn liền với những lý luận nguyên bản của Marx và Lenin đưa ra cách đây hơn một thế kỷ, nên những luận giải về định hướng XHCN ở Việt Nam trong hơn hai thập kỷ qua chủ yếu xoay quanh việc khẳng định chế độ công hữu là nền tảng và vai trò chủ đạo của Nhà nước trong các hoạt động kinh tế. Sở hữu hỗn hợp mà đặc biệt là tư hữu dường như chỉ được xem là giải pháp trước mắt, công hữu về tư liệu sản xuất vẫn đang là mục tiêu chính ngay thời điểm hiện nay. Với cách luận giải này, định hướng XHCN đang đối lập với kinh tế thị trường như nước với lửa.
Điều này làm cho đường hướng phát triển chính thống khác xa với thực tiễn hay sự vận động của xã hội. Nó không chỉ gây ra sự lúng túng trong việc thực thi các chính sách trong thực tế, lựa chọn các ưu tiên trước mắt mà để lại những hậu quả hết sức nghiêm trọng cho sự phát triển dài hạn của Việt Nam. Vô hình chung định hướng XHCN theo cách hiểu đặt nặng vấn đề sở hữu và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đang làm chệch hướng mục tiêu XHCN hiểu theo nghĩa vì một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Thực tiễn trong xã hội loài người
Nhìn vào sự phát triển của nhân loại đến ngày nay, kinh tế thị trường là một trong những chìa khóa quan nhất cho các nước có được sự thịnh vượng. Tuy nhiên, nếu đề cao quá mức vai trò của thị trường tự do thì sẽ gặp rắc rối. Những cuộc khủng khoảng kinh tế và tài chính nghiêm trọng xảy ra trong xã hội loại người đều do tính vị kỷ của con người được dung dưỡng quá mức.
Mô hình nhà nước phúc lợi (welfare state) hay thị trường xã hội với điển hình ở các nước Bắc Âu là một tham khảo thú vị. Dường như CNXH vị tha và CNTB vị kỷ đã có thể cân bằng lành mạnh. Điều đáng lưu ý là các nước này đã không gắn đường hướng phát triển của họ với một học thuyết cố định nào cả mà họ luôn dựa vào kho trí thức và các tiến bộ của nhân loại trong mỗi thời kỳ để định hình đường lối phát triển trong từng thời kỳ để đường lối phát triển trong từng thời kỳ.
Công thức thành công của họ đơn giản chỉ là tôn trọng các quy luật thị trường, sự tự do cá nhân và nhà nước phải vì lợi ích thực sự của người dân. Kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân đã được tập trung vun đắp để trở thành ba trụ cột chính cho sự phát triển. Mối quan hệ giữa bộ ba để giảm thiểu sự giẫm chân và mâu thuẫn lẫn nhau. Khu vực thị trường hay các doanh nghiệp có nhiệm vụ chính tạo ra của cải cho xã hội; Nhà nước đóng vai trò sửa chữa các khuyết tật của thị trường, tái phân phối một phần của cải để đảm bảo công bằng, cân bằng, hiệu quả và sự tiến triển cho toàn xã hội; xã hội công dân cởi mở tạo ra niềm tin lẫn nhau để hình thành vốn xã hội giúp các hoạt động kinh tế trở nên hiệu quả hơn, vai trò phân phối nguồn lực của Nhà nước hữu hiệu hơn trong trong xã hội nhân văn mà quyền con người được tôn trọng.
Kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội công dân là ba thực thể tồn tại một cách quan trong bất kỳ nước nào. Nhìn vào mức độ phát triển của từng thực thể và sự tương tác giữa chúng có thể thấy được sự phát triển của một quốc gia.
Sự cân bằng và hài hòa giữa ba thực thể này là vô cùng quan trọng. Bất kỳ một sự thiên lệch nào cũng có khả năng gây ra trục trặc. Khi nhà nước đòi làm tất cả sẽ dẫn đến kết cục như: kinh tế sụp đổ và các giá trị xã hội bị tàn phá do giả dối, đạo đức giả và bệnh thành tích tràn lan...
Nêu vai trò của thị trường đẩy lên quá cao sẽ dẫn đến một nền chính trị tiền bạc như Mỹ hiện nay. May mà xã hội công dân ở nước này đã bám rễ rất chắc và rất sâu rộng nên nó đã cáng đáng tốt rất nhiều vai trò trong xã hội khi mà các trính trị gia đang tranh cãi với nhau để dành quyền lực và ảnh hưởng của mình. Một môi trường mà ở đó xã hội công dân được đặt cao hơn hai trụ cột còn lại có lẽ là không tưởng vì vật chất có trước ý thức có sau và vật chất quyết định ý thức. Xã hội công dân gắn liền với ý thức và sự tự nguyện của các công dân nên khó có thể vượt lên so với hai thực thể còn lại.
Điều cần lưu ý là trong ba trụ cột nêu trên, chỉ có nhà nước được tổ chức chính thức, trong khi kinh tế thị trường và xã hội công dân là những tập thể phi tập trung và phân tán kháp nơi. Nhà nước làm sứ mệnh sửa chữa các thất bại của thị trường do tính vị kỷ của con người gây ra. Tuy nhiên, bản chất hành vi của những người ở khu vực công hay khu vực tư đều như nhau.
Trong lịch sử loài người, chưa có bất kỳ ví dụ thực tiễn nào cho thấy có một nhà nước mà ở đó có tất cả những người lãnh đạo và các công chức đều mẫn cán, một lòng một dạ vì lợi ích của người dân chứ không phải vì lợi ích, vị trí hay quyền lực của mình. Ngay cả khi đã vượt qua bao nhiêu khó khăn cản trở mà chủ yếu do tay chân, người dân của thiên đình, thần tiên hay nhà Phật gây ra, bước chân đến cửa Phật rồi mà thầy trò Đường Tăng vẫn phải lo lót để có được kinh kệ mang về. Ở xã hội trần tục đương nhiên là nghiêm trọng hơn nhiều.
Do vậy, cấu trúc nhà nước cần phải được thiết kế để tránh tập trung quyền lực quá nhiều vào một số ít cá nhân hay tổ chức. Hơn thế, mỗi vị trí luôn chịu sự giám sát hay điều tiết bởi những đối tượng khác. Chỉ có áp lực mất mát thật sự nếu không làm tốt mới có thể làm cho những người làm trong khu vực công làm tốt nhằm tạo ra một nhà nước hữu hiệu. Hơn thế, vai trò của xã hội công dân trong việc ngăn chặn suy đồi đạo đức, lạm dụng quyền lực cũng như sự cấu kết của các đối tượng trong hai trụ cột còn lại để tham nhũng và lũng đoạn là vô cùng quan trọng.
Ở những nơi mà xã hội công dân không được quan tâm thì xảy ra tình trạng cấu kết giữa doanh nghiệp và nhà nước hay chủ nghĩa tư bản thân hữu (crony capitalism) tước toạt phần lớn nguồn lực của xã hội cho một bộ phận rất nhỏ những người có quyền và có tiền, tạo ra bất công và khó phát triển.
Con đường phát triển của Việt Nam
Muốn phát triển, mỗi quốc gia đều phải dựa vào kho tri thức hay những tiến bộ của nhân loại. Tuy nhiên không thể áp dụng một cách máy móc hay chắp vá mà cần có tiến trình tìm hiểu và áp dụng cho phù hợp với điều kiện thực tế ở mỗi nơi. Không đâu xa, Nhật Bản, Hàn Quốc hay Singapore trở nên thịnh vượng chỉ đơn giản bằng cách "bắt chước" các tri thức và giá trị phương Tây sau đó điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Họ đã chấp nhận thử và sai trên cơ sở tư duy phù hợp với thực tế khách quan để chọn được được đi đúng đắn.
Đối với Việt Nam, người viết bài này hoàn toàn đồng ý với tác giả Trần Việt Phương (2008) rằng "giải pháp cho Việt Nam phải là một giải pháp Việt Nam, con đường của Việt Nam, phù hợp với xu thế chung của loại người và chiều hướng tiến bộ của thời đại" và quan điểm của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Vinh Quang (2013): "Chúng ta tuyên bố xây dựng kinh tế thị trường định hướng XNCN. Không sai, nhưng bây giờ phải rạch ròi, thị trường là thế nào và định hướng XHNC là thế nào? Đâu phải nó là một mô hình kinh tế thị trường riêng biệt so với thế giới. Bởi "kinh tế thị trường" là cái tinh hoa của nhân loại rồi, còn "định hướng XHCN " là nói về vai trò của Nhà nước".
Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của Việt Nam có lẽ không khác nhiều với mô hình thị trường xã hội, nếu chọn được đường đi và chính sách đúng đắn thì có lẽ phải rất lâu nữa Việt Nam mới có thể đạt được mức phát triển như các nước Bắc Âu hiện nay. Tuy nhiên nếu muốn đạt được thì không cách nào khác, Việt Nam cần phải xây dựng ngay các yếu tố nền tảng từ bây giờ. Các chức năng và vai trò của ba trụ cột cần được phân định rạch ròi để chúng phát triển lành mạnh và quan hệ hài hòa lẫn nhau. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế thị trường. Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân là một đòi hỏi đối với Việt Nam hiện nay (Đỗ Hoài Nam 2013).
Trong bối cảnh này, định hướng XHCN nên được hiểu là lấy công bằng làm đầu hay mục tiêu dân chủ, công bằng, văn minh trong mục tiêu tổng quát nêu trên. Kinh tế thị trường sẽ làm nhiệm vụ tạo ra của cải cho toàn xã hội. Lúc này chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu và mối quan hệ của ba trụ cột cần được xác định rõ ràng. Vai trò của Nhà nước, suy cho cùng, cũng chỉ để đạt được mục tiêu đề ra bằng cách làm sao để cả thị trường và xã hội công dân làm đúng chức năng của chúng, muốn như vậy, Nhà nước chỉ nên làm đúng chức năng của mình chứ không nên làm thay hay giẫm chân hai trụ cột còn lại và càng không nên kìm hãm sự phát triển của chúng.
Do vậy, vai trò của Nhà nước, như hầu hết các nước đã thành công trên thế giới, đơn giản chỉ là tập trung sửa chữa các khuyết tật thị trường và cải thiện bình đẳng thay vì nhấn mạnh yếu tố sở hữu và xác định vai trò chủ đạo. Song song với việc hoàn thiện các thể chế nòng cốt của một nhà nước pháp quyền, nhà nước nên giảm thiểu tối đa việc tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh doanh, nhất là những hoạt động mà thị trường có thể làm tốt chức năng của nó.
Hơn thế việc tạo ra áp lực cạnh tranh, áp lực phải chịu áp lực cụ thể với các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước là tối quan trọng để khu vực công có thể hiệu quả và hữu hiệu hơn. Chỉ có một tiến trình lựa chọn nhân sự dân chủ đúng nghĩa thông qua cạnh tranh để người dân phát huy quyền làm chủ thực sự thì mới có thể có được điều này.
Những nhà công nghiêp sở hữu những doanh nghiệp làm ra giá trị gia tăng thực sự cho xã hội như: Lego hay Maersk ở Đan Mạch, Samsung hay LG ở Hàn Quốc, Apple hay Google ở Mỹ, Toyota hay Honda ở Nhật, Electrolux hay Ikea ở Thụy Điển mới thực sự là nền tảng của một nền kinh tế vững mạnh.
Đây là điều mà Việt Nam đang thiếu. Những doanh nghiệp tạo ra giá trị đúng nghĩa. Hoàn thiện các thể chế để tạo ra sân chơi bình đẳng, khuyến kích sáng tạo, và giảm thiểu đầu cơ lũng đoạn là việc cần làm. Ở trụ cột này, việc cải tổ các doanh nghiệp chỉ tập trung vào một hay một vài nhiệm vụ cụ thể trong một thời hạn nhất định là hết sức cấp bách. Điều này sẽ tránh lãng phí nguồn lực và lợi dụng vai trò chủ đạo của loại hình doanh nghiệp này của một số người nhằm trục lợi. Đối với khu vực doanh nghiệp dân doanh, việc trân trọng những ngưới có khả năng làm giàu và khuyến khích người dân xóa bỏ tâm lý kỳ thị, ghen ghét người giàu, người giỏi là vô cùng quan trọng. Không một xã hội nào có thể trở nên thịnh vượng khi người giàu hay người giỏi không được tôn trọng.
Một xã hội công dân đúng nghĩa cần được quan tâm để nó có thể ngăn chặn sự xuống cấp đạo đức, mất lòng tin trong xã hội và tham nhũng tràn lan như hiện nay. Chỉ có xã hội công dân cởi mở mới có thể tạo ra niềm tin giữa con người với con người, dần hình thành vốn xã hội có lợi cho sự phát triển. Trong một xã hội mà các quan hệ cơ bản chỉ do vật chất chi phối sẽ rất nguy hiểm vì ở đó chỉ có phần "con" thấp hèn được dung dưỡng trong khi phần "người" cao quý không được đề cao. Sẽ rất là đáng sợ khi trong một xã hội mà phần con lấn át phần người. Nếu không có những quyết sách hợp lý ngay từ bây giờ tương lai của Việt Nam sẽ rất u ám.
Tóm lại, trong thời đại ngày nay, cần bổ xung những lý luận mới và học hỏi vận dụng những tiến bộ của xã hội loại người nhằm lựa chọn một con đường hay chủ thuyết phát triển hợp lý để sớm đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây mới chính là mục tiêu cuối cùng và quan trọng nhất của Việt Nam.
Huỳnh Thế Du
Theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn
 
  
Đánh giá:
Ý kiến bạn đọc (1)
Nguyen22:26 Chủ nhật
Bài viết hay quá, cảm ơn tác giả Huỳnh Thế Du :D

'Rừng vàng biển bạc', sao Việt Nam vẫn nghèo

'Rừng vàng biển bạc', vì sao Việt Nam không giàu?
TS Nguyễn Xuân Thành - Giám đốc chương trình giảng dạy Fulbright cho biết, trên thế giới rất nhiều quốc gia có điều kiện tự nhiên thuận lợi nhưng không giàu, ngược lại nhiều nước điều kiện tự nhiên chẳng hề thuận lợi nhưng lại giàu. Việt Nam ta là một ví dụ sinh động, dễ thấy.
Theo TS Nguyễn Xuân Thành, điều kiện tự nhiên của ta được thiên nhiên ưu đãi rất tốt. Con người Việt Nam rất thông minh, cần cù và sáng tạo nhưng dân tộc ta chưa bao giờ giàu có.
"Ở đây góc nhìn của tôi không cho rằng do cơ chế quan liêu bao cấp hay cái gì đó ảnh hưởng bởi trước đó chúng ta cũng chưa hề giàu có mà. Và ngay cả miền Nam Việt Nam trước năm 1975 cũng chưa phải là giàu. Đó chỉ là nền kinh tế chiến tranh nhờ viện trợ bên ngoài. Sự phồn thịnh chỉ ở hình thức chứ chưa có nền tảng công nghiệp gì cả.
Vì vậy, nếu nói thể chế quyết định cho thành công hay thất bại của một quốc gia, tức giàu hay nghèo, thì từ xưa đến nay, từ thời phong kiến cho đến giai đoạn cơ chế thị trường mở cửa như hiện nay, chúng ta luôn gặp vấn đề ở thể chế", TS Nguyễn Xuân Thành nói.
Chúng ta sẽ hết tất cả dầu khí, không còn than hay quặng nữa. Lúc đó Việt Nam phát triển bằng tiền?
Chúng ta sẽ hết tất cả dầu khí, không còn than hay quặng nữa. Lúc đó Việt Nam phát triển bằng tiền?
Trước đó, trên tờ TuanVietNamnet, GS. TSKH Phan Trường Thị, Khoa Địa chất, Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐH Quốc gia HN từng cho biết, người dân cũng chán các bài ru ngủ kiểu "rừng vàng biển bạc" vì họ không thấy được lợi gì nhiều.
GS Phan Trường Thị lấy dẫn chứng như chuyện dầu khí chẳng hạn, trước mình nhìn nó ghê gớm lắm, thế nhưng, bây giờ ai cũng hiểu, muốn có dầu, chúng ta phải chìa vai ra cùng gánh.
"Thời kì dùng tài nguyên để ru ngủ đã qua rồi", GS Phan Trường Thị nhấn mạnh.
Theo ông, một số người cho rằng trong bối cảnh hiện nay nên tạm dừng khai thác tài nguyên để đầu tư vào con người... Có tài nguyên trong tay thì mình cứ khai thác, nhưng phải thay đối phương cách quản lý. Các cơ quan quản lý cứ việc quản lý, còn thực hiện hoạt động sản xuất thì để các công ty làm.
Riêng về vấn đề khai thác than thời gian vừa qua, Cục địa chất khoáng sản (Bộ TNMT) cho biết, năm 2010 cả nước có 5000 giấy phép khai khoáng được cấp cho 2.000 doanh nghiệp, nhiều giấy phép khai khoáng đã được bán cho doanh nghiệp Trung Quốc, có khoảng 60% doanh nghiệp bán giấy phép cho doanh nghiệp nước ngoài... Như vậy, tài nguyên khoáng sản đang bị bán rẻ, bị khai thác một cách tàn bạo và môi trường bị xâm hại.
Trả lời câu hỏi liệu có mục đích đằng sau những thương vụ này là nhằm thao túng, kiểm soát ngành khai thác khoáng sản của Việt Nam hay không, TS Nguyễn Thành Sơn cho biết “lợi ích nhóm” và “tư duy nhiệm kỳ” là rõ.
"Hai thực trạng bán giấy phép và xuất khẩu lậu khoáng sản về bản chất chỉ là một, đều có mẫu số chung giống nhau là do chúng ta hành xử với tài nguyên khoáng sản theo kiểu “chộp giật”, rất thiếu trách nhiệm với tương lai, rất không bền vững đối với hiện tại" TS Nguyễn Thành Sơn nói.
Theo TS Sơn, câu hỏi quan trọng hơn là “chúng ta phải làm như thế nào?”, cụ thể là phải minh bạch về tài nguyên khoáng sản.
Mới đây, Bộ trưởng Kế hoạch - Đầu tư Bùi Quang Vinh cũng từng đưa ra những thông tin đáng lo ngại như, đến 2020 Việt Nam sẽ phải nhập khẩu toàn bộ than nếu không khai thác than ở ĐB sông Hồng bởi than Quảng Ninh sắp hết nhưng nếu khai thác than ở ĐB sông Hồng thì chứa đầy rủi ro. Dầu khí đang giảm dần từ 20 xuống 18 rồi 17 triệu tấn/năm.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư lo ngại: “Nhưng đến một ngày nào đó chúng ta sẽ hết tất cả dầu khí, không còn than hay quặng nữa. Lúc đó Việt Nam phát triển bằng gì? Sẽ in tiền à?”, Bộ trưởng KH-ĐT đặt câu hỏi.
Hà Oanh ( Đất Việt )

TQ ngang ngược ở Trường Sa Việt Nam


Trong các ngày 23-25/1, TQ đã điều động 3 chiếc tàu bao gồm: Tàu đổ bộ 
Trường Bạch Sơn (Type 071), tàu khu trục Hải Khẩu (Type 052C), 
tàu khu trục Vũ Hán (Type 052B) tập trận 
trái phép tại vùng biển Trường Sa của Việt Nam. 

Đội tàu chiến này đã thực hiện diễn tập cùng máy bay trực thăng tìm kiếm và tiêu diệt tàu ngầm giả định. Cũng trong đợt này, lính Trung Quốc đang đóng quân trái phép trên một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam đã tiến hành diễn tập dưới danh nghĩa \\\\\\\\\\\\\\\ 

Đội tàu chiến này đã thực hiện diễn tập cùng máy bay trực thăng tìm kiếm và tiêu diệt 
tàu ngầm giả định. Cũng trong đợt này, lính Trung Quốc đang đóng quân trái phép trên 
một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam đã tiến hành 
diễn tập dưới danh nghĩa "bảo vệ đảo". 
 



đâu là điểm chết và góc mù của các chiến hạm này ?
Hồ Hải - gửi lúc 17:16 | 31-1-2014
  • +0
  • giao diện mới khó vào khó đọc quá
    Họ tên (Hiển thị trên trang) - gửi lúc 13:08 | 31-1-2014

    +0
  • giao diện gì toàn là back mới coi dc chán
    Ko - gửi lúc 11:13 | 29-1-2014

    +1
  • Những dấu mốc lịch sử còn đó 1974,1979 1988 và cả sau này .Hiện tại hàng hóa ,thương lái Trung quốc gây bao khó khăn cho người dân VN ,nguy hiểm đến tính mạng từ đồ chôi trẻ em đế... 
    andangnguyen - gửi lúc 4:40 | 29-1-2014

    +7
  • Việt Nam chỉ cần loại hỏa tiển có tầm bắn 2000km hiện đại,tàu ngầm KILo và máy bay SU 30 trong bộ 3 đó cộng với kinh nghiệm và cách đánh giặc giữ nước của ông cha nếu kẻ thù có liề... 
    Quang Minh - gửi lúc 18:28 | 28-1-2014

    +3
    Đúng là chúng ta chỉ thua nếu bị tên lửa hạt nhân tấn công nhưng hỏa tiễn với tầm bắn đến 2000 km chỉ có thể là tên lửa đạn đạo trong khi Việt Nam chỉ có tên lửa đạn đạo có tầm bắn tối đa là gần 1000km(scud d) khả năng tiêu diệt mục tiêu trên biển không cao vì sai số vòng tròn lớn. Nếu phải mua tên lửa loại có tầm bắn 2000 km(tên lửa đạn đạo) thì không có nước nào bán đâu.  
    kingbucker - gửi lúc 22:05 | 28-1-2014
  • Chờ thằng em Kilo kia về nữa ,song kiếm hợp bích chơi cho hoành tráng
    nguyen - gửi lúc 4:16 | 28-1-2014

    +1
  • nó tập trận trong đất nhà mình tại sao không đưa gerpad ra chận lại
    lê minh - gửi lúc 17:21 | 28-1-2014

    +9
  • giao dienj chan ko muon doc nua.
    Duyên - gửi lúc 10:20 | 28-1-2014

    +2
  • Giao diện xấu quá ... cải lùi thì có ...
    Phan Minh - gửi lúc 10:10 | 28-1-2014

    +1
  • Dao diện quá dở hơi. Đây có thể " thành công tệ nhất " của Báo Đất việt
    Đỗ Yên - gửi lúc 10:51 | 28-1-201
  • Theo Đất Việt

Lòng tin biến thể

Lòng tin biến thể
Chúng ta đang sống trong xã hội với một lòng tin biến thể. Lý do chính của sự biến thể này nằm ở sự thay đổi về hoàn cảnh xung quanh, bao gồm cả thể chế xã hội yếu đi, hoặc không còn phù hợp nữa vì những lý do khách quan, chủ quan nào đó.
 Nhưng quan trọng hơn là những người đứng đầu đảm bảo thực hiện thể chế lại không kiên quyết bảo vệ những cơ chế khuyến khích và chế tài mà thể chế hiện hành quy định. Vì vậy xây dựng lòng tin phải bắt đầu từ thể chế, và những người lãnh đạo điều hành thế chế đó.
Một nhà xã hội học người Mỹ - khi phân tích tình hình của nhà nước Liên Xô cũ những năm cuối cùng - lập luận rằng niềm tin là quá trình tương tác không ngừng về độ đáng tin cậy của hành động của một bên nào đó, dựa vào (1) uy tín của đối tác và chủ thể, (2) đánh giá hoàn cảnh hiện tại, (3) giả định về hành vi của đối tác và (4) niềm tin về sự trung thực và đạo đức của bên kia. 
Nhà nước không bảo đảm việc cung cấp hàng hoá cho người dân, xa rời những thực tế hiện tại hay tha hóa với những phẩm chất mà mình tự cam kết. Kết quả là tín nhiệm dành cho thể chế thấp và chính quyền buộc phải duy trì sức mạnh của mình bằng những quyền lực khác.
Hay như một Trung Quốc đang trên đường trở thành một con rồng mới ở châu Á. Niềm tin của người dân về một Trung Quốc mạnh đang hừng hực. Nhưng niềm tin vào một chính phủ mạnh mẽ trong khả năng giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội và ô nhiễm môi trường đang đặt trước những câu hỏi lớn. 
Một số thống kê kinh tế chỉ ra người dân Trung Quốc có tỷ lệ tiết kiệm quốc gia rất cao so với với thế giới với khoảng 34-53% so với tổng sản lượng quốc nội GDP trong vòng ba thập niên vừa qua, và chỉ số này tăng thêm 11% trong trong khỏang thời gian 2000 đến 2008. Rõ ràng, người dân tiết kiệm để lo cho bản thân, vì thiếu vắng một nhà nước phúc lợi và các thể chế nhà nước không thể giúp mỗi người hoạch định được tương lai.
Có thể thấy, những nhà nước như vậy vừa mạnh lại vừa yếu. Nhà nước mạnh vì (đang) cố gắng kiểm soát các cá nhân bằng những công cụ hành chính trực tiếp. Sẽ có bao nhiêu người vào sổ sách, bấy nhiêu đoàn hội phải theo đuổi cùng một phương châm hay các quan chức lãnh trách nhiệm kiểm tra và giám sát hơn là quản lý. 
Nhưng nó cũng có thể là một nhà nước yếu nếu những thể chế hay chính sách ban hành chỉ mang tính một chiều và áp đặt. Công dân tự lạ lẫm với chính thể mang danh đại diện cho quyền lợi của mình. Có thể họ không nghĩ rằng cơ chế này có thể giải quyết những vấn đề của mình, hoặc họ tin nhiều hơn vào bản thân và những nhóm bằng hữu thân cận (liên kết mạnh) và với những người lạ (liên kết yếu) là hiệu quả hơn.
Sự xuất hiện của những nhóm liên kết này vừa là chỉ dấu cho thấy những sân chơi hay thể chế ban hành của Nhà nước không còn hiệu năng hay chưa thể có khả năng bao quát. Lòng tin dựa vào thể chế đang giảm sút. Tuy vậy, ở một chiều kích ngược lại hết lớp người đứng lên, rồi ngã xuống, nhưng tiếp tục đứng dậy, và kêu gọi những người bạn bè, thân hữu tiếp tục tham gia cho thấy một phong trào đang rộng khắp. Đó là chỉ dấu cho sự gia tăng lòng tin liên kết (ở cả hai dạng yếu và mạnh).
Ở một góc nhìn nào đó, khi một bên đang cố gắng xây dựng những thể chế để tích tụ lòng tin, thì tài sản vô giá này lại đang dịch chuyển lan toả sang các thành phần khác, hay đơn giản chỉ là một khoảng không trống trải khi người ta không có một điểm để tựa vào. Chúng ta có thể thấy qua tình cảnh khốn đốn của người dân sống trong “vùng rốn” của thuỷ điện, điểm tựa về năng lượng của cả nước nhưng lại không thể sống trên chính mảnh vườn, thửa ruộng của mình, hay những hàng dài người chờ tiễn đưa Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng những “giọt nước mắt rơi chung”.
Biến thể của lòng tin là sự thay đổi của lòng người trong thời cuộc. Ứng xử với chuyển dịch cần một sự chắc chắn. Cái thứ chắc chắn định hướng cải cách chứ không bảo thủ, nhất quán chứ không xơ cứng, rập khuôn. Như một cái neo để lòng người cùng về một hướng, dù đó có bằng thiết chế công minh như núi, hay cách thức mềm mại thông qua tạo dựng hành lang pháp lý, các kênh đối thoại đa chiều và những sân chơi đa dạng, để số đông cảm nhận được mỗi phần nhỏ bé của mình trong từng quyết sách cầm quyền.
Nguyễn Chính Tâm/Người Đô Thị