Liên quan đến việc phong tặng danh hiệu NSƯT, NSND gây xôn xao dư luận, nghệ sĩ Tự Long khẳng định "cái gì cũng có giá trị của nó - sự thật không bao giờ thay đổi".
Cánh báo chí mấy ngày qua than rằng gặp anh khó quá, anh đang tìm mọi cách để "trốn" họ?
- Cũng chẳng giấu gì bạn mấy ngày qua có nhiều tờ báo lớn gọi điện muốn tôi chia sẻ thông tin về việc phong tặng danh hiệu NSND nhưng tôi chưa nhận lời trả lời ai cả mà thường nói một câu vui rằng: "Khi quyết định chưa được công bố một cách chính thức thì những người trong cuộc như tôi chưa có gì để bình luận và ý kiến chia sẻ cả".
Thôi cũng lên tiếng một lần duy nhất với bạn về những gì liên quan đến cá nhân tôi, đến nghề nghiệp của tôi (xin phép cho tôi không bình luận về các trường hợp là đồng nghiệp được xét tặng danh hiệu lần này) và hi vọng mọi người sẽ hiểu đúng bản chất sự việc.
Cứ mỗi lần đến lượt xét tặng danh hiệu NSND, NSƯT trong giới nghệ thuật lại nóng lên như chảo lửa. Năm nay cũng không ngoại lệ và anh trở thành một trong những nhân vật được "mổ xẻ" nhiều nhất. Anh nói gì về điều này?
- Đầu tiên tôi muốn nói rằng danh hiệu là một trong những điều cao quý mà bất kỳ một nghệ sĩ nào cũng mong muốn dù là nhân dân hay ưu tú. Mỗi kỳ xét duyệt bao giờ cũng có những ý kiến trái chiều, người được thì không sao, người không được (dư luận, ý kiến bạn đọc) phản ứng thuận chiều, trái chiều. Đó là điều hết sức bình thường.
Có ý kiến cho rằng, thành tích giúp Tự Long được ghi nhận ở lĩnh vực chèo. Tuy nhiên, hiếm có khán giả nào nhớ những vở chèo Tự Long diễn, những nhân vật anh đã nhập vai?
- Khán giả (à tôi nghĩ không phải khán giả mà chỉ một vài người viết thôi) bảo rằng không biết đến tôi với các vở diễn chèo đấy bởi vì họ chưa biết thôi chứ đảm bảo lên mạng tìm sẽ thấy có rất nhiều bài viết về các vở chèo mà tôi đã diễn và đoạt giải.
Nói riêng về chèo, trước khi tôi là NSƯT tôi đã có đến 9 huy chương (trong đó 8 HCV và 1 HCB). Còn sau NSƯT, nhờ vào sự phấn đấu không mệt mỏi, yêu nghề hết mình, tôi tham gia với nhiều loại hình nghệ thuật khác và cũng may sự cố gắng được đền đáp.
Trong vòng 3 năm (từ 2012 đến 2015) tôi đã may mắn nhận được 3 HCV và 1 HCB. Nếu một nghệ sĩ bình thường thì khó làm được điều ấy. Bởi họ phải chờ. Trước đây 5 năm mới có một hội diễn nhưng bây giờ 3 năm có một đợt hội diễn và ít nhất 3 năm đấy nếu tham gia một loại hình sân khấu chắc tôi cũng chỉ được 1 HCV (đấy là diễn vai chính).
Có nhiều người hoàn toàn bất ngờ và đặt câu hỏi là tại sao tôi lại được nhiều huy chương như vậy liệu có phải tôi làm cách này hay cách khác không? Tôi xin khẳng định là tôi không làm gì cả, tôi cũng chẳng chạy chọt gì, tất cả là do tôi nỗ lực không mệt mỏi và nhận về thành quả.
Tôi tham gia nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau trong đó những loại hình chính thống như Liên hoan sân khấu chèo toàn quốc hay Liên hoan sân khấu kịch toàn quốc hay Liên hoan sân khấu chèo toàn quân thì bằng sự phấn đấu của mình tôi có được thành tích vượt bậc đó.
Lâu nay nhiều người hiểu rằng việc xét tặng danh hiệu từ NSƯT lên NSND là phải sau 5 năm công tác cộng với những thành tựu như đoạt nhiều huy chương vàng trong nghề nghiệp. Chính điều này khiến một bộ phận khán giả "nghi ngờ" anh mới được phong NSƯT vào năm 2012 và chỉ sau 3 năm được được đề xuất là NSND là hơi sớm, thưa anh?
- Đúng, mọi người (trong đó có cả nhiều nghệ sĩ) lâu nay vẫn nhầm lẫn quy định trước kia là sau NSƯT 5 năm mới được xét NSND nhưng nghị định 89 mới đã thay đổi, bỏ quy định này. Theo đó, chỉ cần người nghệ sĩ có đủ 20 năm công tác, sau danh hiệu NSƯT có đủ 2 HCV là được xét NSND.
Với cá nhân tôi, sau khi nhận NSƯT vào năm 2012 tôi đã nhận HCV Liên hoan sân khấu kịch nói chuyên nghiệp toàn quốc với vai diễn Đại Ma Vương Hula trong vở kịch "Chúa nhẫn và những chiến binh vũ trụ" của nhóm hài Xuân Bắc - Tự Long.
Tháng 10/2013 tôi được HCV vai Chu Văn An trong vở chèo Người thầy của muôn đời trong Liên hoan sân khấu chèo chuyên nghiệp toàn quốc 2013. Đến tháng 8/2014 tôi được HCV vai Nguyễn Chí Thanh trong vở chèo Nguyễn Chí Thanh - Sáng trong như ngọc một con người tại Hội diễn nghệ thuật chuyên nghiệp toàn quân 2014).
Và mới đây nhất, tháng 7/2015 tôi được Huy chương Bạc trong Liên hoan sân khấu kịch nói chuyên nghiệp toàn quốc.
Ngoài ra, tôi đã gắn bó 11 năm cùng các nghệ sĩ Chí Trung, Minh Hằng, Xuân Bắc, Công Lý, Quang Thắng trong chương trình Gặp nhau cuối năm ... Bên cạnh đó tôi xuất hiện trên truyền hình rất nhiều với chuyên mục Chém chuối cuối tuần, dẫn các gameshow... Những hoạt động đó của tôi đều là mang lại những niềm vui cho cộng đồng, xã hội.
Có thể khán giả biết đến tôi nhiều hơn thông qua những chương trình tôi vừa kể ở trên so với loại hình nghệ thuật chèo mà tôi theo đuổi. Nhưng thực sự những cống hiến của tôi cho Nhà hát Chèo quân đội, cho nghệ thuật chèo thì không hề nhỏ.
Anh hoàn toàn vô tư và trong sáng trong việc xét duyệt danh hiệu NSND lần này chứ?
- Vâng, tôi không cố ăn thua hay chạy chọt gì. Với danh hiệu NSND tôi rất vô tư bởi tôi nghĩ nếu tôi được thì đó không chỉ là vinh dự cho tôi, cho Nhà hát chèo quân đội của tôi, cho gia đình, cho bạn bè mà còn là cả sự phấn đấu của tôi thời gian qua.
Cuộc sống này, cái gì cũng có giá trị của nó - hãy trả đúng vị trí cho nó. Danh hiệu là điều vô cùng cao quý nhưng phải bằng thực lực của mình và khả năng của mình, đây là quá trình làm nghề có sự tâm huyết và nỗ lực của bản thân chứ không phải muốn mà được.
Đây cũng không phải là câu chuyện chúng ta thích thì cho nhau mà là sự công nhận của bạn bè, đồng nghiệp của dư luận của xã hội, thông qua sự cống hiến được trả lời bằng thành tích mà người nghệ sĩ theo đuổi. Tôi đã làm hết sức mình và không ngừng phấn đấu.
Tôi không có ý định giải thích, phân bua giãi bày hay có ý định đòi hỏi, tôi phải thế này, tôi phải thế kia. Tôi nghĩ rằng cái gì cũng có giá của nó - sự thật không bao giờ thay đổi bạn ạ.
Có vẻ như áp lực bên ngoài đang đặt VN trước sức ép cải cách. Nhưng cơ may này cũng sẽ không đợi dân tộc mình lâu. Nếu không xuất hiện những lực lượng cải cách, nếu thiếu những nhà lãnh đạo có kỹ năng, thiếu một xã hội có nền văn hóa đón nhận cải cách thì cơ hội cũng sẽ biến mất - PGS.TS Phạm Duy Nghĩa trăn trở.
VietNamNet giới thiệu phần 2 bàn tròn về cải cách thể chế với PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, TS Huỳnh Thế Du và Giám đốc Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyễn Xuân Thành. Đây là nhóm tác giả chính của báo cáo tư vấn chính sách mới đây cho Chính phủ VN về cải cách thể chế, được thực hiện trong khuôn khổ hợp tác giữa ĐH Harvard, Chương trình Phát triển Liên hiệp Quốc và Chính phủ VN.
Có hay không lực lượng cải cách ở VN?
Nhà báo Việt Lâm:Ông Nguyễn Xuân Thành có nhắc đến một cụm từ rất hay là “lực lượng cải cách”. Trong một bàn tròn mới đây với VietNamNet, TS Nguyễn Đình Cung (Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương) có chia sẻ rằng ông cảm thấy những tiếng nói cải cách còn đơn độc quá, chưa được bắt lời một cách rộng rãi. Vậy thì nhận định về lực lượng cải cách có phải quá lạc quan hay không?
PGS.TS Phạm Duy Nghĩa: Một câu hỏi mà báo cáo đặt ra và cũng được nhiều người bàn luận trong hội thảo sang nay là liệu đã tới thời khắc cải cách hay chưa? Nói cách khác, bối cảnh hiện nay đã ép các nhà hoạch định chính sách ở VN phải cải cách hay chưa?
Nếu cảm thấy sức ép và đánh giá sức ép đó nguy hại, đe dọa đến tính chính danh của chính quyền, của đảng cầm quyền thì người ta bắt đầu đánh giá những lựa chọn để tiến hành cải cách. Cách đánh giá và lựa chọn lại tuỳ thuộc vào hệ nhận thức về gía trị của từng người khác nhau. Để bảo vệ tính chính danh của chính quyền, có nhóm thì muốn VN cởi mở hơn, chấp nhận ngày càng rõ rệt hơn những chuẩn mực quốc tế. Ngược lại, có những nhóm đề cao những giá trị, ý thức hệ cũ của họ và theo nghĩa như vậy chống lại những sức ép cải cách mang tính hội nhập. Chúng tôi hiểu rằng có thể xuất hiện những lực lượng thúc đẩy cải cách, cũng có thể có những lực lượng chưa muốn cải cách diễn ra, hoặc diễn ra theo những cách khác nhau.
Ngoài ra, lựa chọn cải cách cũng rất khác nhau. Tôi nhớ anh Lê Minh Thông, Phó Ban thư ký Ban biên tập Hiến pháp 2013 cho biết trong khoảng 6-7 tháng thảo luận về dự thảo Hiến pháp 2013, VN đã tổ chức 28,000 cuộc hội thảo với khoảng 26 triệu ý kiến cử tri. Điều này cho thấy rằng đất nước đứng trước một vấn đề nhưng các lời giải rất đa dạng.
Vậy thì chọn lời giải nào thuyết phục người khác đây? Bản chất đó là cuộc thương lượng. Trong cuộc thảo luận về Hiến pháp, chúng ta chứng kiến sự giằng xé của nhiều ý kiến khác nhau, từ vấn đề kinh tế nhà nước có chủ đạo hay không, nhà nước nên đóng vai trò gì trong nền kinh tế…Hay kì Đại hội Đảng XI, chúng ta được chứng kiến cuộc thảo luận giữa ông Võ Hồng Phúc – Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư lúc bây giờ với ông Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh về vai trò chủ đạo của sở hữu công cộng. Những cuộc thảo luận như thế từ trong Đảng, lan ra xã hội, rơi vào nghị trường, phản ánh những lựa chọn khác nhau của các nhóm khác nhau.
Bản chất của cải cách thể chế là cho người dân có thêm tiếng nói, để họ được biết, được tham gia nhiều hay ít vào những cuộc thảo luận như thế. Một số sự vụ xảy ra thời gian qua cho thấy sự đã rồi dân mới được biết. Nói cách khác, nguy cơ có những chính sách tồi tệ sẽ ngày càng tăng khi tiếng nói của dân giảm đi.
Nói như thế không có nghĩa là tăng minh bạch và dân chủ thì những sai lầm sẽ ít đi bởi đã là con người thì đều có khiếm khuyết. Nhưng càng minh bạch, càng thảo luận công khai, quá trình thương lượng càng khó khăn, buộc anh phải thuyết phục bằng lý lẽ thì quá trình đó sẽ lọc dần đi những quyết định nóng vội, hoặc che dấu lợi ích đằng sau hoặc chưa có căn cứ. Toàn bộ quy trình tham gia của người dân không dễ dàng, thậm chí rắc rối nhưng nó giúp giảm bớt nguy cơ đưa ra những quyết định thiên lệch.
PGS.TS Phạm Duy Nghĩa
Lựa chọn tồn tại hay không tồn tại
TS Huỳnh Thế Du: Tôi muốn tiếp ý của anh Phạm Duy Nghĩa về thời khắc cải cách. Thực ra, các cải cách, thay đổi về cách tiếp cận, về ý thức hệ…chỉ xảy ra với một chế độ, một nhà nước nào đó khi đứng trước lựa chọn sống hay chết, tồn tại hay không tồn tại.
Trở lại câu chuyện cải cách năm 1986. Sự sụp đổ của một loạt chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu và khủng hoảng toàn diện trong nước đặt Đảng Cộng sản Việt Nam đứng trước nguy cơ sống còn. Khi đó, Đổi Mới 1 đã xảy ra.
Hiện nay, nếu nhìn ở khía cạnh kinh tế, chúng ta có thể nghĩ rằng tuy tốc độ tăng trưởng 5-6% thấp hơn kỳ vọng 7-8% giai đoạn trước nhưng vẫn ổn. Nếu chỉ nhìn từ khía cạnh đơn giản này thì áp lực không có. Nhưng với sự trỗi dậy của Trung Quốc, với sự kiện Giàn khoan 981 mà tôi cho rằng có ý nghĩa quyết định, áp lực đó đã hiển hiện. Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy khi cảm quan về sự tồn vong của dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia được đánh thức thì lúc đó người dân tự động có yêu cầu chính đáng làm sao phải có cải cách, có chính sách sáng suốt bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Nếu nhìn từ góc độ này thì Đảng và Nhà nước đang đứng trước một thách thức lớn là làm sao để người dân thấy rõ đường lối phát triển, bảo vệ chủ quyền của mình. Quan điểm cá nhân tôi cho rằng, bây giờ là thời điểm nước sôi lửa bỏng rồi.
Trở lại câu hỏi về lực lượng cải cách, chúng ta thấy đã có nhiều tiếng nói cải cách ở cả ba khu vực: khu vực công, khu vực doanh nghiệp và khu vực dân sự. Trong rất nhiều cuộc hội thảo không mở rộng, chúng tôi đã được nghe những tiếng nói cải cách từ khu vực công, tức là những mầm ấy, lực lượng ấy bắt đầu lớn lên rồi. Trong khu vực dân sự, qua câu chuyện về chặt cây xanh ở Hà Nội, xây Văn Miếu ở Vĩnh Phúc hay dự án lấp sông ở Đồng Nai cho thấy tiếng nói của người dân ngày càng mạnh mẽ hơn. Người ta biết cách tổ chức như thế nào để tạo áp lực buộc chính quyền phải điều chỉnh hành vi. Trong khu vực doanh nghiệp, rất nhiều DN chỉ mong mỏi có môi trường kinh doanh thực sự tốt để người ta tạo ra giá trị, chứ không phải chỉ để trục lợi.
Bởi vậy, tôi tin rằng, nếu có một quyết sách đúng đắn thì những mầm cải cách sẽ gắn kết với nhau.
TS Huỳnh Thế Du và nhà báo Việt Lâm
Nguy cơ quyền lực rơi vào tay thiểu số
Việt Lâm: Kể từ khi Đổi mới đến nay, những thời cơ cải cách đúng là đã xuất hiện. Vấn đề là ngay thời điểm đó, quyết tâm cải cách là có, thậm chí không kém phần mạnh mẽ nhưng sau đó không hiểu vì lý do gì mà nó nguội dần đi, không biến được thành hành động, kết quả thực tế. Có những ý kiến cho rằng giá như trong 30 năm đổi mới vừa qua, những cơ hội đó được tận dụng thì có lẽ vị thế phát triển của VN giờ đã khác. Có thể rút ra được bài học nào từ những thời cơ bị bỏ lỡ như thế không?
PGS.TS Phạm Duy Nghĩa: Xét trên lý thuyết, khi anh không phát triển được thì quyền lực sẽ rơi vào tay thiểu số, nhóm đầu sỏ hay giai tầng nhỏ bé trong xã hội nhưng khống chế toàn bộ tài nguyên, làm méo mó phân bổ lợi ích quốc gia. Những thể chế đó được gọi là thể chế khai thác, tức là mang tính khai thác bóc lột. Những thế chế như vậy tồn tại rất nhiều ở các nhà nước độc tài chuyên chế, bóc lột. Sau khi đã tạo ra một giai tầng nhà nước có tính bóc lột thì nó sẽ có sức kháng cự lâu dài, theo một nghĩa tạo ra những thể chế ép dần lập pháp, tư pháp, báo chí tuân theo những lợi ích của nó.
Mới đây, ông Vũ Ngọc Hoàng, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo TƯ cũng có viết nhiều bài về nhóm lợi ích, cảnh báo nếu VN bị rơi vào bẫy của thể chế khai thác thì thể chế khai thác sẽ ngày càng bền chặt, ngày càng kéo quốc gia đi xuống. Khi đó khó lòng Việt Nam vượt lên được ngưỡng như Hàn Quốc và Đài Loan đã đạt được.
Khó mà định nghĩa được sức ép đó thể hiện như thế nào nhưng cơ may để cải cách cũng không đợi dân tộc lâu. Nếu mình không tận dụng được, nếu không xuất hiện những lực lượng cải cách trong xã hội, thiếu những nhà lãnh đạo có kỹ năng, thiếu một xã hội có nền văn hóa đón nhận cải cách như vậy thì cơ hội cũng sẽ biến mất.
Liệu Việt Nam có đón được thời cơ cải cách này hay không cũng rất khó nói, không thể chỉ dựa vào cảm tính được mà phải phân tích kỹ hơn bối cảnh lịch sử, văn hoá và thể chế. Lấy ví dụ nhiều người vẫn ca ngợi Nguyễn Trường Tộ là nhà cải cách sớm, thậm chí sớm hơn nhiều nhà cải cách bên Nhật Bản và vẫn tiếc cho Nhà Nguyễn thiếu những nhà lãnh đạo đón nhận cải cách đó. Nhưng ở góc nhìn lớn hơn nữa, liệu xã hội Việt Nam thời đó đã đủ trưởng thành để đón cải cách như vậy chưa.
Hiện tại, có vẻ như áp lực bên ngoài đang đặt Việt Nam dưới một sức ép cải cách nhưng liệu dân tộc Việt Nam đã đủ trưởng thành để đón những cuộc cải cách rộng lớn hơn chưa? Điều đó cần nghiên cứu kỹ mới trả lời được.
Việt Nam rất giỏi trong việc làm vừa đủ
Chuyên gia Nguyễn Xuân Thành: Nếu nhìn về mặt lịch sử, Việt Nam rất thành công trong việc đối phó với thách thức trước mắt và cũng rất giỏi trong việc làm vừa đủ để vượt qua thách thức trước mắt và dừng lại ở đó, vẫn duy trì được những thể chế giúp mình tồn tại đến nay và thay đổi một chút để đối phó thách thức.
Đáng lẽ ra trong quán tính của việc vượt qua khủng hoảng, thách thức trước mắt, anh có thể nhân cơ hội đó mà tiến thêm một bước nữa. Bởi vì trong bối cảnh ấy, anh có thể huy động sự ủng hộ rộng rãi trong xã hội mà bình thường anh không làm được. Nó đòi hỏi anh thực hiện thêm một bước nữa để tạo ra những thay đổi và sau đó tạo thêm động lực để tiếp tục chuyển đổi lên nấc cao hơn nữa.
Về mặt lịch sử, đây là một điều đáng tiếc của Việt Nam. Thông thường khi vượt qua được khủng hoảng, thách thức trước mắt, chúng ta đã coi là thành công và muốn dừng lại một chút, chứ không muốn thay đổi mạnh mẽ. Câu cửa miệng chúng ta hay nói với nhau là phải có sự kế thừa, duy trì những gì đã có. Một thời gian sau, bức xúc lại xuất hiện và chúng ta lại quay lại quy trình ấy.
Thực ra, trong lịch sử chỉ có một số ít quốc gia thực hiện chuyển đổi thành công. Có nhiều nước còn không huy động được tài năng, sức mạnh của dân tộc để vượt qua thách thức trước mắt và bị sụp đổ. Xét theo khía cạnh này, Việt Nam đã làm vừa đủ để vượt qua được thách thức.
Chúng tôi đánh giá đây là thời khắc để Việt Nam cải cách thể chế. Nhưng cũng như những thời khắc trong quá khứ, tôi tin là Việt Nam sẽ vẫn vượt qua được khó khan trước mắt. Nhưng liệu có những chuyển đổi sâu rộng để trở thành một quốc gia phát triển trong vòng 20-30 năm nữa hay không thì tôi chưa dám nhận định.
Giám đốc Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyễn Xuân Thành
Giấc mơ kiến trúc sư trưởng cải cách
Việt Lâm: Như ông Thành vừa phân tích, có lẽ tâm thế thận trọng, đặc tính giỏi xoay sở với tình thế nhưng khó đi được đường dài của người Việt đã phần nào hạn chế tầm nhìn cải cách. Nó cũng quy định hai quỹ đạo cải cách. Nếu như cải cách ở Trung Quốc là cải cách áp đặt từ trên xuống thì Đổi mới của Việt Nam lại bắt đầu từ những cuộc phá rào ở địa phương. Bài học thành công của Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore…là có một kiến trúc sư trưởng dẫn dắt cải cách thành công. Liệu lần này chúng ta có thể hi vọng quỹ đạo cải cách của VN sẽ thay đổi theo hướng đó hay không?
PGS.TS Phạm Duy Nghĩa: Tôi e rằng hi vọng xuất hiện một kiến trúc sư trưởng đủ tầm dẫn dắt dân tộc là một mơ ước tương đối hoang tưởng. Bởi vì một nhân vật như thế chỉ có thể xuất hiện ở những dân tộc có nền học thuật, có những cuộc tranh luận giữa giới trí thức rất dữ dội, mới tóe ra những triết lý cải cách; chỉ có được trong những xã hội cónền học vấn, có văn hóa tranh luận dám chấp nhận cái lạ cái mới; chỉ xuất hiện trong những chế độ, xã hội có tính cai trị tập trung, nhất quán; trong những quốc gia mà quyền uy áp đặt từ trên xuống dưới trở thành một thói quen lịch sử.
Theo các nhà văn hoá Kim Định, Trần Ngọc Thêm…người Trung Hoa và những nước phương Bắc là dân du mục sống trên đồng cỏ, có tầm nhìn phóng khoáng, có kỷ cương. Họ dùng lưỡi gươm và quyền uy để thiết lập đế quốc của họ. Ngay từ 2000 năm trước, Tần Thuỷ Hoàng thiết lập nên đế chế Trung Hoa với bộ máy cai trị từ trên xuống dưới, với quận huyện được cấu thành như những mắt xích của TW. Thiết chế này đã là truyền thống của nước Trung Hoa, cứ thế nới rộng ra thôi.
Ngược lại, ở Việt Nam, cộng đồng làng xã hình thành từ những hàng vạn tiểu quốc con con, mỗi làng xã có luật lệ riêng. Người Trung Hoa có chữ Hán, thể hiện tư duy bằng chữ viết, còn chúng ta không có chữ viết riêng, truyền lại tư duy cho con cháu qua lối truyền khẩu là chính.
Điều đáng nói là với nền móng văn hoá của một xứ sở chưa từng có một chính quyền TƯ quyền uy, trấn áp một cách thống nhất, rạch ròi từ trên xuống dưới, rất khó để tạo ra những kiến trúc sư xuất chúng, có tầm nhìn, có sức mạnh phi thường tạo ra kỷ cương ép những tiểu vương kia phải tuân thủ. Về cơ bản, nước mình vẫn là nước phân quyền tương đối hài hòa giữa TW và địa phương. Trong lịch sử cũng vậy. Quyền uy của nhà vua thời phong kiến thực ra chỉ xuống đến ông quan huyện. Xã, lý trưởng, chánh tổng và tuần phủ sống bằng đóng góp của dân làng, trong dân làng đó họ tạo ra một chính quyền tự quản. Thậm chí mãi đến năm 90, cán bộ phường xã của mình mới trở thành công chức chứ trước đó công chức của mình không bao gồm cán bộ cấp xã.
Với đặc trưng phân tán và tự trị như vậy, nên hệ luỵ cho đến bây giờ là chúng ta có 500 trường đại học nhưng không thể có một trường đại học đẳng cấp quốc tế. Trong khi đó, Trung Quốc cũng khó khăn như ta nhưng chỉ trong vài chục năm, Đại học Thanh Hoa, Đại học Nhân dân của họ đã vươn lên đẳng cấp thế giới. Chúng ta đầu tư nhiều nhưng không có cái nào ra tấm ra món.
Các Mác có nói một câu rất hay rằng: Không có bánh mì, không có triết học. Khi một xã hội đói kém, tích lũy tư bản không được bao nhiêu. Nếu đời cha giàu đến đời thứ hai chia cho các con đã nhỏ đi rồi, các cháu tranh nhau nữa càng teo lại. Cứ như vậy các miếng đất Việt Nam không hình thành được điền thổ lớn, con cháu mỗi người một mẩu như thế, khiến cho tích lũy về trí tuệ, về tầm nhìn hơi vụn vặt. Nói cách khác, tầm nhìn của chúng ta bị giới hạn bởi thôi thúc về dạ dày của chúng ta.
Chắc nhiều người cũng mơ như chị, nhưng tôi hoài nghi rằng trong bối cảnh dân tộc như thế có thể xuất hiện những nhà cải cách đặt ra đường ray cho dân tộc tiến thẳng lên câu lạc bộ của 30 nước giàu có.
Đảng giữ vai trò trung tâm
Việt Lâm: Vậy thì thay vì đặt cược vào một giấc mơ ít khả thi như thế, liệu có cách nào bớt rủi ro, bớt ăn may hơn không?
TS Huỳnh Thế Du: Trước khi trả lời câu hỏi này, tôi muốn nói thêm một chút về đề tài kiến trúc sư trưởng cho cải cách. Mọi người hay lấy Park Chung-hee của Hàn Quốc, Đặng Tiểu Bình của Trung Quốc, Lý Quang Diệu của Singapore, hay Thiên Hoàng Minh Trị của Nhật Bản làm dẫn chứng thành công. Trong khi trên thực tế, cả khu vực Trung Đông, Châu Mỹ - La Tinh, Châu Phi đã có những thời điểm có những nhà lãnh đạo mấy chục năm dưới chế độ có quyền lực gần như tuyệt đối, nhưng hầu hết các nước này vẫn rơi vào tình trạng mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình hoặc là mãi không phát triển được. Nếu chúng ta đặt cược vào một cá nhân thì rủi ro sẽ nhiều hơn khả năng thành công. Lịch sử đã chứng minh như vậy.
Cách đây mấy tháng, ông Tony Blair, cựu Thủ tướng Anh có nói: “Nếu cải cách nào mà không có phản đối thì không phải là cải cách”. Sự thực cải cách là một quá trình cực kỳ đau đớn. Một số người sẽ mất đi quyền lợi, nhưng số đông phải được hưởng lợi. Anh Thành có nhắc đến cuốn “Vì sao các quốc gia thất bại?”. Ở đây, thể chế bao trùm hay dung hợp đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Khi chúng ta nhìn tất cả các nước đã phát triển thì vai trò của một cá nhân chỉ ở một mức độ nào đó, nhưng nghị trình phát triển phải có sự tham gia của đông đảo từ tầng lớp tinh hoa đến người dân thường.
Trở lại câu chuyện của Việt Nam hiện nay, vấn đề mấu chốt phải được đề cập đến là vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải đóng vai trò trung tâm, đứng ra tập hợp được tất cả các tầng lớp nhân dân tham gia vào tiến trình cải cách, giống như Đảng đã tập hợp được đông đảo lực lượng giành chính quyền năm 1945. Muốn thế, Đảng cần tạo ra một môi trường cởi mở để tất cả người dân có thể tham gia và làm sao để các mầm cải cách, mầm tiến bộ càng ngày càng được nuôi dưỡng.
Chúng tôi có làm một nghiên cứu và thấy rằng trong lịch sử, các mầm cải cách của VN hay bị thui chột. Thời phong kiến, Phố Hiến, Hội An là những mầm phát triển kinh tế cực kỳ tốt nhưng cuối cùng bị coi là ngoại lai, bị bóp nghẹt.
Những mầm cải cách gần đây như hiện tượng Bình Dương, hiện tượng khu Nam Sài Gòn đã từng tạo ra hiệu ứng phát triển tốt cũng đang dần yếu đi.
Bởi vậy, câu chuyện hiện nay là làm sao Đảng có chính sách huy động sự tham gia của mọi tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là tầng lớp tinh hoa vào công cuộc cải cách. Như anh Phạm Duy Nghĩa vừa nói, trước tiên phải để mọi người cãi nhau toé lửa ra đã. Khi cãi nhau toé lửa ra thì các ý tưởng hay ho mới hình thành, mới va chạm, từ đó may ra chúng ta tìm được đường lối phát triển phù hợp. Cần có một cơ chế để tất cả 90 triệu người Việt Nam cùng nghĩ, cùng tìm hướng phát triển cho Việt Nam chứ không phải câu chuyện của 3-4 triệu hay một số ít người nào đó.
(VTC News) – Làng quê đang bình yên, bỗng đâu dân lập chiến lũy để ngăn chặn “xã hội đen” xâm phạm cuộc sống của họ, trong khi chính quyền vào cuộc có phần chưa quyết liệt.
Suốt gần tháng nay, một làng quê nhỏ ở Hải Dương sống trong cảnh tượng vô cùng lạ lùng, không khác gì thời chiến. Sự vào cuộc có phần không quyết đoán của chính quyền, đã dẫn đến phản ứng tiêu cực từ người dân.
Dân trong thôn đã tự sắm kẻng, đào đường, đổ đá chặn đường, rèn một số loại vũ khí để sẵn sàng đối đầu với xã hội đen. Câu chuyện tưởng như rất kỳ cục này lại đang hiện hữu ở đất nước thời bình. Đây thực sự là lời cảnh báonghiêm trọng về công tác quần chúng của chính quyền địa phương.
Những ngày này, về Hải Dương, đâu đâu cũng bàn tán chuyện “chiến sự” ở làng Châu Xá (Duy Tân, Kinh Môn, Hải Dương). Đất Duy Tân nổi tiếng với ngôi chùa Nhẫm Dương, nơi phát hiện hàng loạt di chỉ khảo cổ, trong đó, quan trọng nhất là hóa thạch vượn người Pôn-gô.
Điều đó khẳng định rằng, đất nước Việt Nam chính là một trong những cái nôi sản sinh ra vượn người, là gốc tích của loài người hiện đại. Nhưng giờ, con đường vào vùng đất có bề dày văn hóa, khảo cổ và tâm linh ấy vắng bóng người qua lại.
Thi thoảng, chỉ thấy tiếng xe máy nẹt pô, rú ga phóng vun vút vào làng, rồi lại vun vút lao ra. Các đối tượng ngồi trên xe máy đều đội mũ bảo hiểm, đeo khẩu trang kín mít. Tôi được người dân cảnh báo rằng, đó toàn là xã hội đen, chúng vào làng rình mò, theo dõi động tĩnh của dân làng (?!).
Đến thị trấn Phú Thứ, hỏi đường vào thôn Châu Xá, một anh nhìn tôi kỹ càng rồi hỏi: “Không sợ mất mạng hay sao mà mò vào đó làm gì? Nếu là người lạ thì đừng có dại dột mà vào làng. Họ mà đánh kẻng, cả làng cầm gậy gộc, gạch đá ùa ra thì mất mạng như chơi đấy”.
Nhiều con đường ở Châu Xá được nhân dân rải đá để chống lại xã hội đen
Nghe lời cảnh báo ấy, tôi cũng thấy chờn chợn, tuy nhiên, cây ngay không sợ chết đứng, tôi bỏ mũ bảo hiểm, đi xe máy tà tà, chầm chậm vào làng. Tôi dừng lại trước một dãy nhà bên đường, giữa cánh đồng, chìm nghỉm trong màu không khí nhờ nhờ do khói từ những nhà máy xi măng nhả ra.
Nhà nào cũng cổng kín then cài, gọi cửa mãi mới thấy một cụ ông lò dò hé cửa trong hỏi vọng ra: “Ai đấy?”. Tôi cất giọng, giới thiệu là nhà báo, tức thì cụ ông mở cửa, ngó phải nhìn trái, rồi mở cổng mời tôi vào.
Ông giới thiệu là Lê Văn An, 70 tuổi, bộ đội về hưu. Ông An bảo: “Bác từng có mấy chục năm trong quân ngũ, ra sống vào chết bao lần rồi, nhưng bác thấy làng mình bây giờ chẳng khác gì đang có chiến sự, đang ở thời kỳ chống Mỹ. Bác thấy buồn vì chính quyền ở đây xa rời dân quá. Con giun xéo lắm cũng phải quằn”.
Trình bày cảm xúc một lúc, rồi ông An kể: “Sở dĩ người dân bức xúc tày đình như những ngày qua, là vì chính quyền xã đã không đứng về phía dân một cách quyết liệt.
Người dân dựng lán, lập chốt ngăn chặn nhà máy hóa chất gây ô nhiễm
Mấy lần họp cựu chiến binh, mọi người đều đem chuyện nhà máy xây dựng trái phép ra bàn, và đều nhất quyết yêu cầu chính quyền xã đóng cửa nhà máy. Khi nhà máy hoạt động, nhả ra khí thải màu xanh lè, khiến dân ngộp thở, khiến cá chết, vịt chết, dân kiện cáo, mới lòi ra cái chuyện nhà máy xây dựng không phép giữa làng.
Bức xúc ở chỗ, nhà máy to như quả núi xây dựng không phép mà lãnh đạo xã không biết, thế nhưng, một ngôi mộ của dân xây vào đất ruộng thì biết ngay, sai dân quân đi đập ngay”.
Tâm sự đến khi bức xúc dịu xuống, ông Lê Văn An lấy mũ, lập cập trèo lên xe áp tải phóng viên vào sâu trong làng. Ông bảo, người lạ vào làng không có người trong làng áp tải thì mất mạng như chơi.
Đến giữa cánh đồng gặp một con đường bê tông cắt ngang đường chính. Con đường này dẫn từ núi ra, bị chặn bởi những đống đá hộc.
Cứ vài mét lại có một đống đá. Con đường thẳng tắp, cờ xí phấp phới như thể có hội. Từ đầu đường, xuyên sâu vào trong núi, cứ vài mét lại có một đống đá nhỏ. Những tảng đá hộc nằm lăn lóc giữa đường.
Đi một đoạn thì thấy con đường bị đào đứt đôi, chỉ còn lại “con lươn” nhỏ, đủ cho xe máy đi qua. Đất đá phá đường được múc lên đổ thành đống, chặn ngang đường, xe ô tô không thể trèo qua được. Ông An bảo, nhân dân phá đường như thế để xe ô tô, xe xúc, xe ủi không đi qua được.
Nhìn con đường dẫn vào Nhà máy Trường Khánh, như thể có chiến sự, với hào sâu, đống trụ cản đường xe tăng!
Thấy chiếc xe máy lách từng đống đá đi trên “con đường chiến sự” giữa cái nắng chang chang, hàng chục người buông bát, bỏ đũa chui ra khỏi lều, lấy tay che trán quan sát.
Cụ Phạm Văn Áp thể hiện quyết tâm đối đầu với xã hội đen
Lúc sau, tôi mới biết, cụ ông Phạm Văn Áp đã cầm búa, lên dây cót tinh thần, chuẩn bị đánh kẻng báo hiệu. Tuy nhiên, khi phát hiện “người lạ” chở ông Lê Văn An, người trong làng, thì mọi người thở phào nhẹ nhõm.
Chiếc lán được dựng lên ở một đầu đường để mọi người nghỉ ngơi, và chiếc rạp lớn được dựng lên giữa ngã tư đường để mọi người ngồi uống nước, trò chuyện, chơi cờ.
Điều tôi thấy lạ lùng nhất, ấy là mấy chục “chiến binh” chống lại “xã hội đen”, như lời đồn đại ầm ĩ trong vùng, toàn là ông già và bà già. Trong số đó, phân nửa mặc áo nâu sồng, nhai trầu bỏm bẻm.
Người cao tuổi nhất là cụ ông Phạm Văn Áp, người được giao nhiệm vụ đánh kẻng. Cụ Áp năm nay 80 tuổi, trán hói, răng rụng gần hết, nhưng tính tình thì vui vẻ phải biết.
Cụ bảo: “Tôi đồn trú ở đây 17 ngày đêm, hao mất 5kg rồi. Hôm qua tranh thủ về nhà một tí mà vợ không nhận, chó mèo cũng không nhận ra nữa rồi. Tôi phải quyết tử chiến đấu vì con, vì cháu, vì ngôi làng này.
Thời chúng tôi, cái làng nhỏ này có đủ 4 hướng để thở, nhưng đến đời con cháu chúng tôi, thì họ xây dựng nhà máy xi măng, bịt mất 3 hướng rồi. Còn mỗi hướng để thở, giờ họ dựng cái nhà máy hóa chất bịt nốt, thì chỉ có con đường chết.
Mới mấy hôm trước thôi, bọn xã hội đen còn chỉ vào mặt chúng tôi thách thức, nói rằng sẵn sàng san bằng thôn này, di chết hết cả thôn. Chúng nó còn nói chúng nó chưa từng lùi bước ở bất kỳ đâu.
Chúng nó nói thật và làm thật, nhưng chúng nó đã phải lùi bước trước người dân Châu Xá chúng tôi. Tôi từng này tuổi rồi, chết được rồi, nghĩa địa lại ở cánh đồng đây, tôi sẽ không ngại đổ máu”.
Nói rồi, cụ ông Phạm Văn Áp đứng trước lá cờ Tổ quốc, hiên ngang ngẩng mặt, yêu cầu nhà báo chụp cho tấm ảnh để đăng báo, để tự hào với con cháu, dân làng, vì thành tích chống lại xã hội đen!.
Bài tới: Thực hư chuyện cả trăm xã hội đen càn quét dân làng?
Các thành phố của Thụy Sĩ luôn nằm trong danh sách những nơi đáng mơ ước nhất thế giới nhờ có không khí trong lành, môi trường sống bình đẳng và nền dân chủ cao.
Mạng lưới Giải pháp Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc vừa công bố danh sách các quốc gia hạnh phúc nhất thế giới hôm 23/4, dẫn đầu là Thụy Sĩ. Dưới đây là những lý do giúp đất nước này giành vị trí quán quân, doTelegraph thống kê.
Thụy Sĩ sở hữu không khí trong lành, nguồn nước sạch tinh khiết. Ảnh: Telegraph.
Giàu có
Theo thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế, năm 2014, GDP đầu người của Thụy Sĩ đạt hơn 58.000 USD, nằm trong top 10 các quốc gia có GDP cao nhất thế giới.
Sống thọ
Tuổi thọ của người dân Thụy Sĩ trung bình là 82,2 và đứng thứ 10 trong danh sách các quốc gia sống thọ trên thế giới.
Chocolate
Theo nhiều nghiên cứu, chocolate làm con người trở nên vui vẻ vì giúp não giải phóng dopamine - một chất rất hiếm. Dopamine được coi là hóa chất hạnh phúc, đóng vai trò chủ chốt đối với những trải nghiệm về sự vui thú, khao khát, khoái lạc....
Còn Thụy Sĩ là một trong những quốc gia làm chocolate ngon bậc nhất thế giới. Ngoài chocolate, họ cũng nổi tiếng vì làm ra các sản phẩm pho-mát tuyệt hảo.
Những người không béo
Chỉ khoảng 9% dân số Thụy Sĩ mắc bệnh béo phì. Tỷ lệ này thuộc hàng thấp nhất châu Âu.
Đất nước hòa bình
Thụy Sĩ không tham gia vào bất kỳ cuộc chiến tranh nào kể từ năm 1847. Họ cũng không mất hàng tỷ USD vào quân đội để đi tham chiến.
Thời gian làm việc không nhiều
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, trung bình mỗi người dân Thụy Sĩ làm khoảng 35,2 giờ một tuần, thấp hơn nhiều so với mức 36,4h của người Anh trong khi ở Tây Ban Nha, con số này là 38h còn Hy Lạp là 42,1h và Thổ Nhĩ Kỳ lên tới 48,9h
Hệ thống chăm sóc sức khỏe
Thụy Sĩ được đánh giá cao trong hệ thống phúc lợi và chăm sóc sức khỏe người dân. Điều này cũng được nhiều người giải thích cho việc Hội chữ thập đỏ có trụ sở nằm tại Geneva.
Những người thông minh
Tới 25 người Thụy Sĩ đã đạt giải Nobel trên tổng dân số khoảng 8 triệu dân. Quốc gia này cũng là quê hương của nàng Bondgirl đình đám thế giới Ursula Andress.
Tính dân chủ cao
Đây là quốc gia được biết đến có nền dân chủ cao, bình đẳng. Dân thường cũng có quyền đề nghị thay đổi hiến pháp và họ được phép trưng cầu dân ý về luật pháp mới.
Vua Bhutan thứ 5 cùng hoàng hậu gặp gỡ mọi tầng lớp nhân dân
Trong khi cả thế giới lựa chọn chỉ số GDP (Gross Domestic Products – Tổng sản phẩm quốc nội) làm thước đo thịnh vượng và phát triển, thì riêng tại đất nước này, chỉ số đó bị loại bỏ thay vào đó là GNH (Gross National Happiness- Tổng hạnh phúc quốc dân).
Những cánh rừng ngọn núi xanh bát ngát, tu viện tịch lặng uy nghiêm, niềm vui lấp lánh trong ánh mắt người dân, sự yên bình sung túc thể hiện trên từng lá cây ngọn cỏ… Tại nơi đất nước hạnh phúc nhất thế giới này, người dân đều thỏa mãn với cuộc sống của mình và hầu hết du khách đã đến một lần đều muốn quay trở lại.
Đứng ngoài thế giới văn minh
Taktshang, tu viện Phật giáo nổi tiếng nhất ở Bhutan
Trước năm 1974, nhiều người không biết đến sự tồn tại của một đất nước Bhutan nhỏ bé, lọt thỏm giữa trập trùng rừng núi của dãy Himalaya. Khi ấy, người nước ngoài không được phép nhập cảnh vào Bhutan và người Bhutan không có điều kiện để đi ra nước ngoài.
Tòa nhà Chính phủ ở phía bắc thủ đô Thimphu. Với hơn 60% diện tích lãnh thổ còn rừng bao phủ, ngay cả các đô thị lớn của Bhutan cũng tràn ngập màu xanh.
Hơn 30 năm sau, Bhutan vẫn gần như đứng ngoài thế giới văn minh. Đây là quốc gia cuối cùng có sóng truyền hình (năm 1999). Cả nước chỉ có duy nhất một sân bay, với một đường băng, nơi máy bay chỉ có thể lên xuống vào ban ngày, trong điều kiện thời tiết tốt. Trên khắp thế giới, chỉ có 8 phi công có đủ khả năng và bản lĩnh để được phép hạ cánh ở Bhutan.
Họ không đẩy mạnh phát triển công nghiệp, thay vào đó, họ duy trì cuộc sống thanh bình, chậm rãi của người dân, không “đô thị hóa”, không “hiện đại hóa”, chú ý vào chất lượng cuộc sống và các giá trị tinh thần…
Kể từ năm 1971, Bhutan đã loại bỏ chỉ số GDP (tổng sản phẩm nội địa) và thay thế bằng một chỉ số mới – GNH (tổng hạnh phúc quốc gia).
Chỉ số Tổng Hạnh phúc Quốc dân này được tính toán hàng năm. Theo đó, đời sống tinh thần – thể chất, văn hóa – xã hội của người dân, việc bảo vệ tài nguyên – môi trường của quốc gia… được đưa lên ưu tiên số một.
Thủ đô duy nhất không có đèn giao thông
Sân bay duy nhất của Bhutan, nằm cách thành phố Paro 6km, đón tiếp khách phương xa bằng những thửa ruộng bậc thang vàng óng ả, tỏa ra một mùi hương no ấm của lúa chín. Phía sau những thửa ruộng ấy, Paro mở ra đột ngột như một câu chuyện cổ tích.
Những tu viện Phật giáo Tây Tạng trầm mặc trong khói hương, thấp thoáng bóng cà sa đỏ thắm của các vị tu hành. Những khung cửa chạm trổ cầu kỳ, treo đầy những chùm ớt chín, lấp ló nụ cười nửa thân thiện, nửa tò mò của các cô bé, cậu bé má đỏ hồng. Những con phố nhỏ, sạch bong và yên tĩnh, được viền bằng những ngôi nhà xinh xắn sơn màu trắng hoặc vàng nhạt. Cảnh vật nhuốm màu thời gian huyễn hoặc như hiện ra từ một quá khứ xa xôi.
Những ngôi nhà mang dáng vẻ cổ xưa, với khung cửa chạm trổ cầu kỳ, treo đầy những chùm ớt chín đỏ.
Kiến trúc Bhutan gây ấn tượng mạnh và hoàn toàn khác biệt với tất cả những quốc gia còn lại trên thế giới. Tất cả nhà cửa ở đây, dù mới xây, đều mang dáng vẻ cổ xưa. Không có bóng dáng của cao ốc hiện đại theo lối kiến trúc hình hộp phương Tây. Nhà nước Bhutan có quy định rất rõ ràng về chiều cao cũng như phong cách của các tòa nhà để đảm bảo mọi đô thị đều là một thể thống nhất, hài hòa, phản ánh rõ nét sắc thái văn hóa truyền thống của đất nước.
Ở Paro hay kể cả Thimphu, thủ đô đồng thời là thành phố lớn nhất của Bhutan, hầu như không có cảnh tắc đường. Xe cộ ít nên không khí rất trong lành. Thimphu có lẽ là thủ đô duy nhất trên thế giới không có đèn tín hiệu giao thông. Trước kia, ở đây cũng đã từng có một cái, nhưng người dân không thích vì cho rằng nó kệch cỡm và không hài hòa với cảnh quan chung. Vì thế, chính quyền thành phố đã cho dỡ bỏ và thay vào bằng một cảnh sát.
4 “nguyên liệu” làm nên Hạnh phúc
Vị vua thứ tư, Jigme Singye Wangchuck là người đề ra tiêu chuẩn Tổng mức Hạnh phúc Quốc gia (Gross National Happiness – GNH) để đánh giá mức độ phát triển của đất nước, thay cho các chỉ số kinh tế như GNP hay GDP. Bhutan là quốc gia đầu tiên và duy nhất trên thế giới áp dụng GNH.
Nhà vua cho rằng, 4 điểm mấu chốt để làm nên Hạnh phúc Quốc gia là: phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, bảo tồn văn hóa và lãnh đạo tốt. Tất cả các luận điểm này đều được vua Jigme Singye Wangchuck thực thi một cách hiệu quả.
Hạn chế du lịch, bảo tồn di sản văn hóa
Bhutan mở cửa để phát triển kinh tế du lịch, nhưng đồng thời áp dụng chính sách chặt chẽ để hạn chế số lượng du khách hàng năm trong khả năng đáp ứng của cơ sở hạ tầng địa phương và không ảnh hưởng đến môi trường cũng như các di sản văn hóa.
Cách quản lý số lượng du khách cũng rất độc đáo. Bhutan không hạn chế cấp visa, nhưng quy định mọi du khách đều phải mua tour trọn gói của các công ty do nhà nước cấp phép hoạt động, với mức phí tối thiểu cho một ngày lưu trú là 200 USD. Mức giá khá cao này giúp ngành du lịch Bhutan, dù chỉ phục vụ một lượng khách nhỏ, nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu lợi nhuận và bảo tồn.
Đốn một cây xanh phải trồng bù 3 cây
Theo sắc lệnh của nhà vua, cứ đốn 1 cây xanh vì bất cứ mục đích gì thì đều phải trồng bù 3 cây mới. Nhờ thế mà cho đến nay, hơn 60% diện tích Bhutan vẫn còn rừng bao phủ và 1/4 lãnh thổ là các công viên quốc gia. Túi nylon bị cấm sử dụng. Thuốc trừ sâu, thuốc kích thích tăng trưởng và chất bảo quản là những thứ xa lạ với nông dân. Những chính sách tích cực này giúp Bhutan có môi trường nguyên sơ và hệ sinh thái đa dạng vào bậc nhất thế giới.
Không truyền hình bạo lực, không MTV, không tội phạm
Rất ít quốc gia có thể bảo vệ bản sắc văn hóa như Bhutan. Đường phố tràn ngập sắc màu rực rỡ của gho (áo khoác dài đến đầu gối, thắt lưng ở ngang eo, dành cho nam giới) và kira (váy quấn của phụ nữ). Đa số người dân Bhutan mặc những trang phục truyền thống này hàng ngày, theo quy định của nhà vua.
Đường phố tràn ngập sắc màu rực rỡ của gho (áo khoác dài đến đầu gối, thắt lưng ở ngang eo, dành cho nam giới) và kira (váy quấn của phụ nữ).
Bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống lớn nhất: chân thật và hướng thiện
Giá trị văn hóa Bhutan không chỉ nằm ở vẻ bề ngoài của người dân mà còn ghi dấu đậm nét trong tính cách họ, chân thật và hướng thiện theo đúng tinh thần Phật giáo (đạo Phật là quốc giáo ở Bhutan với hơn 70% dân số là Phật tử).
Bhutan là quốc gia của những đền đài, tu viện cổ xưa. Người dân nơi đây là những Phật tử trung thành, đi đến đâu, bạn cũng sẽ thấy cờ phướn của nhà Phật tung bay, khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ không hề bị tác động bởi bàn tay con người.
Đất nước duy nhất trên thế giới không có nạn trộm cướp, giết người và ma túy
Khi cho phép triển khai truyền hình và internet, nhà vua đã nghĩ đến việc ngăn chặn tác động xấu mà những sản phẩm của văn minh phương Tây này gây ra cho người dân. Các kênh truyền hình có tính chất khiêu dâm, bạo lực (kể cả kênh thể thao Ten Sports vì kênh này dành một thời lượng lớn cho môn đấu vật), Fashion TV và kênh âm nhạc MTV đều bị cấm ở Bhutan. Chẳng ngạc nhiên khi ở thế kỷ 21, vương quốc này vẫn hầu như không có nạn trộm cướp, giết người và ma túy.
Những biển hiệu trên đường phố khiến bạn mỉm cười hạnh phúc
Khi đến Bhutan, người ta sẽ không thấy nhiều biển hiệu quảng cáo mà thay vào đó là những câu khẩu hiện hẳn sẽ khiến nhiều du khách mỉm cười, chẳng hạn “Cuộc sống là một cuộc hành trình! Hãy lên đường!”,“Hãy để thiên nhiên dẫn đường chỉ lối!” hoặc “Rất xin lỗi nếu có bất cứ sự bất tiện nào!”…
Chỉ số Tổng Hạnh phúc Quốc dân GNH của Bhutan được hiện thực hóa trong từng chi tiết nhỏ của đời sống, họ hy vọng những du khách đặt chân đến Bhutan cũng có thể được hưởng sự hạnh phúc, dễ chịu trong cuộc sống của những người dân nơi vương quốc xa xôi, bí ẩn này.
97% dân số hạnh phúc
Nhà vua Bhutan thứ 5 chăm sóc đến hạnh phúc của dân chúng Bhutan
Trong một cuộc khảo sát năm 2005, 45% người dân Bhutan cho rằng họ rất hạnh phúc, 52% cảm thấy hạnh phúc và chỉ có 3% chưa hài lòng về cuộc sống của mình. Bhutan là một trong 10 nước đứng đầu thế giới về mức độ thỏa mãn của người dân và là nước duy nhất trong nhóm này có mức thu nhập tính theo đầu người chỉ hơn 1.800 USD.
Không hạnh phúc sao được khi trẻ em đi học không phải đóng bất cứ khoản tiền nào mà còn được trợ cấp sách vở, lương thực. Người dân và kể cả du khách đều được chăm sóc sức khỏe hoàn toàn miễn phí. Dù còn hơn 30% dân số thuộc diện nghèo, nhưng ở Bhutan, không ai lo bị đói, lo ốm đau không có tiền thuốc men hay lo con cái mình thất học.
Từ bỏ quyền lực vì lợi ích quốc gia
Điều duy nhất khiến dân chúng cảm thấy không hạnh phúc có lẽ chính là quyết định chuyển thể chế nhà nước từ quân chủ chuyên chế sang quân chủ lập hiến do chính vua Jigme Singye Wangchuck đề ra.
Ông cho rằng, quyền lực tuyệt đối nằm trong tay nhà vua chỉ mang lại lợi ích cho đất nước khi đó là một vị vua sáng suốt, tận tụy. Nếu trong tương lai, người lên ngôi không có đủ năng lực hay đạo đức thì đất nước sẽ thiệt hại nặng nề.
Chính vì thế, Bhutan phải dân chủ hóa, chuyển quyền lựa chọn người điều hành đất nước vào tay nhân dân, thông qua việc bầu cử nghị viện. Đây là điểm mấu chốt để thực hành lãnh đạo tốt, một trong 4 nhân tố cấu thành nên Hạnh phúc Quốc gia. Cuộc bầu cử nghị viện đầu tiên ở Bhutan được tổ chức đầu năm 2008.
Vua Bhutan thứ 4, Jigme Singye Wangchuck, trao lại vương miện cho con trai trong lễ đăng quang
Quyết định dân chủ hóa đất nước khi đó không làm cho người dân Bhutan hạnh phúc, vì họ đã rất hài lòng với sự lãnh đạo của nhà vua. Họ không biết sự thay đổi liệu có mang lại điều gì tốt đẹp hơn những cái họ đang có, hay chỉ dẫn đến xung đột và tranh chấp giữa các đảng phái chính trị.
Rất nhiều người đã đến trước Hoàng cung, cầu xin nhà vua tiếp tục nắm giữ quyền lực tuyệt đối. Để thuyết phục người dân về lợi ích của dân chủ hóa, vua Jigme Singye Wangchuck đã cho con trai mình (vua Bhutan thứ 5) đi khắp đất nước, gặp gỡ mọi tầng lớp nhân dân. Vị vua 28 tuổi, tốt nghiệp đại học Oxford, đăng quang tháng 11/2008, là vị vua đầu tiên của chế độ quân chủ lập hiến tại Bhutan.
Giáo dục theo chuẩn “nhà trường xanh”
Ở các trường học ở Bhutan, học sinh được định hướng giáo dục theo chuẩn “nhà trường xanh”. Bên cạnh việc học các môn cơ bản, các em được học cách làm nghề nông, cách sống thân thiện với môi trường, chính các em sẽ tham gia phân loại và tái chế rác của nhà trường mình.
Ngoài ra, mỗi ngày đến lớp đều có một khoảng thời gian để cô trò cùng ngồi thiền. Chuông báo hết tiết là những đoạn nhạc du dương giúp người nghe thư giãn. Giáo dục Bhutan không đặt nặng việc các em phải là những học sinh giỏi, họ muốn các em sẽ là những công dân tốt.
Đứng vững vàng khi cả thế giới lao đao
Trong ba thập kỷ qua, Bhutan đã đề ra một quan điểm đi đầu thế giới rằng sự hạnh phúc, khỏe mạnh của người dân quan trọng hơn việc chỉ tập trung mọi nỗ lực vào phát triển kinh tế. Sự lựa chọn này qua thời gian đã chứng minh được là sự lựa chọn đúng đắn.
Trong khi cả thế giới lao đao trước những cơn khủng hoảng kinh tế, trước tình trạng thiên nhiên bị hủy hoại, khí hậu nóng lên… thì riêng một mình quốc gia bé nhỏ Bhutan lại ngày càng nổi lên như một quốc gia thịnh vượng, đã định hướng được cách phát triển bền vững, lâu dài và hiệu quả. Thiên nhiên được bảo tồn tuyệt đối, kinh tế, giáo dục, sức khỏe phát triển bền vững.
Những thành tựu đáng kinh ngạc của Bhutan là minh chứng cho điều đó. Trong vòng 20 năm, tuổi thọ trung bình của người dân Bhutan được tăng gấp đôi, 100% trẻ em được tới trường, mức độ trong lành của môi trường ở mức lý tưởng, thiên nhiên được bảo vệ tối đa, 60% diện tích quốc gia được che phủ bởi rừng… Bhutan cấm việc xuất khẩu gỗ, mỗi tháng đều có một ngày toàn dân đi bộ…
Bộ trưởng Giáo dục Bhutan – ông Thakur Singh Powdyel từng phát biểu: “Phá rừng phá biển để làm giàu thì quá dễ, ở Bhutan, chúng tôi tin rằng đó không phải là cách để thịnh vượng dài lâu. Chỉ có cách bảo vệ thiên nhiên – môi trường, chăm sóc cho chất lượng cuộc sống người dân thì một quốc gia mới thực sự được coi là phát triển”.
Chỉ số GNH của Bhutan đang ngày càng thu hút sự quan tâm và khen ngợi của dư luận quốc tế, ngày càng có nhiều học giả từ khắp nơi trên thế giới tìm hiểu, phân tích về chiến lược phát triển của vương quốc bé nhỏ nằm trong dãy Himalaya – đất nước Bhutan.
Đây là quốc gia duy nhất trên thế giới tính toán mức độ thịnh vượng của đất nước dựa trên mức độ hạnh phúc của người dân, chứ không phải dựa trên chỉ số GDP – tổng sản phẩm quốc nội. Những gì Bhutan làm khiến cả thế giới phải suy ngẫm và nhắc đến quốc gia Châu Á bé nhỏ này.