Một quan chức cấp cao Trung Quốc từng lên tiếng ủng hộ mạnh mẽ chiến dịch chống tham nhũng của Chủ tịch Tập đang bị điều tra vì nghi liên quan đến hành vi tham nhũng.
21 tháng 12, 2014
20 tháng 12, 2014
Nga sẽ đánh tới cùng trong cuộc chiến giá dầu với OPEC?
Đăng Bởi Một Thế Giới -
Nếu như các doanh nghiệp khai thác và xuất khẩu dầu Mỹ đang sử dụng lá bài mạnh nhất là tập đoàn bảo hiểm để hỗ trợ trong cuộc chiến giá dầuvới OPEC, Nga cũng có những "vũ khí" của riêng mình.
Thế giới những ngày nửa sau tháng 12, tháng cuối cùng trong năm, vẫn chứng kiến một cuộc đọ sức giữa 3 đối thủ lì lợm trong cuộc chiến giá dầu, nhắm vào thị phần dầu mỏ trên thị trường thế giới: "kẻ chủ xướng" OPEC với 2 địch thủ Mỹ và Nga.
Giới phân tích thế giới đã không khỏi choáng váng trước cú sốc tăng lãi suất được đánh giá là không thể tưởng tượng của ngân hàng trung ương Nga, khi tăng lãi suất lên 17% từ mức 10,5%.
Các chuyên gia đã tính toán chính phủ Nga sẽ sử dụng đến các liệu pháp thắt chặt tài chính để kiểm soát đà mất giá của đồng Rup, nhưng không ai nghĩ Nga lại làm quyết liệt đến mức không ai ngờ đến như thế. Việc tăng lãi suất lên một mức cao khó tưởng tượng một cách chóng vánh như thế có thể gây ra những hệ lụy không nhỏ cho kinh tế Nga.
Thực vậy, việc tăng lãi suất lên mức 17% có thể đe dọa đẩy kinh tế vào một cuộc suy thoái tốc độ tăng trưởng khá lớn, các doanh nghiệp sẽ khó vay tiền để mở rộng sản xuất hay thậm chí là phải giảm khả năng sản xuất, người dân Nga cũng sẽ phải chi tiêu thắt lưng buộc bụng hơn.
Trong bối cảnh kinh tế Nga được dự đoán có mức tăng trưởng 0% trong năm 2015, việc đẩy lãi suất lên cao như thế nhiều khả năng sẽ kéo chỉ số tăng trưởng của Nga xuống thấp hơn mức được dự đoán khá nhiều.
Không một ai nghi ngờ về hậu quả khôn lường cho kinh tế Nga khi tăng lãi suất lên cao đột ngột như vậy, nhưng nó lại là một giải pháp không tồi nếu xét trên toàn cảnh tình hình đang diễn ra. Nga đang phải đối mặt với 2 vấn đề chủ đạo: việc dầu giảm giá đang đẩy ngân sách suy giảm và khiến đồng Rup mất giá nghiêm trọng, bên cạnh đó là sự cạnh tranh với OPEC về thị phần dầu trên thị trường thế giới.
Nếu Nga giảm sản lượng dầu để nâng giá dầu cao trở lại đồng thời nâng giá đồng Rup thì họ sẽ đánh mất một phần thị trường vào tay OPEC. Điều này sẽ đe dọa nghiêm trọng ngân sách của Nga vốn phân nửa đến từ xuất khẩu dầu trong những năm tới.
Còn nếu Nga vẫn giữ nguyên sản lượng để cạnh tranh thị phàn, họ phải chấp nhận nhìn đồng Rup tiếp tục trượt giá. Chính phủ của tổng thống Putin đang lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan. OPEC cũng như Mỹ đang chờ đợi chú gấu Nga sẽ khuỵu gối trước, vì Nga đang phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn về kinh tế nhất trong số 3 đối thủ.
Nhiều chuyên gia cho rằng không sớm thì muộn, Nga sẽ phải chấp nhận giảm sản lượng khai thác và xuất khẩu dầu để nâng giá đồng Rup, thông qua sự cải thiện của giá dầu.
Trong bối cảnh đó, việc Nga tung ra biện pháp nâng lãi suất được xem là giải pháp tối ưu ở thời điểm hiện tại. Với giải pháp này, Nga có thể không những chặn được đà trượt giá của đồng Rup mà còn đưa nó lên cao trở lại. Đồng Rup hiện đã tăng khoảng 35% so với USD kể từ khi ngân hàng trung ương Nga tăng lãi suất lên 17%.
Về lâu dài, không ai phủ nhận việc kinh tế Nga sẽ đối mặt với hậu quả từ việc làm này, nhưng nó đang cho thấy Nga đang sẵn sàng hơn bao giờ hết cho một cuộc đọ sức lâu dài với OPEC và Mỹ trong cuộc chiến giá dầu.
Thậm chí đây được xem là một thông điệp nặng ký hơn cả tuyên bố sẽ chỉ bàn bạc về giá dầu ở kỳ họp vào giữa năm 2015 của OPEC, vì với hành động này Nga đang chứng tỏ sẵn sàng duy trì biện pháp này trong suốt năm 2015, trong khi việc OPEC liệu có duy trì tình trạng giá dầu dưới 60 USD/thùng như hiện nay trong suốt năm tới hay không vẫn đang bị đặt dấu hỏi.
Nga đang tự tin với giải pháp này đến mức thúc đẩy thực hiện với một cường độ cao chưa từng thấy. Thống đốc ngân hàng trung ương Nga là bà Elvira Nabiullina đang chứng tỏ những khả năng ghê gớm của mình. Lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng ở Nga trong tháng này đã tăng gấp đôi lên 27%, cao nhất trong 8 năm. Một ngân hàng khác đã nâng mức lãi suất lên 38,3% để thu về toàn bộ số tiền gửi kỳ hạn 10 ngày trị giá 150 tỉ Rup tương đương 2,5 tỉ USD.
Đây được xem là quyết tâm chơi đến cùng của tổng thống Putin, khi mà cả Mỹ lẫn OPEC khó có thể duy trì mức giới hạn chịu đựng về kinh tế lâu dài như cách Nga đang làm.
Đáng nói là Nga không nhất thiết phải duy trì tình trạng này lâu, chỉ cần OPEC hoặc Mỹ lùi bước khiến giá dầu tăng trở lại và đồng Rup được hỗ trợ mà không cần kiểm soát lãi suất thì một phần lớn các chính sách thắt chặt tiền tệ này sẽ được tạm dừng.
Nhàn Đàm (theo Bloomberg)
'Sẵn sàng tự vệ, đập tan mọi hành động xâm lược'?
- "Chúng ta chủ trương không đe dọa hoặc sử dụng sức mạnh quân sự trong quan hệ quốc tế, nhưng sẵn sàng tự vệ, đập tan mọi hành động gây hấn, xâm lược và kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch", Chủ tịch nước nói.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang phát biểu tại lễ kỷ niệm 70 năm ngày thành lập QĐND Việt Nam, 25 năm ngày hội Quốc phòng toàn dân sáng nay ở Hà Nội.
Nhiều lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước tới dự lễ kỷ niệm
|
Tham dự buổi lễ có Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy TƯ; Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch UB TƯ MTTQ VN Nguyễn Thiện Nhân, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh...
Nhiều vị nguyên lãnh đạo, các mẹ Việt Nam anh hùng, lão thành cách mạng cũng có mặt tại lễ kỷ niệm.
Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gửi lẵng hoa chúc mừng.
Tại lễ kỷ niệm, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bày tỏ lòng biết ơn tới Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các anh hùng liệt sĩ, đồng bào, đồng chí... đã chiến đấu hy sinh, vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, vì hạnh phúc của nhân dân.
Theo Chủ tịch nước, 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, được sự yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân, kế thừa và phát huy tinh thần yêu nước và nghệ thuật quân sự của dân tộc Việt Nam, vượt qua muôn vàn gian lao thử thách, QĐND Việt Nam đã cùng toàn dân giành được những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN và làm tròn nghĩa vụ quốc tế vẻ vang.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang |
Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, QĐND luôn nêu cao tinh thần cách mạng, đập tan mọi âm mưu và hành động xâm phạm chủ quyền biên giới, biển đảo của Tổ quốc; thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế xã hội, xây dựng các khu kinh tế quốc phòng, các công trình có ý nghĩa chiến lược của đất nước...
Nhấn mạnh đến tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định, bất trắc, khó lường những năm tới, Chủ tịch nước khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại; nắm chắc nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
Đồng thời phải coi trọng xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, chủ động dự báo, nhạy bén, nắm bắt tình hình, bình tĩnh, khôn khéo, tỉnh táo, sáng suốt trong xử lý các tình huống cụ thể, không để bị kích động, mắc mưu, khiêu khích, bị động, bất ngờ trong mọi tình thế.
Là một dân tộc yêu chuộng hòa bình, Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng mang tính chất hòa bình và tự vệ, kiên trì chủ trương không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết các vấn đề tồn tại, bất đồng và tranh chấp lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Việt Nam chủ trương từng bước hiện đại hóa quân đội chỉ nhằm duy trì sức mạnh quân sự ở mức cần thiết để tự vệ.
"Chúng ta chủ trương không đe dọa hoặc sử dụng sức mạnh quân sự trong quan hệ quốc tế, nhưng sẵn sàng tự vệ, đập tan mọi hành động gây hấn, xâm lược và kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch", Chủ tịch nước nói.
Chủ tịch nước cũng đề nghị lực lượng QĐND nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn bài học của cha ông ta "Dựng nước đi đôi với giữ nước", "Giữ nước từ khi nước chưa nguy", tiếp tục khẳng định quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trao tặng QĐND Việt Nam Huân chương Sao Vàng
|
Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã trao tặng huân chương Sao Vàng lần thứ năm cho QĐND Việt Nam.
Hồng Nhì - Ảnh: Quân đội Nhân dân
Xã hội này sẽ tiến…đến đâu?
Tối qua đi nhậu quán DÊ ở Nguyễn Văn Lộc VT. Có khoảng 5 người ăn xin, 4
người bán hàng rong, 4 người bán vé số, 2 người hát dạo… các lứa tuổi khác nhau
tới bàn mình mời chào...
Cuộc sống của dân đen như thế đó !
Có gì để vênh mặt tự hào, tự sướng?
Phạm Hải
16 tháng 12, 2014
Không nên làm sân bay Long Thành !
Dự án sân bay Long Thành: 3 luồng ý kiến cần được xem xét thấu đáo
Sân bay Tân Sơn Nhất thường xuyên quá tải dịp lễ, tết. Ảnh: Trần Phan
Ngày 12.12.2014 Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội đã có buổi tọa đàm lấy ý kiến chuyên gia về dự án đầu tư xây dựng cảng hàng không quốc tế Long Thành.
PV Báo Lao Động trao đổi với tiến sĩ Trần Đình Bá - hội viên Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam - có ý kiến phát biểu tại diễn đàn, ông cho biết:
- Uỷ ban Kinh tế (UBKT) của Quốc hội (QH) được giao chủ trì , phối hợp với Hội đồng Dân tộc và các UB của QH tiến hành thẩm tra báo cáo đầu tư dự án cảng hàng không quốc tế Long Thành (SBLT). Để tiếp tục làm rõ một số nội dung của dự án và chuẩn bị ý kiến cho Uỷ ban Kinh tế (UBKT) báo cáo QH tại kỳ họp thứ 9, UBKT đã khảo sát thực địa và làm việc với các đơn vị liên quan trực tiếp hay có tác động tới dự án và tổ chức buổi tọa đàm, lắng nghe ý kiến phản biện.
Mặc dù chỉ có một buổi sáng, nhưng rất nhiều chuyên gia tới dự và đều được phát biểu quan điểm. Tôi được mời dự họp với tư cách chuyên gia và thấy đây là một cuộc họp rất ý nghĩa và bổ ích. Cuộc họp đã thành công vì đã nhận được rất nhiều ý kiến tâm huyết, có trách nhiệm.
Thưa ông, các chuyên gia có đưa ra những hiến kế gì mới để khởi động dự án SBLT?
- Không khí cuộc họp “rất nóng” ngay từ đầu, với 3 luồng ý kiến khác nhau:
Luồng ý kiến thứ nhất quyết liệt ủng hộ dự án SBLT để VN được cất cánh hội nhập và cạnh tranh với thế giới, đưa hàng không phát triển. Lý do dự án SBLT đã được nghiên cứu rất kỹ từ những năm 1980 và cam kết những số liệu đưa ra trong dự án là phù hợp với thực tế. Đồng thời nêu ra những bất cập của sân bay Tân Sơn Nhất (SBTSN) hiện nay là quá tải nghiêm trọng, không thể mở rộng và kiến nghị QH nên có quy trình nhanh nhất để thông qua dự án này càng sớm càng tốt.
Luồng ý kiến thứ hai là kiến nghị xây thêm nhà ga hàng không, mở rộng thêm sân đỗ cho SBTSN để nâng cao năng lực vận tải. Bên cạnh đó chuyển đổi chức năng cho sân bay Biên Hòa trở thành sân bay quốc tế và quân sự nhằm giảm tải cho SBTSN mà không phải xây thêm sân bay mới tốn kém ngân sách và đầu tư công.
Luồng ý kiến thứ 3 không đồng tình với việc xây dựng SBLT vì dự án nêu ra chưa thực tế, các số liệu thiếu thuyết phục. Nhiều ý kiến phân tích số sân bay quốc tế ở VN cao gấp 3 lần Thái Lan và nhiều nước, đang gây lãng phí lớn. Có chuyên gia cho rằng Long Thành chỉ cách Tân Sơn Nhất 33km, bố trí hai sân bay quốc tế lớn gần như thế là không hợp lý, chẳng lẽ sau khi xây xong SBLT thì phá bỏ SBTSN. Có chuyên gia quy hoạch kiến trúc cho rằng xây một khu đô thị đã là một vấn đề dài hạn, nếu cứ đặt sân bay giữa đồng trống thì không khai thác được.
Nó tạo sức ép phát triển đô thị sân bay, giao thông kết nối,… liệu mình có kham nổi không? nếu chọn phương án làm SBLT, nguồn vốn đầu tư cho giai đoạn 1 không phải là 8 tỉ USD mà có thể lên tới trên 40 tỉ USD. Có chuyên gia băn khoăn trong hoàn cảnh hiện nay thì cần phải tính cái gì quan trọng, có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển mạnh mẽ thì đầu tư trước, cụ thể là phải xếp hạng thứ tự quan trọng từ cao đến thấp để quyết định đầu tư có trọng điểm và cần rút kinh nghiệm khi đầu tư vào cảng biển trong quy hoạch và dự án cũng dự báo là đóng vai trò trung chuyển như SBLT nhưng hiện nay khai thác ra sao. Các ý kiến chuyên gia đều được ghi nhận để tổng hợp báo cáo trước QH.
Ý kiến của ông tại buổi tọa đàm?
- Sân bay là kho tài sản quốc gia trị giá nhiều tỉ USD nên cần cân nhắc để không lãng phí, không để rơi vào hội chứng “lạm phát” sân bay như đã từng xảy ra với cảng biển, ximăng lò đứng… Tôi coi Tân Sơn Nhất và Biên Hòa là hai “sân bay vàng”, là kho tài sản quốc gia trị giá hàng chục tỉ USD cần phải được cân nhắc sử dụng hợp lý. Khu kinh tế trọng điểm phía nam cần có 2 sân bay quốc tế để chi viện cho nhau là đúng, nhưng không thể một lúc “ôm” cả 3 cái.
Giữa Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Long Thành chỉ nên chọn 2 là đủ, vừa dễ dàng trong điều hành không lưu. Nếu chọn cả 3 sẽ thừa và rối. Trong ba sân bay đó nên chọn cái nào, bỏ cái nào là một vấn đề cần cân nhắc.
Chúng ta muốn có SBLT mới hiện đại để cạnh tranh quốc tế, song vấn đề tài chính có kham nổi không vì bài toán hiệu quả kinh tế chưa trả lời được câu hỏi: Tiền ở đâu? sẽ huy động được bao nhiêu? sau khi có Long Thành thì GDP sẽ tăng trưởng bao nhiêu và lúc nào sẽ hoàn vốn và tác động kép như thế nào đến nền kinh tế xã hội (?!). Đây là câu hỏi khó mà nhóm tác giả dự án sẽ khó trả lời được.
- Xin cảm ơn ông!
Lao động
15 tháng 12, 2014
Vũ khí dầu lửa của Putin bị vô hiệu hóa
-“Tác động rõ nét nhất là nước Nga của Putin đã bị tước đi vũ khí mạnh của mình đó là dầu lửa và con bài dầu lửa không còn hiệu quả nữa”, TS Hoàng Anh Tuấn nói.
Mời quý vị xem phần tiếp theo tọa đàm tổng kết năm với Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược Bộ công an và TS Hoàng Anh Tuấn – Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược ngoại giao, Bộ Ngoại giao dưới đây.
Hạ giá dầu, mũi tên trúng hai đích
Nhà báo Thu Hà:Thực tế chứng minh kinh tế là giá đỡ của tất cả các vấn đề kể cả an ninh. Nhìn vào thực tế hiện nay, các ông có nhận định gì về kinh tế thế giới nói chung?
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Chúng ta phải xét đến các khu vực nòng cốt: Mỹ, Nhật, Châu Âu và khối BRICS.
Ba trung tâm Mỹ, Nhật và Châu Âu vẫn có vai trò dẫn dắt, làm giá đỡ cho kinh tế thế giới. Theo phân tích của TS. Hoàng Anh Tuấn, năm vừa rồi có điểm sáng ở Hoa Kỳ, là động lực trụ cột của kinh tế thế giới. Hẳn chúng ta còn nhớ hôm 29/10 vừa rồi, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) tuyên bố chấm dứt toàn bộ chương trình cứu trợ kinh tế (khởi sự từ năm 2008). Việc FED tuyên bố chấm dứt chương trình cứu trợ kinh tế như vậy cho thấy nền kinh tế Mỹ đã thoát khỏi khủng hoảng và chỉ số thất nghiệp của họ chỉ còn trên dưới 6%, lạm phát cũng giảm.
Với Nhật Bản, chương trình kinh tế của Thủ tướng Nhật Bản năm 2013 và nửa đầu năm 2014 tương đối thành công. Nhưng vừa rồi, sau khi kiết thúc cuộc họp thượng định G20, Thủ tướng Nhật Bản tuyên bố kinh tế Nhật Bản suy thoái.
Tại châu Ấu, lần đầu tiên trong 10 năm gần đây nền kinh tế Đức chỉ còn tăng trưởng1%, kinh tế Pháp đến bây giờ vẫn bế tắc, Tây Ban Nha cận kề suy thoái, còn Italia vẫn chật vật và Hy Lạp chưa hết khốn khó.
Còn nhóm các nước BRICS gồm Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ, Nga, Nam Phi tình hình cũng không khá. Trung Quốc năm 2014 tốc độ tăng trưởng chỉ có 7,4%. Đó là hệ quả của một thời gian dài đầu tư tràn lan không hiệu quả, bong bóng bất động sản, nợ công và nợ xấu cao. Nước Nga của Putin thì đang bên bờ vực của suy thoái. Ấn Độ vẫn loay hoay chưa tìm được lối ra. Còn Brazil sau bầu cử vừa rồi cũng chồng chất khó khăn.
Nhà báo Thu Hà: Một vấn đề dư luận đang vô cùng quan tâm là giá dầu, theo tìm hiểu của tôi thì giá đã sụt giảm gần 50%. Rất rnhiều ý kiến nói rằng, người Mỹ đã nắm được thắt lưng của người Nga và nước Nga của Tổng thống Putin đang bị tước mất vũ khí quan trọng nhất. Liệu giá dầu và khí đốt sụt giảm nhanh như vậy thì điều gì sẽ xảy ra tới đây?
TS. Hoàng Anh Tuấn: Có thể thấy dầu lửa và khí đốt luôn là các mặt hàng chiến lược. Sự trồi sụt nhanh chóng của các mặt hàng chiến lược này luôn tác động lớn về mặt địa-chiến lược và địa-kinh tế, cả với các nước chịu ảnh hưởng cũng như các nước được hưởng thụ.
Chúng ta cần nhớ sức mạnh của nước Nga và ông Putin có được trong thời gian qua phần lớn nhờ vào việc tăng giá dầu. Trong giai đoạn 2003-2008 giá dầu thế giới đã tăng từ 18 USD lên 130 USD một thùng và Putin đã dùng số tiền thu được từ việc giá dầu lên một cách hiệu quả, phân phối đầu tư lợi nhuận từ dầu lửa vào phát triển kinh tế quốc gia, tăng tiềm lực quốc phòng. Do đó, khi giá dầu giảm mạnh thì nó đã tác động mạnh đến nước Nga và ông Putin.
Đứng trên bình diện kinh tế thế giới, những quốc gia nào mà nguồn thu nhập phụ thuộc vào xuất khẩu dầu lửa và khí đốt thì bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất khi giá dầu sụt giảm. Được hưởng nhiều nhất là những quốc gia phải nhập dầu lửa và khí đốt từ bên ngoài, và người tiêu dùng cũng được hưởng lợi từ giá dầu và giá khí đốt giảm. Chẳng hạn ở Mỹ, so với cách đây 1 năm thì giá xăng dầu giảm khoảng 60 cent một galon, một mức giảm rất lớn. Điều này có nghĩa một gia đình trung bình người Mỹ trong một năm giảm bớt chi phí chi cho xăng dầu khoảng 600 USD. Người ta có thể dùng số tiền tiết kiệm này để trang trải các chi phí khác và đó cũng là một dạng kích cầu cho kinh tế Mỹ.
Giá dầu giảm trong năm 2014 đã giúp ích rất nhiều cho các quốc gia nhập khẩu dầu lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và cả Mỹ nữa và đã có tác động giúp kinh tế thế giới tăng trưởng thêm 0,5% trong năm 2014. Ngược lại, hầu hết các thành viên của tổ chức xuất khẩu dầu mỏ OPEC đều bị ảnh hưởng nhất do thu nhập của họ dưạ vào việc xuất khẩu dầu. Các nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Nga, Iran, Venezuela… Khi giá dầu giảm thì tăng trưởng kinh tế của họ bị giảm theo và phúc lợi dành cho người dân cũng bị giảm nhiều.
Giá dầu giảm mạnh khiến các nhà đầu tư, các nước đã phát hiện ra mỏ dầu khí đốt mới ngần ngại.
Họ không muốn đầu tư tiếp vào các mỏ dầu mới do không hiệu quả. Hiện số tiền các dự án dầu khí mới đang chờ quyết định đầu tư là khoảng 500 tỷ USD. Nếu như giá dầu duy trì ít nhất ở mức 60 USD thì chỉ có một số ít nước có khả năng khai thác dễ dàng, thấp hơn mức đó mới tính đến chuyện thăm dò và khai thác. Trái lại, nếu giá dầu xuống thấp hơn nữa thì người ta phải tính lại.
Mặt tiêu cực khác nữa là giá dầu giảm sẽ kích thích tiêu thụ dầu. Mà như chúng ta biết dầu là loại nhiên liệu hóa thạch và khi tiêu thụ nhiều sẽ gây ra ô nhiễm môi trường. Về lâu dài, người tiêu dùng cũng phải trả giá. Giá dầu rẻ sẽ không khuyến khích các đầu tư mới.
Trong tương lai nhiều khả năng số dầu khai thác được cũng ít đi, khi đó xăng dầu sẽ lên giá trở lại, và người tiêu dùng phải trả giá cao hơn.
Về tác động địa-chính trị trên phạm vi toàn thế giới, rõ nét nhất là việc nước Nga đã bị tước đi vũ khí mạnh của mình đó là dầu lửa và con bài dầu lửa không còn hiệu quả nữa.
Nga chưa rút được bài học của Liên Xô trước đây, tức xây dựng nền kinh tế phụ thuộc vào dầu lửa. Đáng lẽ phải rút ra bài học từ việc này, thì Nga lại chưa làm được. Dầu lửa hiện vẫn chiếm tỷ lệ gần 80 % tổng xuất khẩu và đóng góp khoảng 50% ngân sách. Cho nên, khi giá dầu giảm thì Nga bị ảnh hưởng khá nặng nề, cứ 1 USD giá dầu giảm thì ngân sách nước Nga mất 2 tỷ USD và tính từ khi xảy ra khủng hoảng giá dầu đến nay thì ngân sách nước Nga mất trên 100 tỷ USD.
Mỹ làm chủ cuộc chơi?
Ngược lại với Nga, vai trò của Mỹ trong vấn đề dầu lửa hiện đang thay đổi. Nhờ dùng công nghệ fracking trong khai thác dầu và khí từ đá phiến, kết hợp với việc tìm ra một số mỏ đã phiến mới và đưa vào khai thác trên quy mô công nghiệp nên hiện nay Mỹ đã thay đổi vai trò trong cuộc chơi.
TS Hoàng Anh Tuấn |
Nếu như trước đây là Mỹ là nạn nhân của các cuộc khủng hoảng giá dầu, thì bây giờ Mỹ lại làm chủ cuộc chơi này. Điều này tác động sâu xa đến chiến lược của Mỹ, đến chính sách của Mỹ đối với các khu vực và cũng ảnh hưởng đến tình hình địa-chính trị ở các khu vực.
Chẳng hạn, trong các năm 1991 và 2003 Mỹ đã tham gia hai cuộc chiến chống lại Saddam và nguyên nhân của các cuộc chiến này chủ yếu là do dầu lửa. Nếu như Mỹ không còn phụ thuộc vào dầu lửa Trung Đông thì Mỹ sẽ phải tính toán lại chiến lược của mình. Chưa chắc Mỹ sẽ tiếp tục can dự vào các cuộc chiến “đổi máu lấy dầu lửa” ở Trung Đông, mà Mỹ sẽ yêu cầu các nước phụ thuộc vào dầu lửa tăng mức đóng góp.
Quan trọng hơn là từ nay trở đi Mỹ sẽ sử dụng vũ khí dầu lửa để tác động đến giá dầu, quyết định tăng hoặc giảm bao nhiêu, ở vào thời điểm nào và nhắm đến những đối tượng mà Mỹ thấy rằng đang tạo ra các thách thức an ninh mình, chẳng hạn như Venezuela, Iran và Nga.
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Vấn đề là tại sao giá dầu lại hạ nhanh như vậy? Chỉ từ tháng 5 đến nay thôi mà đã mất đi 45% rồi, tựu trung lại có 2 cách lý giải khác nhau. Mỹ, Tây Âu và một số đồng minh của Mỹ ở Trung Đông lý giải theo quy luật kinh tế. Kinh tế Nhật Bản và EU đã chững lại, nay bắt đầu suy thoái và BRICS cũng vậy. Bức tranh kinh tế của thế giới là u ám, nhu cầu thì giảm, trong khi đó cung cấp thì tăng lên, và Arap Saudi vẫn tiếp tục bơm dầu.
Như TS. Hoàng Anh Tuấn nói, công nghệ khai thác của Mỹ đang giúp đưa Mỹ đến chỗ tự thỏa mãn nhu cầu. Ngoài ra một số nước trước đây khủng hoảng thì bây giờ bắt đầu khai thác lại như Libi. Theo quy luật kinh tế thì nhu cầu giảm mà cung tăng lên thì giá dầu ắt sẽ giảm xuống.
Lý giải thứ 2 cho rằng giá dầu hạ do Mỹ đã phối hợp với Arap Saudi. Sau khi Nga sát nhập Crưm thì Tổng thống Obama đột xuất đến Arap Saudi và hai bên thống nhất tăng khai thác để giảm giá dầu. Từ tháng 3 đến tháng 9 vừa rồi thì ông John Kerry và Ngoại trưởng Arap Saudi gặp nhau 7 lần, chủ yếu vẫn là hiện thực hóa cam kết của Obama và Quốc vương Arap Saudi. Như vậy, đây là một cuộc chiến tranh thực sự mà Mỹ khơi mào tấn công Nga với vũ khí là dầu mỏ.
Thiếu tướng Lê Văn Cương (trái) |
Rõ ràng có một sự đồng thuận, tự nhiên giữa Mỹ và Arap Saudi bởi vì Arap Saudi xem Iran là kẻ tử thù của họ, nên hạ giá dầu là đánh thẳng vào đối thủ của mình, đồng thời Mỹ lại xem Nga là đối thủ. Việc Arap Saudi bắt tay với Mỹ hạ giá dầu là một mũi tên nhằm hai mục đích, bắn cả Nga và Iran. Còn bên kia tây bán cầu, giá dầu hạ cũng là tác động mạnh tới Venezuela.
Nhớ lại cách đây đúng 30 năm, năm 1984 giá dầu lúc đó là 30 đô la một thùng. Tổng thống Regan đã bàn với Arap Saudi là tăng cường khai thác và đến năm 1990 giá dầu chỉ là 5 đô la/1 thùng. Đây là đòn đánh thắng vào nền kinh tế của Liên Xô, một nhà chính trị thân phương tây cũng phải thốt lên, chính cuộc chiến tranh dầu mỏ Mỹ phát động từ năm 1984 đến 1990 đã làm cho Liên Xô sụp đổ. Tất nhiên ông ấy nói dưới tác động kinh tế thôi, chứ còn nguyên nhân sụp đổ của Liên Xô phức tạp hơn. Và kịch bản đang lặp lại với Nga – Mỹ. Cần hiểu đúng ý đồ sâu sa của Mỹ trong việc hạ thấp giá dầu: mục đích trước mắt là làm sụp đổ nền kinh tế của Nga, về lâu dài, thông qua sụp đổ kinh tế, Mỹ muốn loại bỏ Putin ra khỏi Kremlin, thay vào đó một người thân phương tây hoặc chí ít cũng ôn hoà hơn Putin.
Đông Á tăng nhiệt
Nhà báo Thu Hà: Những bất ổn tại Trung Đông và sự trỗi dậy của phong trào nhà nước hồi giáo (tự xưng) IS thì mọi người có thể hình dung và hiểu lý do, nhưng căng thẳng ở Đông Á với tần suất và quy mô hiện nay chưa từng có như vừa qua là vì sao?
TS. Hoàng Anh Tuấn: Như tôi nói ban đầu, năm 2014 các điểm nóng ở Khu vực Đông Á tăng nhiệt cùng lúc. Từ vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, đến tranh chấp biển đảo ở vùng Senkaku/Điếu Ngư Đài, khiến hai nhà lãnh đạo TQ và Nhật Bản là Tập Cận Bình và Shinzo Abe đã 2 năm không gặp nhau kể từ khi cả hai nước có lãnh đạo mới.
Tranh chấp Nhật Bản và Hàn Quốc liên quan đến đảo Dokdo, rồi căng thẳng ở Biển Đông với việc TQ đưa giàn khoan vào vùng thềm lục địa VN. Tiếp đó là biểu tình ở Hong Kong và bỏ phiếu hội đồng địa phương ở Đài Loan. Vậy nguyên nhân là do đâu?
Một là, các tàn dư của Chiến tranh lạnh vẫn chưa được xử lý cụ thể, ví dụ như tình hình của bán đảo Triều Tiên và quan hệ hai miền. Điểm này khác với khu vực châu Âu.
Hai là, do sự trỗi dậy của TQ, do chính sách quyết đoán của TQ cũng như quyết tâm của nước này trong việc khống chế và độc chiếm Biển Đông. Điều này đưa đến căng thẳng trong quan hệ của TQ và một số các nước Asean liên quan, trong đó có VN.
Ba là, sự cạnh tranh quyền lực ở một số các nước lớn trong khu vực, đặc biệt là sự thiếu lòng tin giữa Trung Quốc với Nhật Bản và Mỹ.
Bốn là, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, cộng với ý thức về chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và ý thức về sự độc lập của mình ở một loạt nước tăng cao. Đặc biệt, trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ, các nước nhỏ luôn lo ngại các nước lớn hơn chèn ép, lấn át.
, ở khu vực Đông Á chưa có một cấu trúc khu vực đủ mạnh để xử lý các tranh chấp, các mâu thuẫn, căng thẳng này một cách có hiệu quả, chẳng hạn như cơ chế CSCE ở châu Âu. Ở châu Á chưa có một thiết chế ràng buộc và đủ mạnh để buộc cho các nước lớn hành xử theo luật pháp quốc tế, giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình.
Năm là
Đây là 5 nguyên nhân khiến căng thẳng ở khu vực Đông Á “tăng nhiệt” cùng lúc.
Nhà báo Thu Hà: Những hành động của TQ, từ việc đưa giàn khoan vào Biển Đông hay việc Bắc Kinh bác bỏ đơn kiện của Philippin, lập ra các vùng nhận dạng phòng không, sáng kiến mở con đường tơ lụa trên biển…. nói lên điều gì? Thưa ông Lê Văn Cương, ông lý giải thế nào về những hành động của TQ trong năm qua?
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Theo dõi dư luận châu Âu và Mỹ suốt 30 năm qua, tôi thấy phần lớn người ta lý giải hành động của Trung Quốc bất chấp dư luận quốc tế, bất chấp đạo lý, bằng mọi cách chiếm biển Đông cho bằng được.
Vì biển Đông có nhiều dầu mỏ, TQ độc chiếm biển Đông để độc chiếm tài nguyên dầu mỏ, khí đốt phục vụ nền kinh tế khổng lồ. Thế giới nhìn từ góc độ đó, song tôi cho là chưa đủ.
Thứ nhất, dầu mỏ ở Biển Đông không có nhiều. Đến giờ phút này cũng không ai biết ở Biển Đông có bao nhiêu dầu cả. Bộ năng lượng Mỹ đưa ra con số khoảng 30 tỷ thùng, trong khi Trung Quốc đưa ra con số 230 tỷ thùng. Thế giới nghiêng về con số của Bộ năng lượng Mỹ, cho rằng trữ lượng dầu mỏ ở Biển Đông loanh quanh con số 50 tỷ thùng thôi. Vậy thì không có gì ghê gớm cả, riêng Arap Saudi đã là 190 tỷ thùng rồi, Iran 160 tỷ thùng và Iraq là 150 tỷ thùng. Hơn nữa, dầu mỏ ở Trung Đông là trầm tích rất nông, người ta khai thác dầu ở Trung Đông, Bắc Phi y như ta khoan giếng. Còn dầu ở biển đông thì trầm tích phía sâu hơn thường là vài trăm mét, thậm chí là cả cây số mới có dầu, trữ lượng không lớn, khai thác khó và chất lượng không cao. Như vậy, mục đích dầu lửa là có nhưng không phải là mục đích chính.
Do đó, theo tôi có hai nguyên nhân khiến cho Trung Quốc bất chấp luật pháp bằng mọi cách độc chiếm Biển Đông. Bởi lẽ, Biển Đông là lối ra duy nhất của Trung Quốc. Trung Nam Hải muốn trở thành một siêu cường, nhưng lại không có lối ra: Lên phía Bắc thì mắc Nga; ở mặt Đông Bắc thì bị hòn đá tảng liên minh Mỹ - Nhật - Hàn chặn; xuống Tây Nam thì giáp Ấn Độ; còn phía trên thì giáp Mông Cổ và vùng Trung Á. Bởi vậy Trung Quốc chỉ có hai lối ra duy nhất đó là qua Biển Đông, và một lối khác nằm giữa Đài Loan và Senkaku, nơi Mỹ và Nhật Bản kèm chặt. Bởi vậy, Biển Đông là lối thoát duy nhất để họ tiến ra Thái Bình Dương và vòng xuống phía Nam ra Ấn Độ Dương. Con đường độc đạo này dứt khoát họ phải giải tỏa, sống chết cũng phải làm.
Ngoài ra, Biển Đông nằm trên một trục đường hàng hải nhộn nhịp bậc nhất thế giới. Khoảng 33 % hàng hóa và dịch vụ thương mại quốc tế đi qua Biển Đông. Riêng dầu mỏ 42% dầu mỏ thương mại của thế giới đi qua Biển Đông, lượng dầu mỏ dầu mỏ thế giới qua biển đông lớn gấp 15 lần qua kênh đào Panama. Khống chế biển Đông sẽ đặt 10 nước ASEAN vào trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc, làm con bài mặc cả với Hàn Quốc và Nhật Bản, đó là hai lý do chủ yếu dẫn đến việc Trung Quốc bất chấp luật pháp, tìm cách độc chiếm Biển Đông. Ý đồ sâu xa của họ là như vậy.
Nhà báo Thu Hà: Trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, ASEAN sẽ đóng vai trò như thế nào để hóa giải các thách thức về an ninh trong khu vực? Bản thân các nhà ngoại giao, giới trí thức, giới truyền thông Việt Nam đã làm gì để góp tiếng nói bảo vệ chủ quyền lãnh thổ?
Câu hỏi này sẽ được các vị khách mời bàn thảo tại kỳ 3 cũng là kỳ cuối của toạ đàm nhìn lại thế giới năm 2014 của Tuần Việt Nam. Mời quí vị đón xem.
- Tuần Việt Nam - Ảnh: Lê Anh Dũng
14 tháng 12, 2014
Tại sao lương của người lao động VN quá thấp?
( Dân Trí ) Như vậy, không chỉ là những dự đoán, mức lương người lao động Việt Nam đã được khẳng định là quá thấp không chỉ với các nước phát triển mà còn thấp so với các nước Đông Nam Á.
Theo báo cáo về tiền lương toàn cầu 2014 - 2015 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong các nước ASEAN, lương tháng trung bình trong năm 2012 của Việt Nam ở mức xấp xỉ 181 USD, chỉ cao hơn so với Lào (119 USD), Campuchia (121 USD) và Indonesia (174 USD). Mức lương này chỉ bằng khoảng một nửa so với Thái Lan (357 USD), chưa bằng 1/3 của Malaysia (609 USD) và chỉ bằng 1/20 của Singapore (3.547 USD). Cũng theo báo cáo này, lĩnh vực được trả lương cao nhất hiện nay thuộc về ngành ngân hàng, tài chính. Trong khi đó, ngành nông, lâm, thủy sản chiếm tới một nửa lực lượng lao động cả nước nhưng thuộc nhóm lao động có mức lương thấp nhất.
Liệu có phải chính sách tiền lương của chúng ta đang duy trì một mức lương thấp để thu hút đầu tư nước ngoài? Hay người lao động Việt Nam chất lượng quá thấp, không xứng đáng hưởng mức lương cao? Quả thật, với nhiều người đã từng sống ở các nước trong khu vực ASEAN, từng tiếp xúc với lao động của các nước bạn sẽ không hài lòng với mức lương quá thấp của lao động nước nhà. Lao động Việt Nam không hề kém hơn, thậm chí không chỉ cần cù hơn, chịu khó hơn mà còn có phần thông minh hơn, có kiến thức hơn. Vậy tại sao lương của lao động chúng ta thấp?
Năng suất thấp hay giá trị gia tăng thấp?
Đọc những thông tin kinh tế - tài chính mới nhất trên FICA:
|
Vừa nhận được tin này, nhiều người đã hốt hoảng. Không ai tưởng tượng được rằng người Việt Nam chúng ta lại hèn kém như vậy. Các báo cũng đồng loạt đưa tin với những chỉ trích nặng nề nhằm vào người lao động. Không ai quan tâm về cách tính NSLĐ của ILO như thế nào. Rất đơn giản. Cách tính của họ là lấy tổng sản phẩm nội địa (GDP) chia cho số lượng lao động. Dĩ nhiên với cách tính này, NSLĐ của chúng ta thấp là đương nhiên. GDP của chúng ta vốn đã thấp, dân số lại đông, lượng lao động của chúng ta cũng đông. GDP theo đầu người còn thấp, theo đầu lao động cũng thấp theo. Nhưng nếu xét năng suất lao động như định nghĩa của nó là tính hiệu quả được đo bằng việc so sánh giữa khối lượng sản xuất trong thời gian nhất định thì NSLĐ của chúng ta không kém ai.
Chất lượng lao động của Việt Nam cũng không thua kém lao động các nước khác. Tại các nhà máy do các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư như Intel, Samsung, Toyota... lao động Việt Nam hoàn toàn làm chủ được các công nghệ, kỹ thuật hiện đại, đạt năng suất kỹ thuật không thua kém lao động ở các nước khác, trong khi chi phí lao động chỉ bằng 10% hoặc 5% ở các nước công nghiệp.
Năm 2013, Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam tại Bắc Ninh đã xuất khẩu khoảng 130 triệu chiếc điện thoại di động và các thiết bị khác với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 23,9 tỷ USD đóng góp hơn 18% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, hiện đang sử dụng 45 nghìn lao động, trong đó chỉ có khoảng 70 người Hàn Quốc. Công ty Samsung đã quyết định đóng cửa trung tâm nghiên cứu phát triển của mình tại Singapore và thành lập trung tâm nghiên cứu phát triển ở Việt Nam với khoảng 3.000 người nghiên cứu vì các kỹ sư, thạc sỹ, tiến sỹ của Việt Nam hoàn toàn đáp ứng nhu cầu nghiên cứu của Samsung và chi phí lao động thấp hơn nhiều so với Singapore.
Trong lĩnh vực nông nghiệp nông dân nước ta cần cù, sáng tạo, làm chủ quy trình sản xuất mới và áp dụng nhiều giống tốt, nhờ đó nền nông nghiệp nước ta tự hào có 12 loại cây trồng, vật nuôi có năng suất sinh học thuộc vào loại cao nhất thế giới là: Gạo, hạt điều, tiêu, cà phê, nho, dừa, cao su, chè, đay, thuốc lá, cá tra và bò sữa. Kim ngạch xuất khẩu nông sản năm 1990 mới là 1,1 tỷ USD, đến năm 2013 là 19,8 tỷ USD.
Vậy tại sao lương lao động của chúng ta thấp? Vấn đề là lao động chúng ta chưa tạo ra giá trị gia tăng lớn, nói đơn giản, chúng rất cố gắng, chúng ta rất chịu khó nhưng sản phẩm lao động của chúng ta chưa đáng tiền. Khả năng tự tích lũy để tái đầu tư thấp dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia đầy đủ vào tất cả các khâu của chuỗi sản xuất hàng hóa, do đó giá trị gia tăng tạo ra chưa cao. Lấy ví dụ trong ngành dệt may. Theo số liệu của Tập đoàn Dệt may Việt Nam, lợi nhuận của từng khâu trong chuỗi sản xuất ngành dệt may (đã khấu trừ tiền lương) là: khâu sản xuất sợi - 40 triệu đồng/người/năm; khâu dệt - 30 triệu đồng/người/năm, khâu may - 5,5 triệu đồng/người/năm. Có thể ví dụ, một tháng, lao động Việt Nam chỉ có thể làm ra được 4 triệu cho doanh nghiệp thì không thể mong doanh nghiệp trả lương 4 triệu mà chỉ có thể nhận được 3 triệu là đã may mắn lắm. Không thể để lỗ chỉ đổ lên đầu doanh nghiệp.
Cần làm gì để tăng lương cho người lao động
Có thể thấy lao động hiện nay được phân ra hai đối tượng có chính sách về lương khác nhau. Lao động thuộc diện hưởng lương từ ngân sách có chế độ lương được quy định chặt chẽ theo thang bảng, ngành nghề. Với đối tượng này, các yếu tố ngoài thu ngân sách gần như không có. Thậm chí, chất lượng lao động, năng suất... cũng không ảnh hưởng đến lương. Trừ lực lượng vũ trang, có khoảng gần 3 triệu lao động trong diện này. Lao động ở các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trừ quy định về mức lương tối thiểu còn lại phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường.
Theo một số chuyên gia, hiện có khoảng trên 16 triệu lao động thuộc diện này. Có năng suất cao, thị trường thuận lợi, giá trị gia tăng cao, lao động sẽ có mức lương cao. Nếu doanh nghiệp làm ăn khó khăn, lao động chỉ được hưởng mức tối thiểu trước khi bị sa thải vì nhiều lý do. Kết quả điều tra lực lượng lao động năm 2013 do ILO thực hiện cho thấy, lao động ngành hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm có mức lương cao nhất với bình quân 7,23 triệu đồng/tháng. Điều thú vị là lao động nữ đang làm việc trong hai ngành này được trả lương cao hơn nam giới. Đứng thứ hai là ngành hoạt động chuyên môn, khoa học, công nghệ và hoạt động kinh doanh bất động sản. Những ngành này có mức lương bình quân hàng tháng cao nhất tương ứng là 6,53 triệu đồng và 6,4 triệu đồng.
Trong khi đó, ngành nông, lâm, thủy sản lại có mức lương bình quân tháng thấp nhất (2,63 triệu đồng). Theo một điều tra của Chính phủ, năm 2014 NSLĐ khu vực công nghiệp của nước ta gấp 4,8 lần so với khu vực nông nghiệp; còn NSLĐ khu vực dịch vụ gấp 3,5 lần so với khu vực nông nghiệp. Các điều tra này cho thấy, lợi nhuận của các doanh nghiệp cũng như giá trị gia tăng mà mỗi lao động đem lại trong ngành tài chính ngân hàng hiện nay cao nhất và thấp nhất chính là các ngành sản xuất nông lâm thủy sản. Vì vậy, nói cho cùng, muốn tăng lương cho người lao động tại các doanh nghiệp, cách duy nhất là làm sao đó để doanh nghiệp làm ăn có lợi nhuận, lợi nhuận càng cao, khả năng trả lương cho người lao động càng cao lên.
Những hạn chế của các doanh nghiệp Việt Nam cũng chính là những cản trở để tăng lương cho người lao động. Trước hết, suất đầu tư thấp. Khi suất đầu tư cho mỗi lao động thấp, chúng ta chỉ có thể chọn những công nghệ lạc hậu, sử dụng nhiều lao động và giá trị gia tăng mỗi lao động làm ra cũng thấp. Năm 2014, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ đóng góp khoảng 18% GDP nhưng chiếm đến 47% tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế. Như vậy làm sao có được mức lương cao? Từ năm 2000 đến 2013, mặc dù khoảng cách về vốn đầu tư toàn xã hội/người lao động của các nước so với Việt Nam đã được thu hẹp đáng kể nhưng mức độ chênh lệch vẫn còn lớn: Nhật Bản từ gấp Việt Nam 76 lần năm 2000 giảm xuống còn 20 lần vào năm 2013; Singapore từ gấp 66 lần giảm xuống còn 22 lần; Hàn Quốc từ gấp hơn 34 lần giảm còn 21 lần; Malaysia từ gấp gần 11 lần giảm còn 6,5 lần; Thái Lan từ gấp 3,5 lần giảm còn gần 3 lần. Như vậy có thể thấy để tăng lương cho người lao động, trước hết phải tăng suất đầu tư, tăng cường sử dụng công nghệ cao, sử dụng ít lao động.
Thứ hai, chính các lao động cần phải nâng cao năng lực lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo của Việt Nam mặc dù tăng dần qua các năm nhưng vẫn còn ở mức thấp: năm 2000 – 16%, năm 2005 – 26,2%, năm 2010 – 40%, năm 2013 ước đạt 49%. Trong khi đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Singapore năm 2013 là 61,5%, Hàn Quốc là 62%. Có thể nói, nếu xét thêm hiệu quả đào tạo nghề quá kém, lao động Việt Nam vẫn có số đông là lao động phổ thông, lấy sức người là chính.
Thêm một lý do nữa đó là kinh nghiệm với thị trường của các doanh nghiệp từ các tập đoàn kinh tế tới các hộ sản xuất kinh doanh quá yếu. Đã nói tới giá trị, cần phải nói rõ, tính giá trị bằng tiền. Nếu giá cả sản phẩm làm ra quá thấp, giá trị gia tăng càng thấp. Đối với ngành nông lâm thủy sản, thu nhập của người lao động vẫn còn thấp và không ổn định, tình trạng được mùa mất giá, được giá mất mùa diễn ra từ hàng chục năm, song các doanh nghiệp không thể chi phối được thị trường đầu vào và đầu ra của sản xuất. Hai thị trường này thiếu tính cạnh tranh, có dấu hiệu thỏa thuận giữa các doanh nghiệp để tăng giá đầu vào và hạ giá đầu ra. Đầu vào giá cao và chất lượng kém vẫn phải mua, đầu ra giá thấp vẫn phải bán đang là hai gọng kìm giữ chặt thu nhập thấp của người lao động ngành nông lâm thủy sản cho dù năng suất sinh học của các cây con đã liên tục tăng trong hơn 20 năm qua với 12 sản phẩm có năng suất sinh học vào loại cao nhất thế giới. Đối với các ngành công nghiệp, việc thua thiệt trên thị trường thế giới đã rõ. Không có gì để bàn. Nâng cao năng lực thị trường của các doanh nghiệp được, nâng cao giá trị hàng hóa Việt Nam được, mới hy vọng tăng được lương cho người lao động.
Theo Phan Đức
Anninhthudo
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)