Trang

15 tháng 12, 2014

Vũ khí dầu lửa của Putin bị vô hiệu hóa

-“Tác động rõ nét nhất là nước Nga của Putin đã bị tước đi vũ khí mạnh của mình đó là dầu lửa và con bài dầu lửa không còn hiệu quả nữa”, TS Hoàng Anh Tuấn nói.

Mời quý vị xem phần tiếp theo tọa đàm tổng kết năm với Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược Bộ công an và TS Hoàng Anh Tuấn – Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược ngoại giao, Bộ Ngoại giao dưới đây.
Hạ giá dầu, mũi tên trúng hai đích
Nhà báo Thu Hà:Thực tế chứng minh kinh tế là giá đỡ của tất cả các vấn đề kể cả an ninh. Nhìn vào thực tế hiện nay, các ông có nhận định gì về kinh tế thế giới nói chung?
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Chúng ta phải xét đến các khu vực nòng cốt: Mỹ, Nhật, Châu Âu và khối BRICS.
Ba trung tâm Mỹ, Nhật và Châu Âu vẫn có vai trò dẫn dắt, làm giá  đỡ cho kinh tế thế giới. Theo phân tích của TS. Hoàng Anh Tuấn, năm vừa rồi có điểm sáng ở Hoa Kỳ, là động lực trụ cột của kinh tế thế giới. Hẳn chúng ta còn nhớ hôm 29/10 vừa rồi, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) tuyên bố chấm dứt toàn bộ chương trình cứu trợ kinh tế (khởi sự từ năm 2008). Việc FED tuyên bố chấm dứt chương trình cứu trợ kinh tế như vậy cho thấy nền kinh tế Mỹ đã thoát khỏi khủng hoảng và chỉ số thất nghiệp của họ chỉ còn trên dưới 6%, lạm phát cũng giảm.
Với Nhật Bản, chương trình kinh tế của Thủ tướng Nhật Bản năm 2013 và nửa đầu năm 2014 tương đối thành công. Nhưng vừa rồi, sau khi kiết thúc cuộc họp thượng định G20, Thủ tướng Nhật Bản tuyên bố kinh tế Nhật Bản suy thoái.
Tại châu Ấu, lần đầu tiên trong 10 năm gần đây nền kinh tế Đức chỉ còn tăng trưởng1%, kinh tế Pháp đến bây giờ vẫn  bế tắc, Tây Ban Nha cận kề suy thoái, còn Italia vẫn chật vật và Hy Lạp chưa hết khốn khó.
Hoàng Anh Tuấn, Lê Văn Cương, Ngoại giao, Đối ngoại, Trung-Mỹ, Nga-Mỹ, Thế giới 2014
Còn nhóm các nước BRICS gồm Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ, Nga, Nam Phi tình hình cũng không khá. Trung Quốc năm 2014 tốc độ tăng trưởng chỉ có 7,4%. Đó là hệ quả của một thời gian dài đầu tư tràn lan không hiệu quả, bong bóng bất động sản, nợ công và nợ xấu cao. Nước Nga của Putin thì đang bên bờ vực của suy thoái. Ấn Độ vẫn loay hoay chưa tìm được lối ra. Còn Brazil sau bầu cử vừa rồi cũng chồng chất khó khăn.
Nhà báo Thu Hà: Một vấn đề dư luận đang vô cùng quan tâm là giá dầu, theo tìm hiểu của tôi thì giá đã sụt giảm gần 50%. Rất rnhiều ý kiến nói rằng, người Mỹ đã nắm được thắt lưng của người Nga và nước Nga của Tổng thống Putin đang bị tước mất vũ khí quan trọng nhất. Liệu giá dầu và khí đốt sụt giảm nhanh như vậy thì điều gì sẽ xảy ra tới đây?
TS. Hoàng Anh Tuấn: Có thể thấy dầu lửa và khí đốt luôn là các mặt hàng chiến lược. Sự trồi sụt nhanh chóng của các mặt hàng chiến lược này luôn tác động lớn về mặt địa-chiến lược và địa-kinh tế, cả với các nước chịu ảnh hưởng cũng như các nước được hưởng thụ.
Chúng ta cần nhớ sức mạnh của nước Nga và ông Putin có được trong thời gian qua phần lớn nhờ vào việc tăng giá dầu. Trong giai đoạn 2003-2008 giá dầu thế giới đã tăng từ 18 USD lên 130 USD một thùng và Putin đã dùng số tiền thu được từ việc giá dầu lên một cách hiệu quả, phân phối đầu tư lợi nhuận từ dầu lửa vào phát triển kinh tế quốc gia, tăng tiềm lực quốc phòng. Do đó, khi giá dầu giảm mạnh thì nó đã tác động mạnh đến nước Nga và ông Putin.
Đứng trên bình diện kinh tế thế giới, những quốc gia nào mà nguồn thu nhập phụ thuộc vào xuất khẩu dầu lửa và khí đốt thì bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất khi giá dầu sụt giảm. Được hưởng nhiều nhất là những quốc gia phải nhập dầu lửa và khí đốt từ bên ngoài, và người tiêu dùng cũng được hưởng lợi từ giá dầu và giá khí đốt giảm. Chẳng hạn ở Mỹ, so với cách đây 1 năm thì giá xăng dầu giảm khoảng 60 cent một galon, một mức giảm rất lớn. Điều này có nghĩa một gia đình trung bình người Mỹ trong một năm giảm bớt chi phí chi cho xăng dầu khoảng 600 USD. Người ta có thể dùng số tiền tiết kiệm này để trang trải các chi phí khác và đó cũng là một dạng kích cầu cho kinh tế Mỹ.  
Giá dầu giảm trong năm 2014 đã giúp ích rất nhiều cho các quốc gia nhập khẩu dầu lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và cả Mỹ nữa và đã có tác động giúp kinh tế thế giới tăng trưởng thêm 0,5% trong năm 2014. Ngược lại, hầu hết các thành viên của tổ chức xuất khẩu dầu mỏ OPEC đều bị ảnh hưởng nhất do thu nhập của họ dưạ vào việc xuất khẩu dầu. Các nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Nga, Iran, Venezuela… Khi giá dầu giảm thì tăng trưởng kinh tế của họ bị giảm theo và phúc lợi dành cho người dân cũng bị giảm nhiều.
Giá dầu giảm mạnh khiến các nhà đầu tư, các nước đã phát hiện ra mỏ dầu khí đốt mới ngần ngại.
Họ không muốn đầu tư tiếp vào các mỏ dầu mới do không hiệu quả. Hiện số tiền các dự án dầu khí mới đang chờ quyết định đầu tư là khoảng 500 tỷ USD. Nếu như giá dầu duy trì ít nhất ở mức 60 USD thì chỉ có một số ít nước có khả năng khai thác dễ dàng, thấp hơn mức đó mới tính đến chuyện thăm dò và khai thác. Trái lại, nếu giá dầu xuống thấp hơn nữa thì người ta phải tính lại.
Mặt tiêu cực khác nữa là giá dầu giảm sẽ kích thích tiêu thụ dầu. Mà như chúng ta biết dầu là loại nhiên liệu hóa thạch và khi tiêu thụ nhiều sẽ gây ra ô nhiễm môi trường. Về lâu dài, người tiêu dùng cũng phải trả giá. Giá dầu rẻ sẽ không khuyến khích các đầu tư mới.
Trong tương lai nhiều khả năng số dầu khai thác được cũng ít đi, khi đó xăng dầu sẽ lên giá trở lại, và người tiêu dùng phải trả giá cao hơn.
Về tác động địa-chính trị trên phạm vi toàn thế giới,  rõ nét nhất là việc nước Nga đã bị tước đi vũ khí mạnh của mình đó là dầu lửa và con bài dầu lửa không còn hiệu quả nữa.
Nga chưa rút được bài học của Liên Xô trước đây, tức xây dựng nền kinh tế phụ thuộc vào dầu lửa. Đáng lẽ phải rút ra bài học từ việc này, thì Nga lại chưa làm được. Dầu lửa hiện vẫn chiếm tỷ lệ gần 80 % tổng xuất khẩu và đóng góp khoảng 50% ngân sách. Cho nên, khi giá dầu giảm thì Nga bị ảnh hưởng  khá nặng nề, cứ 1 USD giá dầu giảm thì ngân sách nước Nga mất 2 tỷ USD và tính từ khi xảy ra khủng hoảng giá dầu đến nay thì ngân sách nước Nga mất trên 100 tỷ USD.
Mỹ làm chủ cuộc chơi?
Ngược lại với Nga, vai trò của Mỹ trong vấn đề dầu lửa hiện đang thay đổi. Nhờ dùng công nghệ fracking trong khai thác dầu và khí từ đá phiến, kết hợp với việc tìm ra một số mỏ đã phiến mới và đưa vào khai thác trên quy mô công nghiệp nên hiện nay Mỹ đã thay đổi vai trò trong cuộc chơi.
Hoàng Anh Tuấn, Lê Văn Cương, Ngoại giao, Đối ngoại, Trung-Mỹ, Nga-Mỹ, Thế giới 2014
TS Hoàng Anh Tuấn
Nếu như trước đây là Mỹ là nạn nhân của các cuộc khủng hoảng giá dầu, thì bây giờ Mỹ lại làm chủ cuộc chơi này. Điều này tác động sâu xa đến chiến lược của Mỹ, đến chính sách của Mỹ đối với các khu vực và cũng ảnh hưởng đến tình hình địa-chính trị ở các khu vực.
Chẳng hạn, trong các năm 1991 và 2003 Mỹ đã tham gia hai cuộc chiến chống lại Saddam và nguyên nhân của các cuộc chiến này chủ yếu là do dầu lửa. Nếu như Mỹ không còn phụ thuộc vào dầu lửa Trung Đông thì Mỹ sẽ phải tính toán lại chiến lược của mình. Chưa chắc Mỹ sẽ tiếp tục can dự vào các cuộc chiến “đổi máu lấy dầu lửa” ở Trung Đông, mà Mỹ sẽ yêu cầu các nước phụ thuộc vào dầu lửa tăng mức đóng góp.
Quan trọng hơn là từ nay trở đi Mỹ sẽ sử dụng vũ khí dầu lửa để tác động đến giá dầu, quyết định tăng hoặc giảm bao nhiêu, ở vào thời điểm nào và nhắm đến những đối tượng mà Mỹ thấy rằng đang tạo ra các thách thức an ninh mình, chẳng hạn như Venezuela, Iran và Nga.  
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Vấn đề là tại sao giá dầu lại hạ nhanh như vậy? Chỉ từ tháng 5 đến nay thôi mà đã mất đi 45% rồi, tựu trung lại có 2 cách lý giải khác nhau. Mỹ, Tây Âu và một số đồng minh của Mỹ ở Trung Đông lý giải theo quy luật kinh tế. Kinh tế Nhật Bản và EU đã chững lại, nay bắt đầu suy thoái và BRICS cũng vậy.  Bức tranh kinh tế của thế giới là u ám, nhu cầu thì giảm, trong khi đó cung cấp thì tăng lên, và Arap Saudi vẫn tiếp tục bơm dầu.  
Như TS. Hoàng Anh Tuấn nói, công nghệ khai thác của Mỹ đang giúp đưa Mỹ đến chỗ tự thỏa mãn nhu cầu. Ngoài ra một số nước  trước đây khủng hoảng thì bây giờ bắt đầu khai thác lại như Libi. Theo quy luật kinh tế thì nhu cầu giảm mà cung tăng lên thì giá dầu ắt sẽ giảm xuống.
Lý giải thứ 2 cho rằng giá dầu hạ do Mỹ đã phối hợp với Arap Saudi. Sau khi Nga sát nhập Crưm thì Tổng thống Obama đột xuất đến Arap Saudi và hai bên thống nhất tăng khai thác để giảm giá dầu. Từ tháng 3 đến tháng 9 vừa rồi thì ông John Kerry và Ngoại trưởng Arap Saudi gặp nhau 7 lần, chủ yếu vẫn là hiện thực hóa cam kết của Obama và Quốc vương Arap Saudi. Như vậy, đây là một cuộc chiến tranh thực sự mà Mỹ khơi mào tấn công Nga với vũ khí là dầu mỏ.
Hoàng Anh Tuấn, Lê Văn Cương, Ngoại giao, Đối ngoại, Trung-Mỹ, Nga-Mỹ, Thế giới 2014
Thiếu tướng Lê Văn Cương (trái)
Rõ ràng có một sự đồng thuận, tự nhiên giữa Mỹ và Arap Saudi bởi vì Arap Saudi xem Iran là kẻ tử thù của họ, nên hạ giá dầu là đánh thẳng vào đối thủ của mình, đồng thời Mỹ lại xem Nga là đối thủ. Việc Arap Saudi bắt tay với Mỹ hạ giá dầu là một mũi tên nhằm hai mục đích, bắn cả Nga và Iran. Còn bên kia tây bán cầu, giá dầu hạ cũng là tác động mạnh tới Venezuela.
Nhớ lại cách đây đúng 30 năm, năm 1984 giá dầu lúc đó là 30 đô la một thùng. Tổng thống Regan đã bàn với Arap Saudi là tăng cường khai thác và đến năm 1990 giá dầu chỉ là 5 đô la/1 thùng. Đây là đòn đánh thắng vào nền kinh tế của Liên Xô, một nhà chính trị thân phương tây cũng phải thốt lên, chính cuộc chiến tranh dầu mỏ Mỹ phát động từ năm 1984 đến 1990 đã làm cho Liên Xô sụp đổ. Tất nhiên ông ấy nói dưới tác động kinh tế thôi, chứ còn nguyên nhân sụp đổ của Liên Xô phức tạp hơn. Và kịch bản đang lặp lại với Nga – Mỹ. Cần hiểu đúng ý đồ sâu sa của Mỹ trong việc hạ thấp giá dầu: mục đích trước mắt là làm sụp đổ nền kinh tế của Nga, về lâu dài, thông qua sụp đổ kinh tế, Mỹ muốn loại bỏ Putin ra khỏi Kremlin, thay vào đó một người thân phương tây hoặc chí ít cũng ôn hoà hơn Putin.
Đông Á tăng nhiệt
Nhà báo Thu Hà: Những bất ổn tại Trung Đông và sự trỗi dậy của phong trào nhà nước hồi giáo (tự xưng) IS thì mọi người có thể hình dung và hiểu lý do, nhưng căng thẳng ở Đông Á với tần suất và quy mô hiện nay chưa từng có như vừa qua là vì sao?
TS. Hoàng Anh Tuấn: Như tôi nói ban đầu, năm 2014 các điểm nóng ở Khu vực Đông Á tăng nhiệt cùng lúc. Từ vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, đến tranh chấp biển đảo ở vùng Senkaku/Điếu Ngư Đài, khiến hai nhà lãnh đạo TQ và Nhật Bản là Tập Cận Bình và Shinzo Abe đã 2 năm không gặp nhau kể từ khi cả hai nước có lãnh đạo mới.
Tranh chấp Nhật Bản và Hàn Quốc liên quan đến đảo Dokdo, rồi căng thẳng ở Biển Đông với việc TQ đưa giàn khoan vào vùng thềm lục địa VN. Tiếp đó là biểu tình ở Hong Kong và bỏ phiếu hội đồng địa phương ở Đài Loan. Vậy nguyên nhân là do đâu?
Một là, các tàn dư của Chiến tranh lạnh vẫn chưa được xử lý cụ thể, ví dụ như tình hình của bán đảo Triều Tiên và quan hệ hai miền. Điểm này khác với khu vực châu Âu.  
Hai là, do sự trỗi dậy của TQ, do chính sách quyết đoán của TQ cũng như quyết tâm của nước này trong việc khống chế và độc chiếm Biển Đông. Điều này đưa đến căng thẳng trong quan hệ của TQ và một số các nước Asean liên quan, trong đó có VN.
Ba là, sự cạnh tranh quyền lực ở một số các nước lớn trong khu vực, đặc biệt là sự thiếu lòng tin giữa Trung Quốc với Nhật Bản và Mỹ.
Bốn là, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, cộng với ý thức về chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và ý thức về sự độc lập của mình ở một loạt nước tăng cao. Đặc biệt, trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ, các nước nhỏ luôn lo ngại các nước lớn hơn chèn ép, lấn át.
, ở khu vực Đông Á chưa có một cấu trúc khu vực đủ mạnh để xử lý các tranh chấp, các mâu thuẫn, căng thẳng này một cách có hiệu quả, chẳng hạn như cơ chế CSCE ở châu Âu. Ở châu Á chưa có một thiết chế ràng buộc và đủ mạnh để buộc cho các nước lớn hành xử theo luật pháp quốc tế, giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình.
Hoàng Anh Tuấn, Lê Văn Cương, Ngoại giao, Đối ngoại, Trung-Mỹ, Nga-Mỹ, Thế giới 2014
Năm là
Đây là 5 nguyên nhân khiến căng thẳng ở khu vực Đông Á “tăng nhiệt” cùng lúc.
Nhà báo Thu Hà: Những hành động của TQ, từ việc đưa giàn khoan vào Biển Đông hay việc Bắc Kinh bác bỏ đơn kiện của Philippin, lập ra các vùng nhận dạng phòng không, sáng kiến mở con đường tơ lụa trên biển…. nói lên điều gì? Thưa ông Lê Văn Cương, ông lý giải thế nào về những hành động của TQ trong năm qua?
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Theo dõi dư luận châu Âu và Mỹ suốt 30 năm qua, tôi thấy phần lớn người ta lý giải hành động của Trung Quốc bất chấp dư luận quốc tế, bất chấp đạo lý, bằng mọi cách chiếm biển Đông cho bằng được.
Vì biển Đông có nhiều dầu mỏ, TQ độc chiếm biển Đông để độc chiếm tài nguyên dầu mỏ, khí đốt phục vụ nền kinh tế khổng lồ. Thế giới nhìn từ góc độ đó, song tôi cho là chưa đủ.
Thứ nhất, dầu mỏ ở Biển Đông không có nhiều. Đến giờ phút này cũng không ai biết ở Biển Đông có bao nhiêu dầu cả. Bộ năng lượng Mỹ đưa ra con số khoảng 30 tỷ thùng, trong khi Trung Quốc đưa ra con số 230 tỷ thùng. Thế giới nghiêng về con số của Bộ năng lượng Mỹ, cho rằng trữ lượng dầu mỏ ở Biển Đông loanh quanh con số 50 tỷ thùng thôi. Vậy thì không có gì ghê gớm cả, riêng Arap Saudi đã là 190 tỷ thùng rồi, Iran 160 tỷ thùng và Iraq là 150 tỷ thùng. Hơn nữa, dầu mỏ ở Trung Đông là trầm tích rất nông, người ta khai thác dầu ở Trung Đông, Bắc Phi y như ta khoan giếng. Còn dầu ở biển đông thì trầm tích phía sâu hơn thường là vài trăm mét, thậm chí là cả cây số mới có dầu, trữ lượng không lớn, khai thác khó và chất lượng không cao. Như vậy, mục đích dầu lửa là có nhưng không phải là mục đích chính.
Do đó, theo tôi có hai nguyên nhân khiến cho Trung Quốc bất chấp luật pháp bằng mọi cách độc chiếm Biển Đông. Bởi lẽ, Biển Đông là lối ra duy nhất của Trung Quốc. Trung Nam Hải muốn trở thành một siêu cường, nhưng lại không có lối ra: Lên phía Bắc thì mắc Nga; ở mặt Đông Bắc thì bị hòn đá tảng liên minh Mỹ - Nhật - Hàn chặn; xuống Tây Nam thì giáp Ấn Độ; còn phía trên thì giáp Mông Cổ và vùng Trung Á. Bởi vậy Trung Quốc chỉ có hai lối ra duy nhất đó là qua Biển Đông, và một lối khác nằm giữa Đài Loan và Senkaku, nơi Mỹ và Nhật Bản kèm chặt. Bởi vậy, Biển Đông là lối thoát duy nhất để họ tiến ra Thái Bình Dương và vòng xuống phía Nam ra Ấn Độ Dương. Con đường độc đạo này dứt khoát họ phải giải tỏa, sống chết cũng phải làm.
Ngoài ra, Biển Đông nằm trên một trục đường hàng hải nhộn nhịp bậc nhất thế giới. Khoảng 33 % hàng hóa và dịch vụ thương mại quốc tế đi qua Biển Đông. Riêng dầu mỏ 42% dầu mỏ thương mại của thế giới đi qua Biển Đông, lượng dầu mỏ dầu mỏ thế giới qua biển đông lớn gấp 15 lần qua kênh đào Panama. Khống chế biển Đông sẽ đặt 10 nước ASEAN vào trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc, làm con bài mặc cả với Hàn Quốc và Nhật Bản, đó là hai lý do chủ yếu dẫn đến việc Trung Quốc bất chấp luật pháp, tìm cách độc chiếm Biển Đông. Ý đồ sâu xa của họ là như vậy.
Nhà báo Thu Hà: Trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, ASEAN sẽ đóng vai trò như thế nào để hóa giải các thách thức về an ninh trong khu vực? Bản thân các nhà ngoại giao, giới trí thức, giới truyền thông Việt Nam đã làm gì để góp tiếng nói bảo vệ chủ quyền lãnh thổ?
Câu hỏi này sẽ được các vị khách mời bàn thảo tại kỳ 3 cũng là kỳ cuối của toạ đàm nhìn lại thế giới năm 2014 của Tuần Việt Nam. Mời quí vị đón xem.
  • Tuần Việt Nam - Ảnh: Lê Anh Dũng

14 tháng 12, 2014

Tại sao lương của người lao động VN quá thấp?

 ( Dân Trí ) Như vậy, không chỉ là những dự đoán, mức lương người lao động Việt Nam đã được khẳng định là quá thấp không chỉ với các nước phát triển mà còn thấp so với các nước Đông Nam Á.

Theo báo cáo về tiền lương toàn cầu 2014 - 2015 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong các nước ASEAN,  lương tháng trung bình trong năm 2012 của Việt Nam ở mức xấp xỉ 181 USD, chỉ cao hơn so với Lào (119 USD), Campuchia (121 USD) và Indonesia (174 USD). Mức lương này chỉ bằng khoảng một nửa so với Thái Lan (357 USD), chưa bằng 1/3 của Malaysia (609 USD) và chỉ bằng 1/20 của Singapore (3.547 USD).  Cũng theo báo cáo này, lĩnh vực được trả lương cao nhất hiện nay thuộc về ngành ngân hàng, tài chính. Trong khi đó, ngành nông, lâm, thủy sản chiếm tới một nửa lực lượng lao động cả nước nhưng thuộc nhóm lao động có mức lương thấp nhất.
Tại sao lương của người lao động Việt Nam quá thấp?
Liệu có phải chính sách tiền lương của chúng ta đang duy trì một mức lương thấp để thu hút đầu tư nước ngoài? Hay người lao động Việt Nam chất lượng quá thấp, không xứng đáng hưởng mức lương cao? Quả thật, với nhiều người đã từng sống ở các nước trong khu vực ASEAN, từng tiếp xúc với lao động của các nước bạn sẽ không hài lòng với mức lương quá thấp của lao động nước nhà. Lao động Việt Nam không hề kém hơn, thậm chí không chỉ cần cù hơn, chịu khó hơn mà còn có phần thông minh hơn, có kiến thức hơn. Vậy tại sao lương của lao động chúng ta thấp?
Năng suất thấp hay giá trị gia tăng thấp?
Đọc những thông tin kinh tế - tài chính mới nhất trên FICA:
Theo Thông cáo báo chí ngày 9-5-2014 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), năng suất lao động (NSLĐ) của Việt Nam năm 2013 thuộc nhóm thấp nhất khu vực châu Á-Thái Bình Dương, thấp hơn Singapore 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và thấp hơn Hàn Quốc khoảng 10 lần. So với các nước có thu nhập trung bình trong khối ASEAN, NSLĐ của Malaysia gấp 5 lần NSLĐ của Việt Nam còn NSLĐ của Thái Lan gấp 2,5 lần NSLĐ của Việt Nam.
Vừa nhận được tin này, nhiều người đã hốt hoảng. Không ai tưởng tượng được rằng người Việt Nam chúng ta lại hèn kém như vậy. Các báo cũng đồng loạt đưa tin với những chỉ trích nặng nề nhằm vào người lao động. Không ai quan tâm về cách tính NSLĐ của ILO như thế nào. Rất đơn giản. Cách tính của họ là lấy tổng sản phẩm nội địa (GDP) chia cho số lượng lao động. Dĩ nhiên với cách tính này, NSLĐ của chúng ta thấp là đương nhiên. GDP của chúng ta vốn đã thấp, dân số lại đông, lượng lao động của chúng ta cũng đông. GDP theo đầu người còn thấp, theo đầu lao động cũng thấp theo. Nhưng nếu xét năng suất lao động như định nghĩa của nó là tính hiệu quả được đo bằng việc so sánh giữa khối lượng sản xuất trong thời gian nhất định thì NSLĐ của chúng ta không kém ai.
Chất lượng lao động của Việt Nam cũng không thua kém lao động các nước khác. Tại các nhà máy do các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư như Intel, Samsung, Toyota... lao động Việt Nam hoàn toàn làm chủ được các công nghệ, kỹ thuật hiện đại, đạt năng suất kỹ thuật không thua kém lao động ở các nước khác, trong khi chi phí lao động chỉ bằng 10% hoặc 5% ở các nước công nghiệp.
Năm 2013, Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam tại Bắc Ninh đã xuất khẩu khoảng 130 triệu chiếc điện thoại di động và các thiết bị khác với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 23,9 tỷ USD đóng góp hơn 18% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, hiện đang sử dụng 45 nghìn lao động, trong đó chỉ có khoảng 70 người Hàn Quốc. Công ty Samsung đã quyết định đóng cửa trung tâm nghiên cứu phát triển của mình tại Singapore và thành lập trung tâm nghiên cứu phát triển ở Việt Nam với khoảng 3.000 người nghiên cứu vì các kỹ sư, thạc sỹ, tiến sỹ của Việt Nam hoàn toàn đáp ứng nhu cầu nghiên cứu của Samsung và chi phí lao động thấp hơn nhiều so với Singapore.
Trong lĩnh vực nông nghiệp nông dân nước ta cần cù, sáng tạo, làm chủ quy trình sản xuất mới và áp dụng nhiều giống tốt, nhờ đó nền nông nghiệp nước ta tự hào có 12 loại cây trồng, vật nuôi có năng suất sinh học thuộc vào loại cao nhất thế giới là: Gạo, hạt điều, tiêu, cà phê, nho, dừa, cao su, chè, đay, thuốc lá, cá tra và bò sữa. Kim ngạch xuất khẩu nông sản năm 1990 mới là 1,1 tỷ USD, đến năm 2013 là 19,8 tỷ USD.
Vậy tại sao lương lao động của chúng ta thấp? Vấn đề là lao động chúng ta chưa tạo ra giá trị gia tăng lớn, nói đơn giản, chúng rất cố gắng, chúng ta rất chịu khó nhưng sản phẩm lao động của chúng ta chưa đáng tiền. Khả năng tự tích lũy để tái đầu tư thấp dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia đầy đủ vào tất cả các khâu của chuỗi sản xuất hàng hóa, do đó giá trị gia tăng tạo ra chưa cao. Lấy ví dụ trong ngành dệt may. Theo số liệu của Tập đoàn Dệt may Việt Nam, lợi nhuận của từng khâu trong chuỗi sản xuất ngành dệt may (đã khấu trừ tiền lương) là: khâu sản xuất sợi - 40 triệu đồng/người/năm; khâu dệt - 30 triệu đồng/người/năm, khâu may - 5,5 triệu đồng/người/năm. Có thể ví dụ, một tháng, lao động Việt Nam chỉ có thể làm ra được 4 triệu cho doanh nghiệp thì không thể mong doanh nghiệp trả lương 4 triệu mà chỉ có thể nhận được 3 triệu là đã may mắn lắm. Không thể để lỗ chỉ đổ lên đầu doanh nghiệp.
Cần làm gì để tăng lương cho người lao động
Có thể thấy lao động hiện nay được phân ra hai đối tượng có chính sách về lương khác nhau. Lao động thuộc diện hưởng lương từ ngân sách có chế độ lương được quy định chặt chẽ theo thang bảng, ngành nghề. Với đối tượng này, các yếu tố ngoài thu ngân sách gần như không có. Thậm chí, chất lượng lao động, năng suất... cũng không ảnh hưởng đến lương. Trừ lực lượng vũ trang, có khoảng gần 3 triệu lao động trong diện này. Lao động ở các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trừ quy định về mức lương tối thiểu còn lại phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường.
Theo một số chuyên gia, hiện có khoảng trên 16 triệu lao động thuộc diện này. Có năng suất cao, thị trường thuận lợi, giá trị gia tăng cao, lao động sẽ có mức lương cao. Nếu doanh nghiệp làm ăn khó khăn, lao động chỉ được hưởng mức tối thiểu trước khi bị sa thải vì nhiều lý do. Kết quả điều tra lực lượng lao động năm 2013 do ILO thực hiện cho thấy, lao động ngành hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm có mức lương cao nhất với bình quân 7,23 triệu đồng/tháng. Điều thú vị là lao động nữ đang làm việc trong hai ngành này được trả lương cao hơn nam giới. Đứng thứ hai là ngành hoạt động chuyên môn, khoa học, công nghệ và hoạt động kinh doanh bất động sản. Những ngành này có mức lương bình quân hàng tháng cao nhất tương ứng là 6,53 triệu đồng và 6,4 triệu đồng.
Trong khi đó, ngành nông, lâm, thủy sản lại có mức lương bình quân tháng thấp nhất (2,63 triệu đồng). Theo một điều tra của Chính phủ,  năm 2014 NSLĐ khu vực công nghiệp của nước ta gấp 4,8 lần so với khu vực nông nghiệp; còn NSLĐ khu vực dịch vụ gấp 3,5 lần so với khu vực nông nghiệp. Các điều tra này cho thấy, lợi nhuận của các doanh nghiệp cũng như giá trị gia tăng mà mỗi lao động đem lại trong ngành tài chính ngân hàng hiện nay cao nhất và thấp nhất chính là các ngành sản xuất nông lâm thủy sản. Vì vậy, nói cho cùng, muốn tăng lương cho người lao động tại các doanh nghiệp, cách duy nhất là làm sao đó để doanh nghiệp làm ăn có lợi nhuận, lợi nhuận càng cao, khả năng trả lương cho người lao động càng cao lên.
Những hạn chế của các doanh nghiệp Việt Nam cũng chính là những cản trở để tăng lương cho người lao động. Trước hết, suất đầu tư thấp. Khi suất đầu tư cho mỗi lao động thấp, chúng ta chỉ có thể chọn những công nghệ lạc hậu, sử dụng nhiều lao động và giá trị gia tăng mỗi lao động làm ra cũng thấp. Năm 2014, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ đóng góp khoảng 18% GDP nhưng chiếm đến 47% tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế. Như vậy làm sao có được mức lương cao? Từ năm 2000 đến 2013, mặc dù khoảng cách về vốn đầu tư toàn xã hội/người lao động của các nước so với Việt Nam đã được thu hẹp đáng kể nhưng mức độ chênh lệch vẫn còn lớn: Nhật Bản từ gấp Việt Nam 76 lần năm 2000 giảm xuống còn 20 lần vào năm 2013; Singapore từ gấp 66 lần giảm xuống còn 22 lần; Hàn Quốc từ gấp hơn 34 lần giảm còn 21 lần; Malaysia từ gấp gần 11 lần giảm còn 6,5 lần; Thái Lan từ gấp 3,5 lần giảm còn gần 3 lần. Như vậy có thể thấy để tăng lương cho người lao động, trước hết phải tăng suất đầu tư, tăng cường sử dụng công nghệ cao, sử dụng ít lao động.
Thứ hai, chính các lao động cần phải nâng cao năng lực lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo của Việt Nam mặc dù tăng dần qua các năm nhưng vẫn còn ở mức thấp: năm 2000 – 16%, năm 2005 – 26,2%, năm 2010 – 40%, năm 2013 ước đạt 49%. Trong khi đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Singapore năm 2013 là 61,5%, Hàn Quốc là 62%. Có thể nói, nếu xét thêm hiệu quả đào tạo nghề quá kém, lao động Việt Nam vẫn có số đông là lao động phổ thông, lấy sức người là chính.
Thêm một lý do nữa đó là kinh nghiệm với thị trường của các doanh nghiệp từ các tập đoàn kinh tế tới các hộ sản xuất kinh doanh quá yếu. Đã nói tới giá trị, cần phải nói rõ, tính giá trị bằng tiền. Nếu giá cả sản phẩm làm ra quá thấp, giá trị gia tăng càng thấp. Đối với ngành nông lâm thủy sản, thu nhập của người lao động vẫn còn thấp và không ổn định, tình trạng được mùa mất giá, được giá mất mùa diễn ra từ hàng chục năm, song các doanh nghiệp không thể chi phối được thị trường đầu vào và đầu ra của sản xuất. Hai thị trường này thiếu tính cạnh tranh, có dấu hiệu thỏa thuận giữa các doanh nghiệp để tăng giá đầu vào và hạ giá đầu ra. Đầu vào giá cao và chất lượng kém vẫn phải mua, đầu ra giá thấp vẫn phải bán đang là hai gọng kìm giữ chặt thu nhập thấp của người lao động ngành nông lâm thủy sản cho dù năng suất sinh học của các cây con đã liên tục tăng trong hơn 20 năm qua với 12 sản phẩm có năng suất sinh học vào loại cao nhất thế giới. Đối với các ngành công nghiệp, việc thua thiệt trên thị trường thế giới đã rõ. Không có gì để bàn. Nâng cao năng lực thị trường của các doanh nghiệp được, nâng cao giá trị hàng hóa Việt Nam được, mới hy vọng tăng được lương cho người lao động.
Theo Phan Đức
Anninhthudo

'Không thể có bạn kiểu nhà tôi là nhà anh'

 - Mâu thuẫn về lợi ích buộc mỗi quốc gia phải đấu tranh bảo vệ lợi ích chính đáng của mình... Không thể có bạn kiểu nhà tôi là nhà anh, của tôi là của anh được - Thủ tướng nói.

Chiều nay, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và đoàn ĐBQH TP Hải Phòng đã tiếp xúc với cử tri huyện An Lão, báo cáo kết quả kỳ họp QH.
Thủ tướng, Nguyễn Tấn Dũng, cử tri, chủ quyền, GDP, lạm phát, tái cơ cấu, cải cách hành chính, thủ tục
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và cử tri huyện An Lão. Ảnh: VGP
Các cử tri đã nêu nhiều kiến nghị liên quan đến nguồn lực thực hiện chương trình nông thôn mới, tái cơ cấu nông nghiệp, dạy nghề và tạo việc làm cho người người lao động nông thôn; đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp, nhất là hàng nông sản, thủy sản, hoa quả; vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế liên quan đến quỹ đất nông nghiệp và việc làm của người nông dân; vấn đề bảo đảm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nhất là chủ quyền trên vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Thay mặt đoàn ĐBQH Hải Phòng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trân trọng tiếp thu các kiến nghị, đề xuất tâm huyết, trách nhiệm của cử tri với những vấn đề lớn của đất nước cũng như những vấn đề sát sườn đến cuộc sống, việc làm, thu nhập của người dân.
Thủ tướng cho biết, năm 2014, bên cạnh những thuận lợi, nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, cả về kinh tế, xã hội, bảo đảm độc lập, chủ quyền biển đảo của đất nước cũng như hậu quả của thiên tai, dịch bệnh.
Những khó khăn, thách thức đó không chỉ đe dọa đến hòa bình, ổn định mà còn đến cả nỗ lực phát triển của đất nước. Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo của TƯ Đảng, sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu toàn diện trên các mặt.
Bên cạnh giữ vững được ổn kinh tế vĩ mô được, kiểm soát được lạm phát, đạt mức tăng trưởng GDP khoảng 5,9%, bảo đảm được an sinh xã hội. Trong năm 2014, đất nước ta cũng giữ vững được ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc; đẩy mạnh hoạt động hội nhập quốc tế, tăng cường công tác đối ngoại, nâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết năm 2015, Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo tiếp tục tăng cường ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát tốt và căn cơ hơn. Tạo mọi thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, phấn đấu tăng trưởng GDP đạt 6,2%.
Cùng với đó, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng; thực hiện 3 đột phát chiến lược, bao gồm hoàn thiện luật pháp, cơ chế, thể chế, chính sách; dành nguồn lực cho đầu tư đồng bộ, hiện đại hệ thống kết cấu hạ tầng; đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực... Bên cạnh đó sẽ tiếp tục tập chung chỉ đạo cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh.
“Không thể vì lý do thủ tục hành chính mà môi trường kinh doanh của Việt Nam thấp hơn các nước ASEAN. Chúng ta hoàn toàn có thể thay đổi được điều này” - Thủ tướng nhấn mạnh.
Cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Chính phủ tiếp tục đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội tốt hơn thông qua việc bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, phát triển y tế, giáo dục, tạo việc làm, giảm nghèo gắn với xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh đó tiếp tục bảo đảm vững chắc quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội; độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Trả lời kiến nghị của cử tri về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc theo tinh thần vừa hợp tác, vừa đấu tranh, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng hợp tác và đấu tranh là 2 mặt trong quan hệ quốc tế thời đại ngày nay để đảm bảo hòa bình, ổn định, phát triển và thịnh vượng cũng như lợi ích chính đáng của mỗi quốc gia.
“Trong thời đại ngày nay, hội nhập, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, cùng thịnh vượng là nhu cầu tất yếu của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, trong quá trình hợp tác, những mâu thuẫn về lợi ích buộc mỗi quốc gia phải đấu tranh để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, trong đó có những phạm trù hết sức thiêng liêng là độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có được hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi và bền vững. Không thể có bạn kiểu nhà tôi là nhà anh, của tôi là của anh được” - Thủ tướng chia sẻ.
PV

Hé lộ "hợp đồng nô lệ" trong showbiz Việt

 - Bản hợp đồng giữa bầu sô và các nghệ sĩ trẻ trong showbiz Việt là cuộc chiến không hồi kết, một khi mối quan hệ của hai bên đi tới chỗ "cơm không lành, canh không ngọt".

Sơn Tùng M-TP tiếp tục gây bão mạng khi liên tục bị dư luận mô xẻ từ câu chuyện đạo beat Chắc ai đó sẽ về đến nghi án tự động phá bỏ hợp đồng với công ty chủ quản VP. Theo sau đó là hàng loạt hội thảo, họp kín, công văn ngăn chặn từ chính người trong cuộc. Phải nói rằng áp lực quá lớn đang phủ xuống đầu một nghệ sĩ trẻ tuổi đôi mươi. Trên trang cá nhân, nam ca sĩ vẫn chứng tỏ được bản lĩnh khi xác nhận show, hẹn hò người hâm mộ với nhiều ý tưởng trình diễn táo bạo, bất chấp scandal đang bủa vây khắp nơi.
showbiz Việt, bầu sô, hợp đồng nô lệ, ca sĩ, PR
 
Sơn Tùng M-TP đang vướng mắc với công ty quản lý cũ.
"Tức nước sẽ vỡ bờ"
Vì đâu một hiện tượng âm nhạc Việt bị mang ra mổ xẻ, ném đá tơi bời? Hợp đồng ca sĩ- quản lý vốn đã lụi tàn kể từ khi trình truyền hình thực tế đổ bộ vào truyền hình Việt, nay tiếp tục lấm lem bởi chính người trong cuộc. Thói quen tìm mọi cách đổ vấy điều tiếng cho nhau thay vì tìm cách "ngồi lại" để tìm giải pháp phù hợp, khiến dư luận dậy sóng.
Có thể nói những ràng buộc hợp đồng ca sĩ với công ty chủ quản, dù có chặt chẽ đến đâu, vẫn dễ dàng bị phá bỏ nếu một trong hai bên bị thua thiệt hay vượt mặt nhau. Trong khi đó, sự phát triển liên tục của các show truyền hình thực tế đã có thể biến các bạn trẻ phút chốc thành sao đồng thời đẩy các công ty chuyên về đào tạo âm nhạc vào thế làm ăn bết bát.
Một số đơn vị đã phá sản, nhưng cũng có một số ít hoạt động cầm chừng, chủ yếu tập trung tại TP.HCM do có sự hậu thuẫn tốt về chuyên môn của các ca - nhạc sĩ nổi tiếng như: TĐ, HT, ĐT, QH, TB. Đây cũng là các nghệ sĩ thường chạy sô làm giám khảo cho các chương trình truyền hình thực tế, phần nào tạo được hiệu quả PR cho công việc.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, hàng loạt công văn ngăn chặn từ đơn vị quản lý của ca sĩ Sơn Tùng MTP đã khiến nhiều ca sĩ trẻ trong giới cảm thấy e ngại. Không chỉ liên quan đến vấn đề pháp lý, bản chất công việc bị xử lý theo đúng cam kết khi bắt đầu, nhiều nghệ sĩ còn cho rằng việc "cơm không lành canh không ngọt" khiến người trong cuộc tung bằng chứng trước truyền thông, gây phản cảm và tạo tiền lệ xấu làm ảnh hưởng đến cả đôi bên.
Thế nhưng, như lời của một ca sĩ thì "tức nước sẽ vỡ bờ". Đây cũng là bài học cho các nghệ sĩ trẻ trước khi đồng ý tham gia đầu quân cho bất cứ công ty nào. Họ cần tuân thủ, suy nghĩ kỹ trước khi đặt bút ký, nếu không muốn gây bão dư luận.
Đụng chuyện mới tá hỏa... nội quy
Trưởng thành từ cuộc thi ca hát chuyên nghiệp, lại được đào tạo bài bản, T.L không khó để được công ty A mời chào đầu quân. Qua vài vòng thảo luận, đại diện đơn vị này chốt lại mô hình góp vốn 50/50, để thay đổi hình ảnh, mẫu bài, thực hiện chiến lược PR cho nam ca sĩ. Thế nhưng với kiểu góp vốn này, được đơn vị đại diện thảo luận lợi nhuận chia đôi là một thiệt thòi. Nên T.L đã quyết định "chỉ làm bạn" sau một thời gian dài cân nhắc.
showbiz Việt, bầu sô, hợp đồng nô lệ, ca sĩ, PR
T.L từng từ chối hợp tác với công ty quản lý N vì cảm thấy hợp đồng quá khắc nghiệt.
Tuy nhiên, vẫn có trường hợp do nóng vội, gia đình ca sĩ trẻ CK đã quyết định kí vào hợp đồng với công ty chủ quản Q. Khi trở thành người nhà, giọng ca trẻ xuất thân từ chương trình ca hát trên HTV này mới té ngửa bởi hàng tá điều khoản nghiêm ngặt. Theo như người trong cuộc việc họ siết nội quy đến mức độ nào tuỳ theo độ nghe lời của nghệ sĩ.
Đã có trường hợp, nghệ sĩ phải biến mất khỏi showbiz vì vướng cam kết với đơn vị chủ quản, bị đơn vị chủ quản 'trừng phạt' do nghi án bắt show ngoài, đành phải ở ẩn. Tuy nhiên, không phải ở ẩn là yên thân. Nhiều nghệ sĩ trẻ vẫn phải đến công ty mỗi ngày theo thời gian quy định. Ca sĩ K than vãn phải đến công ty mỗi ngày, sự nghiệp thì bị gián đoạn nhưng lỡ vướng hợp đồng nên đành chấp nhận.
K cho biết việc bị công ty "dìm" đã kéo dài lâu nay nhưng vẫn không có phương án gỡ bỏ. Đến công ty ngồi đến lúc hết hợp đồng mới thôi là một sự trừng phạt đáng sợ với những nghệ sĩ trẻ. 
Đinh Quý Anh

Tiêu tốn gần 10 tỷ đồng, dự án vẫn trên giấy

BTTD: Đau xót lắm thay !

Sau nhiều năm triển khai, dự án đập dâng hạ lưu sông Trà Khúc đã tiêu hết gần 10 tỷ đồng, nhưng công trình vẫn còn trên giấy. 
Tại phiên chất vấn kỳ họp thứ 14, HĐND tỉnh Quảng Ngãi ngày 12/12, dự án đập dâng hạ lưu sông Trà Khúc được đại biểu đặc biệt quan tâm. Ông Nguyễn Duy Nhân, Giám đốc Sở Lao động đặt câu hỏi: "Vì sao dự án có tính khả thi chưa cao mà Tỉnh cứ phê duyệt, cho khởi công vội vàng rồi để mãi không làm". 
Sau khi nêu vấn đề công trình đập dâng tiêu tốn hết gần 10 tỷ đồng và chậm tiến độ, Chủ tịch HĐND tỉnh Trần Ngọc Căng thẳng thắn hỏi: "Ai là người phải chịu trách nhiệm. Cần xác định rõ trách nhiệm, xử lý cá nhân liên quan đến khâu chuẩn bị đầu tư". Rút kinh nghiệm từ dự án này, ông Căng đề nghị thời gian tới UBND tỉnh cần đánh giá lại quy trình đầu tư, nhất là các công trình trọng điểm, tránh gây thất thoát, lãng phí.
12-12-Anh-1-Song-Tra-4137-1418392161.jpg
Hàng chục nghìn hộ dân Quảng Ngãi lo ngại cuộc sống bị xáo trộn lớn khi đập dâng hạ lưu sông Trà Khúc xây dựng. Ảnh: Trí Tín.
Trả lời đại biểu, ông Dương Văn Tô, Giám đốc Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn cho rằng, nguyên nhân dừng dự án là tổng mức đầu tư lớn, kỹ thuật phức tạp, Tỉnh chưa quyết định phê duyệt điều chỉnh, bổ sung vốn.
Thừa nhận khuyết điểm với cử tri và đại biểu, ông Lê Viết Chữ, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi giải thích thêm, sở dĩ có tình trạng trên là do đơn vị tư vấn kém trong quản lý, năng lực kinh nghiệm. "Công trình khởi công nhưng sau đó vướng Nghị quyết 11 về chính sách đầu tư, khó khăn về mặt tài chính và còn nhiều phân vân về kỹ thuật nên dừng", ông Chữ nói. 
Theo Chủ tịch tỉnh, sau phiên chất vấn này, UBND tỉnh sẽ trình Ban Thường vụ Tỉnh ủy cho dừng dự án với các lý do: Không có nguồn vốn, yếu tố kỹ thuật chưa cho phép. Mặt khác, trong cuộc họp ngày 27/9 vừa qua, Thủ tướng đã đồng ý cho phép tỉnh nghiên cứu nạo vét, chỉnh trị lòng sông và đầu tư hạ tầng hai bên bờ theo hình thức BT (đầu tư - chuyển giao). Về mặt xử lý kỹ thuật, UBND tỉnh sẽ đề xuất thuê chuyên gia, tư vấn nước ngoài giàu kinh nghiệm về chỉnh trị dòng sông, tính toán kỹ khi nào ổn định mới cho triển khai. 
Công trình đập dâng hạ lưu sông Trà Khúc (Quảng Ngãi) do Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Quảng Ngãi làm chủ đầu tư vào năm 2002. Mục tiêu của dự án là tạo mực nước dâng hợp lý cho đoạn sông Trà Khúc đi qua thành phố nhằm mang lại cảnh quan phục vụ du lịch và ngăn xâm nhập mặn vào mùa khô hạn…
Tháng 4/2004, dự án lại được duyệt hơn 60 tỷ đồng với thân đập làm bằng cao su. Năm 2009, dự án được xác định là công trình trọng điểm của tỉnh và điều chỉnh thành đập bê tông với tổng vốn hơn 225 tỷ đồng. Tháng 9/2010, công trình khởi công rầm rộ thế nhưng sau đó tiếp tục điều chỉnh bổ sung, nâng cấp. Chủ đầu tư thuê tư vấn lập lại thiết kế, đến nay công trình đã tăng vốn lên gần 450 tỷ đồng. 
Các chuyên gia về đập, thủy lợi phân tích, nếu đập dâng hạ lưu sông Trà Khúc chỉ đơn thuần làm nhiệm vụ đập ngăn nước để tạo cảnh quan môi trường cho TP Quảng Ngãi thì khó đem lại hiệu quả kinh tế. Việc xây đập dâng ngăn nước trên một dòng sông thông thường gắn với nhiệm vụ giao thông, làm cầu nối hai bên bờ sông, tạo thuận tiện cho người dân khi đi lại. Còn vấn đề ngăn xâm nhập mặn vào mùa khô, nếu có thì đập dâng này chỉ có thể giảm xâm nhập mặn cho sông từ thân đập trở lên, còn phía hạ lưu của đập khó giải quyết được.
                                                                                                                     Trí Tín

Thiết bị y tế: Ruột Tàu lại gắn mác Tây

Thiết bị y tế: Ruột Tàu lại gắn mác Tây

Công tác quản lý mua sắm, nhập khẩu thiết bị y tế ở nước ta hết sức lỏng lẻo. Nhiều thiết bị không đảm bảo nhưng vẫn được sử dụng.

Trao đổi với chúng tôi về công tác kiểm định trang thiết bị y tế, các đại biểu Quốc hội và chuyên gia đều cho rằng đang có những kẽ hở cần nhanh chóng khắc phục. Bởi điều này liên quan đến tính mạng, sức khỏe con người.
Bà Bùi Thị An, Ủy viên Ủy ban KH, CN&MT của Quốc hội:
Cần thanh tra tổng thể trang thiết bị y tế
Trong nhiều năm qua công tác quản lý mua sắm, nhập khẩu thiết bị y tế ở nước ta hết sức lỏng lẻo. Nhiều thiết bị không đảm bảo nhưng vẫn được sử dụng. Chưa kể có nhiều máy móc “ruột Tàu, nhưng lại gắn mác Tây”; hết hạn sử dụng nhưng lại được tân trang, chỉnh sửa làm mới.
Thiết bị y tế: Ruột Tàu lại gắn mác Tây (1)
Tất cả những cái đó là hết sức nguy hại. Bởi đã là thiết bị y tế thì kể cả những cái rất nhỏ như đo nhiệt kế, huyết áp, xi lanh cũng đều có thể gây nguy hại đến sức khỏe, tính mạng của con người… Đơn cử như khi nhiệt kế chất lượng không đảm bảo, báo từ không sốt thành có sốt, dẫn đến người dân phải uống thuốc. Hậu quả là người dân đang từ không ốm lại trở thành ốm.
Do đó, đã là thiết bị y tế thì đòi hỏi phải đạt chuẩn, phải được kiểm định rõ ràng của các cơ quan nhà nước. Có đủ điều kiện đạt chuẩn và được cấp phép thì mới được đưa vào hoạt động phục vụ việc khám chữa bệnh.
Ngoài ra cần có các quy định chặt chẽ về việc nhập khẩu trang thiết bị y tế. Khi nhập về thì phải xem xuất xứ, nguồn gốc có rõ ràng hay không. Sau đó nhập rồi thì phải tiến hành kiểm định xem nó có đúng, có đạt chuẩn hay không. Nếu không đạt chuẩn thì phải loại bỏ. Chúng ta cứ để mập mờ như hiện nay là rất nguy hại đến tính mạng, cũng như sức khỏe của người dân.
Tôi đề nghị Bộ Y tế cần tiến hành kiểm tra tổng thể các trang thiết bị y tế ở các bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh hiện nay để xem thực trạng thế nào. Đối với những thiết bị không đảm bảo, không có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng cần phải thay thế và loại bỏ.
TS Trần Tuấn, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo phát triển cộng đồng:
Không loại trừ chuyện lợi ích
Thiết bị y tế: Ruột Tàu lại gắn mác Tây (2)
Để xảy ra những bất cập, tiêu cực về trang thiết bị y tế như thời gian qua là có trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và không loại trừ có câu chuyện lợi ích. Đến một cái cân dùng để cân hàng hóa ở chợ chúng ta còn yêu cầu phải kiểm định thì cớ gì những trang thiết bị y tế quan trọng, có liên quan trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của con người lại không bắt buộc kiểm định. 

Đã đến lúc cần phải có những quy định quản lý chặt chẽ về trang thiết bị y tế. Ngoài việc bắt buộc phải kiểm định thì cũng cần phải xây dựng một cơ chế giám sát chặt chẽ của các tổ chức, xã hội và cộng đồng đối với hệ thống trang thiết bị y tế của bệnh viện. Vì nếu chỉ một mình Bộ Y tế giám sát, kiểm tra, đánh giá chất lượng của thiết bị thôi là chưa đủ, chưa bảo đảm khách quan. 

Còn nếu giao cho các bệnh viện kiểm tra chéo với nhau thì cũng chẳng thể bảo đảm được sự độc lập vì tâm lý “trong nhà đóng cửa bảo nhau”. Do đó, cần phải có những quy định cho phép các tổ chức, xã hội được quyền giám sát độc lập trang thiết bị y tế ở các cơ sở khám chữa bệnh.
Ngoài ra để hạn chế tình trạng các bệnh viện thiếu tin tưởng vào kết quả của nhau, bắt người dân phải xét nghiệm đi, xét nghiệm lại, tốn rất nhiều tiền, thì cần xây dựng trung tâm xét nghiệm chung. Khi đó, các bệnh viện có thể sử dụng kết quả xét nghiệm của nhau để tạo thuận lợi và tiện ích cho bệnh nhân.
Ông Nguyễn Văn Tiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của QH:
Khó kiểm định tất cả thiết bị y tế nhập khẩu
Thiết bị y tế: Ruột Tàu lại gắn mác Tây (3)
Trao đổi với chúng tôi ngày 12/12, ông Nguyễn Văn Tiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, nói rằng, việc quy định kiểm định thiết bị y tế nhập khẩu là một vấn đề cần thiết. Tuy nhiên, ông Tiên cho rằng, khó có thể quy định tất cả các thiết bị y tế khi nhập khẩu vào trong nước bắt buộc phải kiểm định, vì không đủ nhân lực, vật lực. 

Theo ông Tiên, có những thiết bị không cần thiết phải kiểm định khi nhập khẩu như dao, kéo…; chỉ những thiết bị, máy móc quan trọng thuộc nhóm A liên quan trực tiếp sức khỏe, tính mạng con người như: máy chụp chiếu, cộng hưởng từ, X-quang… mới bắt buộc phải kiểm định khi nhập khẩu. “Những máy móc đó rất quan trọng, có thể gây thiệt mạng con người nên đòi hỏi phải kiểm định chặt chẽ, rõ ràng. Nếu không kiểm định, dẫn đến nhập khẩu thiết bị không rõ ràng, chất lượng không tốt sẽ gây nguy hiểm, ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của bệnh nhân”, ông Tiên nói.
Về ý kiến cho rằng, do nghi ngờ chất lượng thiết bị y tế nên các bệnh viện thường không chấp nhận kết quả xét nghiệm của nhau, làm người dân tốn nhiều tiền để xét nghiệm lại, ông Tiên nói rằng, điều đó là có. Tuy nhiên, đó chỉ là một phần nguyên nhân, còn thực tế nhiều khi bệnh hôm nay có thể thế này, mai có thể khác đi. Do đó, có chụp chiếu lại thì mới có thể biết được diễn biến của bệnh, ông nói.
Để khắc phục những bất cập trên, ông Tiên cho hay, Bộ Y tế đang dự thảo nghị định về quản lý trang thiết bị y tế, trong đó dự kiến đề cập các quy định về kiểm định trang thiết bị y tế khi nhập khẩu. Sau khi Bộ Y tế trình và Chính phủ đồng ý, sẽ trình để Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến. “Sau khi Chính phủ trình sang, Ủy ban Các vấn đề xã hội sẽ thảo luận, thẩm tra và báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đây là một vấn đề lớn nên sẽ phải thảo luận kỹ lưỡng”, ông Tiên nói.
Trước đó, Bộ KH&CN thanh tra, phát hiện nhiều thiết bị y tế quan trọng như: máy đo điện tim, máy đo điện não, nhiệt kế, huyết áp kế có nhiều sai số vượt mức cho phép. Những thiết bị này không đủ điều kiện về đo lường, nhưng vẫn được sử dụng để khám chữa bệnh.
Điều này cho thấy việc kiểm soát chất lượng đầu vào một số sản phẩm y tế của cơ quan chủ quản y tế chưa chặt chẽ, dẫn đến việc phân phối, trang bị cho các đơn vị y tế trực thuộc chưa được kiểm tra, kiểm soát về chất lượng.
Theo Văn Kiên
Tiền Phong