Trang

15 tháng 6, 2014

Vì sao đại biểu hỏi thẳng, bộ trưởng trả lời loanh quanh?

TT - Phần trả lời chất vấn của các bộ trưởng tại kỳ họp Quốc hội lần này đã để lại dư âm không tốt, dư luận cho rằng chất lượng trả lời chất vấn ngày càng đi xuống.

GS Nguyễn Minh Thuyết
GS NGUYỄN MINH THUYẾT (nguyên phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội):
Hoạt động chất vấn sẽ mất sức hút
Là một cử tri theo dõi các phiên chất vấn vừa qua ở Quốc hội, cá nhân tôi thấy rất không hài lòng, nói nôm na theo ngôn ngữ bình dân thì các bộ trưởng trả lời rất chán. Tôi thấy các đại biểu Quốc hội đã nêu rất nhiều câu hỏi nóng hổi, bức xúc của cuộc sống. Đó là những câu hỏi mà chính người dân muốn đặt ra cho các vị bộ trưởng, các thành viên Chính phủ. Nhiều vị đại biểu Quốc hội đã nắm rất chắc vấn đề, chuẩn bị kỹ nội dung, đặt ra nhiều chất vấn sắc sảo. Nhưng đáng buồn là hầu hết bộ trưởng đều phúc đáp như đang trả lời cho những người không biết gì, cứ nói lấy được mà thôi.
Trước Quốc hội không thể nói cho qua chuyện
Ông bộ trưởng Bộ Tài chính thì rất chậm rãi, nói những chuyện ai cũng biết rồi, nhưng có những nội dung quan trọng lại trả lời không đúng. Ví dụ như vấn đề nợ công, ông bộ trưởng đáp rằng vẫn an toàn, nhưng sau đó chính chủ tịch Quốc hội khẳng định nợ công đã đe dọa an ninh tài chính quốc gia. Tôi nghĩ bộ trưởng đứng trước Quốc hội không thể nói không đúng, không thể né vấn đề, bởi đại biểu Quốc hội là đại diện cho dân quyết định nhiều vấn đề hệ trọng của quốc gia, người ta cần biết sự thật. Bộ trưởng không thể nói với đại biểu Quốc hội theo kiểu “đánh trâu qua rào” được.
Với ông bộ trưởng Bộ Giáo dục - đào tạo, điều đại biểu và cử tri mong muốn là nếu bộ trưởng sai, hoặc là thuộc cấp sai thì trước Quốc hội, bộ trưởng nên mạnh dạn nhận sai. Đằng này ông lại nói con số 34.000 tỉ đồng là của chuyên viên cấp vụ, rồi anh em bị khớp nên nói thế. Ông quên mất rằng cách đây vài năm Bộ Giáo dục - đào tạo từng đưa ra một dự án 70.000 tỉ đồng, dư luận từng ầm ĩ. Thế thì đây là một nửa của 70.000 tỉ đồng, vì chưa có kinh phí phần cơ sở vật chất trường học mà thôi. Đấy chắc chắn không phải là con số từ trên trời rơi xuống. Hơn nữa, sau khi trình bày tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bộ còn tổ chức họp báo để giải thích con số này. Vậy thì làm gì có chuyện đó là con số ngẫu hứng của ai đó đưa ra. Bộ trưởng không nên giải thích trước Quốc hội giống như nói cho qua chuyện với học sinh lớp 1, lớp 2 như thế.
Đến bộ trưởng Bộ Tư pháp thì đại biểu hỏi rất rõ là có cài cắm lợi ích nhóm trong việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật không? Nhưng bộ trưởng lại trả lời rằng chưa có vấn đề gì đặt ra. Trả lời như vậy rất khó chấp nhận, và ngay sau đó đại biểu đã nói rằng vậy những chuyện cài đặt bộ máy, rồi quỹ này quỹ nọ là cái gì? Thực tế nó đầy ra đấy, đại biểu Quốc hội lịch sự hỏi như vậy chứ không phải người ta không biết. Vì vậy, bộ trưởng không nên trả lời loanh quanh.
Còn tổng thanh tra Chính phủ khi đại biểu chất vấn về chuyện tài sản của quan chức, thì ông ấy luôn lấy Ban Bí thư ra làm mộc đỡ.
Thú thật là tôi thất vọng bởi cách trả lời vòng vo, loanh quanh của các bộ trưởng tại kỳ họp này. Thậm chí có những vị không hiểu được câu hỏi của đại biểu Quốc hội, cho dù chủ tịch Quốc hội đã phải nhắc và giải thích lại. Các bộ trưởng cũng thiếu sự thẳng thắn, thậm chí có những vấn đề đã trả lời không trung thực, không nhìn nhận đúng khuyết điểm của mình. “Câu giờ” cũng là đặc điểm chung trong cách trả lời của các vị bộ trưởng.
Có sự nương nhẹ, ưu ái
Để khắc phục tình trạng này, trước hết là ở cách chọn người trả lời chất vấn. Phiên chất vấn phải diễn ra với những người đứng trên bục trả lời là những vị bộ trưởng mà lĩnh vực họ quản lý đang là điểm nóng, cử tri đang đòi hỏi họ phải giải trình. Nhìn về tổng thể kỳ họp này, người dân không hài lòng vì có những bộ trưởng đáng lẽ phải trả lời chất vấn vì lĩnh vực quản lý của vị bộ trưởng ấy đang có quá nhiều vấn đề bức xúc, nhưng vị bộ trưởng ấy lại “trốn” trả lời chất vấn. Tôi lấy ví dụ như Bộ Y tế, bao nhiêu chuyện nước sôi lửa bỏng như vậy, hơn một trăm trẻ em chết vì bệnh sởi, rất nhiều câu hỏi được đặt ra đòi hỏi người đứng đầu Bộ Y tế phải trả lời trước Quốc hội. Không thể có chuyện một dịch sởi làm chết nhiều người như vậy mà không ai bị làm sao cả, tất cả đều bình an vô sự.
Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến có trả lời ghép với phần của bộ trưởng Bộ Tài chính về giá thuốc, nhưng tôi nghĩ trả lời như vậy cũng không đạt yêu cầu. Trên thực tế người dân thấy giá thuốc lên cao, trong khi Luật dược đặt ra trách nhiệm quản lý nhà nước về giá thuốc thuộc Bộ Y tế, nhưng qua trả lời thì không thấy ai chịu trách nhiệm về vấn đề này cả. Sự sắp xếp người ra trả lời chất vấn trước Quốc hội của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ chưa thật sự chuẩn, vẫn có một sự nương nhẹ, ưu ái cho ai đó.
Theo tôi, để đi đến cùng một vấn đề sau phiên chất vấn, Quốc hội phải ban hành nghị quyết và nghị quyết ấy phải xác định rõ trách nhiệm, giải pháp được Quốc hội yêu cầu chứ không phụ thuộc vào ý chí của người trả lời chất vấn. Một số nghị quyết ban hành sau các phiên chất vấn trước đây vẫn nặng tính tường thuật phiên chất vấn là chính mà thiếu đi sức sống, sức đột phá của nó. Một nghị quyết đảm bảo tính khả thi là nghị quyết phải đánh giá được bộ trưởng ấy, ngành ấy có những vấn đề gì, trách nhiệm thuộc về ai, giải pháp thế nào, lời hứa của bộ trưởng ra sao, thời điểm nào phải thực hiện... Làm được như vậy mới đẩy được hoạt động chất vấn đến gần cái đích đặt ra.
LÊ KIÊN thực hiện
Đại biểu NGUYỄN SỸ CƯƠNG (ủy viên thường trực Ủy ban Pháp luật của Quốc hội):
Cơ quan ngôn luận của Bộ Y tế xúc phạm đại biểu Quốc hội
Ảnh: V.D
Sau khi tôi chất vấn bộ trưởng Bộ Tài chính và bộ trưởng Bộ Y tế về giá thuốc thì trên báo Sức Khỏe Và Đời Sống xuất hiện bài trả lời phỏng vấn của ông cục trưởng Cục Quản lý dược, trong đó nói rằng đại biểu Quốc hội chất vấn và nhận định không mang tính xây dựng. Tôi đã có văn bản gửi trực tiếp đến bộ trưởng Bộ Y tế về việc này, bởi đây là phát ngôn của một người có trách nhiệm của Bộ Y tế đăng tải trên cơ quan ngôn luận của bộ này.
Quyền chất vấn là quyền của đại biểu Quốc hội được luật định. Tôi nghĩ trong câu chất vấn có thể đại biểu chưa hiểu hết vấn đề, và cũng vì chưa hiểu hết vấn đề nên đại biểu mới phải chất vấn để làm rõ. Thắc mắc, nghi vấn của đại biểu Quốc hội cũng chính là thắc mắc, nghi vấn của cử tri đòi hỏi bộ trưởng phải giải đáp. Đại biểu chất vấn cũng với mục đích làm cho công tác quản lý nhà nước tốt hơn chứ không phải là để triệt hạ bộ trưởng. Tranh luận giữa đại biểu và các thành viên Chính phủ là rất bình thường. Hơn nữa, tôi không có bất cứ lời lẽ hay sự thể hiện thái độ nào để nói rằng tôi coi thường, xúc phạm bộ trưởng Bộ Y tế trước Quốc hội. Tôi chờ đợi giải thích rõ ràng của Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến về sự việc này, bởi chính bộ trưởng cũng là một đại biểu Quốc hội.
Đại biểu TRẦN NGỌC VINH (phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hải Phòng):
Chưa có trao đi đổi lại quyết liệt
Ảnh: V.Dũng
Với lĩnh vực giáo dục - đào tạo đang tồn tại rất nhiều bức xúc, được cử tri quan tâm, đòi hỏi Bộ trưởng Phạm Vũ Luận phải đưa ra những giải thích xác đáng. Chẳng hạn như tình trạng hàng chục nghìn cử nhân, thạc sĩ tốt nghiệp không có việc làm. Đây là một thực tế rất bức xúc, các bậc phụ huynh ở nông thôn để nuôi con ăn học rất vất vả, bán từng con gà, mớ thóc cho con cái học hành, nhưng ra trường thì lại bơ vơ không tìm được việc. Vậy mà bộ trưởng, với tư cách người đứng đầu ngành giáo dục - đào tạo, lại trả lời rằng đó là một thực tế khách quan. Rồi chuyện 34.000 tỉ đồng mà các đại biểu đã đề cập, nghe cách bộ trưởng trả lời rất vô lý. Hay như bộ trưởng Bộ Tài chính khi trả lời lại nói “đây là vấn đề tế nhị”. Tại sao ở giữa Quốc hội lại có vấn đề tế nhị không nói được? Tại sao tình trạng nợ công đại biểu lo lắng như vậy, dư luận đặt ra nhiều vấn đề, các chuyên gia cảnh báo, chủ tịch Quốc hội kết luận như vậy mà bộ trưởng trả lời cứ như chưa có chuyện gì cả?
Với những cách trả lời như vậy, đại biểu Quốc hội rất băn khoăn, phân tâm suy nghĩ. Hơn nữa, thời gian trả lời chất vấn ngắn, mỗi vị đại biểu bị giới hạn số lượng, nội dung câu hỏi nên đã không có sự trao đi đổi lại thật sự quyết liệt, nhiều vấn đề chưa thật sự đi đến cùng.
Đại biểu Quốc hội TRƯƠNG TRỌNG NGHĨA (TP.HCM):
Tôi đã chuyền bóng nhưng bộ trưởng không sút vào gôn
Ảnh: V.Dũng
Trong câu hỏi của tôi không có gì là nhạy cảm, bí mật. Ví dụ tôi hỏi các dự án ODA mà chúng ta làm với Trung Quốc thì tác động thế nào đối với nền kinh tế Việt Nam, chất lượng, hiệu quả của nó thế nào và liệu sắp tới có ảnh hưởng gì không? Các dự án đều công khai, thông qua đấu thầu, có hàng ngàn công nhân... Trung Quốc biết, chúng ta biết thì có gì là bí mật, chỉ có nhân dân là chưa được thông tin thôi.
Tuy nhiên, bộ trưởng Bộ Tài chính lại cho rằng đây là vấn đề nhạy cảm và không công khai trả lời câu hỏi của tôi. Tôi nghĩ rằng câu hỏi đó tôi không nhằm cho cá nhân tôi mà cho đồng bào cử tri, và cũng là một dịp mà Chính phủ thông qua Bộ Tài chính thông tin đến nhân dân, giải thích cho nhân dân. Có thể nói là tôi đã chuyền bóng nhưng bộ trưởng lại không sút vào gôn.

TQ tập trận với Nga để đối phó với người nhái VN

(GDVN) - "Người nhái Việt Nam thường tác chiến với tinh thần sẵn sàng hy sinh. Họ một khi rời khỏi tàu vũ trang hoặc tàu ngầm thì không dự định quay trở lại..."

Cùng với bài viết đánh giá lực lượng đặc công người nhái của Hải quân Việt Nam, tờ "Thời báo Hoàn Cầu" gần đây cũng vừa có bài viết cho rằng, Trung Quốc đã tiến hành diễn tập mọi khoa mục phải "xuất phát từ chiến đấu thực tế", trong cuộc diễn tập "Liên hợp trên biển 2014" giữa Trung-Nga trong tháng 5 vừa qua, hai bên không chỉ tập tấn công-phòng thủ trên biển, trên không liên hợp truyền thống, ứng phó với những tình huống đặc biệt như phòng thủ bãi thả neo, mà còn tập riêng cách thức ứng phó với các cuộc tập kích của người nhái.
Đặc công nước Việt Nam (ảnh tư liệu)
Theo bài báo, "40% tổn thất chiến tranh trên biển trên thế giới xảy ra ở bãi thả neo". Trong diễn tập Trung-Nga, chính ủy tàu hộ vệ tên lửa Liễu Châu số hiệu 573 Type 054A là Trương Lập Tùng cho biết: "Sự kiện Trân Châu Cảng là trường hợp thất bại phòng thủ bãi thả neo điển hình".
Theo lời Trương Lập Tùng, một bình luận viên quân sự của TQ: "Bãi thả neo sở dĩ quan trọng có ít nhất 4 nguyên nhân: Trước hết, bãi thả neo gần đất liền, hạm đội lúc này thường đi đường thẳng, tính cơ động khá kém, dễ bị phục kích. Thứ hai, tàu từ khi nhổ neo đến khi cơ động thường mất ít nhất 20 phút, trong thời gian này tàu chiến tương đối đứng im, hầu như trở thành bia ngắm.
Đặc công nước Việt Nam (ảnh tư liệu)
Thứ ba, khi đối phương dùng tàu nhỏ hoặc người nhái để tấn công thì đây là những mục tiêu quá nhỏ, không dễ sử dụng biện pháp kỹ thuật để phát hiện. Thứ tư, sau khi tàu chiến vào bãi thả neo, độ cảnh giác của binh sĩ kém nhất, điều này giống với đạo lý lực lượng lỏng lẻo nhất khi ra lệnh thu binh thời cổ đại".
Báo của TQ cho biết: "Tối ngày 22 tháng 5/2014, sau khi hạ đạt mệnh lệnh diễn tập phòng thủ bãi thả neo, vài nhóm nhỏ tác chiến đặc biệt trên tàu hộ vệ Liễu Châu đã chạy đến các vị trí chiến đấu.
Từ khi có tiếng cảnh báo chiến đấu đến khi vào vị trí chiến đấu, thời gian không hơn 1 phút. Các nhóm nhỏ tác chiến đặc biệt được trang bị súng ngắm, thiết bị nhìn đêm hồng ngoại và dụng cụ truyền tin bảo mật, nắm bắt cẩn thận bất cứ dấu hiệu áp sát nào của người nhái và bảo đảm "bắn chết" trong thời gian đầu tiên.
Trương Lập Tùng cho rằng: "Nhóm nhỏ tác chiến đặc biệt chỉ là một trong nhiều thủ đoạn để phòng thủ bãi thả neo". "Toàn bộ phòng thủ là lập thể, toàn phương vị, chẳng hạn nói cấp cảnh giới hạm đội ở trạng thái phòng thủ bãi thả neo thậm chí cao hơn quá trình hành quân; các biện pháp phòng thủ trên bờ biển và trên không sẽ tìm kiếm tàu ngầm tầm xa để cảnh giác phóng thích người nhái; xung quanh bãi thả neo sẽ vẽ ra ranh giới đỏ, không cho phép bất cứ tàu thuyền bên ngoài nào đến gần, bởi vì tàu cá vũ trang một số nước rất giỏi dựa vào đó để tập kích hoặc đến gần thả người nhái".
Đặc công nước Việt Nam (ảnh tư liệu)
Bài báo dẫn lời một chuyên gia hải quân giấu tên cho rằng, trang bị kỹ thuật của người nhái Mỹ tốt nhất, còn người nhái Việt Nam lại là nhân viên vũ trang có cường độ huấn luyện lớn nhất, ý chí kiên định nhất trong các nước Đông Nam Á:
"Người nhái Việt Nam thường tác chiến với tinh thần sẵn sàng hy sinh. Họ một khi rời khỏi tàu vũ trang hoặc tàu ngầm thì không dự định quay trở lại những phương tiện này, hoặc là hy sinh hoặc luồn sâu tác chiến độc lập sau lưng địch".
Vì vậy, đối phó với các cuộc tập kích, tấn công của người nhái không thể chỉ dựa vào nhóm nhỏ bắn tác chiến đặc biệt trên tàu, "quyết không cho phép tàu cá vũ trang vượt qua ranh giới đỏ của bãi thả neo, phải tiêu diệt trước khi vượt qua. Ngoài ra, dùng bom gây chấn động đối phó với người nhái sẽ có hiệu quả hơn".
 VIỆT DŨNG

Chuyện một người Đan Mạch xây cầu tại VN rồi trắng tay

(Đời sống) - Câu chuyện về đôi vợ chồng người Đan Mạch bỏ tiền xây cầu treo ở Việt Nam nhưng rồi bị lừa trắng tay đang được truyền tải trên mạng xã hội.
Họ là đôi vợ chồng già, chồng người Đan Mạch – vợ người Việt (cặp vợ chồng Kurt Lender Jensen - Ngọc Nhung (Sang)) đã đổ hết tâm sức xây được 24 cây cầu treo và 5 trường học tại những vùng nông thôn nghèo của Việt Nam. Thế nhưng, cuộc đời họ lại không gặp suôn sẻ ngay trên chính mảnh đất mà họ yêu quý, thậm chí họ còn bị người Việt lừa trắng tay, giờ phải sống trong một ngôi nhà xây tạm bợ. Nhiều người không biết tới họ nhưng vẫn đi qua những cây cầu họ đã xây...
Bài viết được facebooker Tung Xich Lo chia sẻ trên mạng xã hội và nhanh chóng nhận được rất nhiều chia sẻ. Câu chuyện về những con người, dù không mang dòng máu Việt nhưng vẫn nhiệt tâm với nước Việt.
Ông Kurt trên mảnh đất sa mạc gần QL1
Ông Kurt trên mảnh đất sa mạc gần QL1
"Lần đầu tiên, tôi gặp ông Kurt và bà Nhung là qua sự hướng dẫn của ông anh tôi khi anh giới thiệu về họ: “Cặp vợ chồng này có chung 1 trái tim tốt”, Tùng nên đến thăm họ. Trong nhiều năm qua, tại Đan Mạch, ông Kurt và bà Nhung đã được nhiều người dân Đan Mạch biết đến khi họ khởi đầu xây một cây cầu treo tại khu vực trồng cà phê, thuộc Bảo Lộc, Lâm Đồng bằng chính công sức và sự cần cù của họ.
Tác giả bài viết - Tùng Xích Lô - người đã từng đạp xe xích lô xuyên Việt bên cạnh ông bà Kurt - Sang
Tác giả bài viết - Tùng Xích Lô - người đã từng đạp xe xích lô xuyên Việt bên cạnh ông bà Kurt - Sang
Hành trình xây cầu chỉ bằng sự trợ giúp
Theo lời ông Kurt kể lại cho tôi, chyện xây cầu xuất phát từ một lần về thăm quê hương vợ, có người nhờ ông gắn giúp lại vài tấm ván cho chiếc cầu treo. Thoạt đầu nhìn chiếc cầu cũ kỹ, ông đã thốt lên rằng ông hoàn toàn có khả năng làm một cây cầu treo mới, còn chiếc cầu cũ như hiện tại thì vô phương sữa chữa. Lúc ấy ông nghĩ chắc mọi người đều nghĩ “ông ta nói phét lác”. Nhưng ông Kurt đã bắt tay vào làm đúng như lời nói của mình.
Trở lại Đan Mạch, ông đã tích cực liên lạc với nhiều chuyên gia để xin vật liệu xây cầu. Công ty đầu tiên nhận giúp đỡ là một công ty sản xuất dây cáp, họ đã trả lời ngay lập tức rằng sẵn sàng trợ giúp mớ dây cáp ông cần dùng. Nhưng cáp của họ lại bọc nhôm, không có sự co giãn, e là không thích hợp cho việc làm cầu treo. Cùng lúc đó, ông lại được một người bạn thân cung cấp cho ông một thông tin quan trọng: Hệ dây cáp căng giữa các tuyến cao tốc của Đan Mạch đang được tháo bỏ vì quá nguy hiểm. Thế là ông Kurt bắt tay liên lạc với sở đường bộ. Họ kết nối ông với một công ty đang thi công tháo gỡ của Đức. Công ty này đã không ngần ngại cho ông lấy những gì ông muốn.
Tuy nhiên, để cuộn những sợi dây cáp lại, ông phải liên lạc với một cơ sở điện lực tại địa phương. Sau khi nghe ông Kurt trình bày, công ty này vui vẻ chở những ống cuộn dây điện trống, đến thẳng đường cao tốc, nơi họ đang tháo gỡ dây. Để cho đôi vợ chồng Kurt - Nhung tự lăn dây cáp vào ống cuộn.
Cũng trong thời gian đó, ông Kurt tiến hành làm thử một chiếc cầu mẫu trong khu vườn của nhà mình. Ông cũng liên lạc với một công ty lớn của Đan Mạch, chuyên về ngành xây cầu có tên là Carl Bro và nhờ họ trợ giúp ông một bản vẽ sơ sài. Nhưng nhờ bản vẽ này, ông Kurt đã nhẩm tính được sẽ cần bao nhiêu mét cáp cho chiếc cầu trong thực tế.
Rồi ông lại tiếp tục nhờ đến một công ty chuyên về kỹ nghệ cung cấp các vật liệu cho ghe đánh cá có tên là Claus Harbo. Họ cũng rất ân cần giúp ông số trang thiết bị xiết dây cáp… mà ông cần dùng. Ngoài ra, Câu lạc bộ thể thao Lions Club đã hỗ trợ thêm một máy phát điện và máy trộn bê tông cho công việc xây cầu của ông. Không dừng tại đây, ông xin tiếp được một số lượng sơn để bảo trì dây cáp của công ty Sadolin.
Cuối cùng ông liên lạc với hãng vận chuyển tàu Maersk mạnh nhất thế giới và đã được phép nói chuyện trực tiếp với tổng giám đốc, A. P. Muller. Tuy các tàu bè của hãng này không cập cảng Việt Nam, nhưng ông tổng giám đốc cũng vui lòng giúp ông Kurt chuyển số hàng ấy về Singapore, rồi nhờ các hãng khác chuyển tiếp số hàng trên về Việt Nam.
Coi như các công việc tại Đan Mạch tiến triển quá tốt. Tuy nhiên, khi số hàng trên về tới cảng Sài Gòn lại gặp vấn đề lớn nhất mà không nhận được sự trợ giúp nào khi phải chi tiền, thì hàng mới ra khỏi cổng. Ông Kurt đã phải thương lượng rằng cho ông lấy số hàng trước, còn tiền thì chiều ông mới đích thân đến nhà chủ kho để trả, nhưng đó chỉ là giải pháp tình thế để ông Kurt đối phó với những “nhũng nhiễu” thường nhật ở Việt Nam, bởi ông lấy đâu ra tiền để trả cho chủ kho, khiến ông phải… nói phét như vậy.
Khi nguyên vật liệu đã có mặt tại Việt Nam, lãnh sự quán Đan Mạch đã trợ giúp bê tông, sắt thép và cây ván, cùng với chi phí vận chuyển.
Thế nhưng, ngày khởi công xây cầu, ông chủ tịch tỉnh Bảo Lộc chỉ điều giúp ông Kurt một đội quân 20 người, trong đó chỉ có một người cầm theo cái xẻng, là công cụ lao động duy nhất. Ông Kurt đã bức xúc với hành động thờ ơ này của chính quyền địa phương và tuyên bố sẽ làm cây cầu tại một địa phương khác nếu sự trợ giúp nhân lực “èo uột” như vậy.
Ngày hôm sau, ông Kurt nhận được một đội quân gấp đôi là 40 người. Với kinh nghiệm của một người thợ hồ, hiểu biết nhìn bản vẽ, ông đóng vai trò chỉ huy và phân chia công việc lớn nhỏ cho thợ, thậm chí chia từng điếu thuốc lá cho thợ. Cô Nhung, vợ ông đóng vai trò thông dịch và chị nuôi cho 40 người nông dân đến giúp việc xây cầu.
Sau 25 ngày, chiếc cầu treo dài 65 mét và ngang 1,2 mét hoàn tất với tổng chi phí là 4.500 USD. Khi chiếc cầu được khánh thành, một bà cụ đòi nắm tay ông Kurt dẫn bà qua cầu. Cụ bà này đã bật khóc vì nỗi vui sướng và tâm sự rằng: “Đã 20 năm nay, tôi chưa bước qua được sang bên này đồi”.
Sau khi hoàn thành cây cầu treo đầu tiên, ông Kurt đã có đủ tư liệu để hoàn tất hồ sơ gửi đến lãnh sự quán của Đan Mạch tại Việt Nam kèm một câu: “Chiếc cầu đã xây xong”. Họ đã trao cho vợ chồng ông đảm nhận những công trình xây dựng trợ giúp sau này. Ông Kurt đã phấn khởi và thốt lên: “Tôi có thể xây thêm cả 10 chiếc cầu nữa, nếu có ai đó thanh toán chi phí”. Vợ chồng ông chấp nhận công việc với điều kiện chỉ nhận lương tương ứng với một người lãnh tiền thất nghiệp tại Đan Mạch. Vì nếu nhận lương cao hơn, coi như chương trình trợ giúp không còn đúng ý nghĩa.
Trong khi đó, Danida - một hội chuyên gia về việc giúp phát triển nông nghiệp tại các vùng nông thôn nghèo trên toàn cầu đã đánh giá cao tính tiết kiệm của chiếc cầu, khi chỉ làm hết 1/4 chi phí so với giá trị thật của nó. 6 năm tiếp theo, cặp vợ chồng này đã hoàn tất 24 cây cầu nằm trong chương trình trợ giúp của chính quyền Đan Mạch. Họ còn tham gia xây luôn cả 5 ngôi trường học.
Nhưng về sau nhiều chương trình trợ giúp, phải trải qua nhiều thủ tục rắc rối. Những khoản tiền trợ giúp không đến nơi cần nhận mà lọt thẳng vào túi những kẻ tham nhũng. Đến lúc này, cặp vợ chồng già tự nhận thấy “cuộc vui” đã kết thúc nên họ muốn rút lui về lại xứ xở Đan Mạch yên tĩnh. Ông Kurt cũng kể rằng, sau mỗi lần khánh thành cầu, vị chủ tịch tỉnh lại vui mừng khai tiệc ăn nhậu, thậm chí đã có lần hỏi ông: “Thủ tục đến Đan Mạch có dễ không?”.
Những sóng gió khó ngờ trên mảnh đất Việt
Tưởng chừng như sau những phần đóng góp công sức cho xã hội, hai vợ chồng già sẽ được hạnh phúc an hưởng tuổi già, thì ngờ đâu Bộ nhập cư Đan Mạch đã bác bỏ đơn xin trở lại sống tại nước này của bà Nhung. Trong khi với khả năng tài chính của mình, ông Kurt không đủ khả năng nuôi vợ.
Sau nhiều năm làm việc tại Việt Nam, thay mặt cho quốc gia Đan Mạch trong trương trình trợ cấp, cặp vợ chồng Đan - Việt này đã xây biết bao nhiêu cái cầu treo, các ngôi trường trong những vùng hẻo lánh
Sau nhiều năm làm việc tại Việt Nam, thay mặt cho quốc gia Đan Mạch trong trương trình trợ cấp, cặp vợ chồng Đan - Việt này đã xây biết bao nhiêu cái cầu treo, các ngôi trường trong những vùng hẻo lánh
Tại Đan Mạch, ông Kurt cũng đang sống bằng đồng lương hưu ít ỏi bởi ông xuất thân từ một gia đình lao động. Từ năm 14 tuổi ông đã rời khỏi nhà và tự đi tìm việc kiếm sống bằng nhiều nghề. Rồi sau đó ông đã làm thủy thủ cho những hãng tàu khách đi khắp toàn cầu. Thời gian tiếp theo, ông trở lại Đan Mạch và làm thợ hồ trong 6 năm. Sau đó ông mua một chiếc ghe đánh cá và trở thành ngư dân. Ngay từ thời ấy, ông đã có những hành động được cho là khác người khi đoàn tàu đánh cá của Đan Mạch thường được sơn màu xanh da trời, còn thuyền của ông Kurt lại được sơn màu đỏ.
Năm 1992, lần đầu tiên ông về Việt Nam chơi cùng với một gia đình Việt Nam ông quen tại Đan Mạch. Trong chuyến đi này, ông đã yêu một người phụ nữ bản xứ, chính là bà Nhung. Sau nhiều lần thư từ và vài lần đi lại giữa Việt Nam – Đan Mạch. Đến mùa thu năm 1994, ông mới bảo lãnh được người vợ mới cưới sang Đan Mạch.
Sau nhiều năm làm việc tại Việt Nam, thay mặt cho quốc gia Đan Mạch trong trương trình trợ cấp, cặp vợ chồng Đan - Việt này đã xây biết bao nhiêu cái cầu treo, các ngôi trường trong những vùng hẻo lánh… Thế nhưng, đến tuổi già, họ chỉ mong có được một mảnh đất nhỏ để hưởng thụ những năm cuối đời tại Việt Nam mà cũng không xong. Họ đã bị cả những người thân, những người gần gũi lừa gạt khiến cặp vợ chồng già phải bán nông trại cà phê tại Bảo Lộc, nơi họ gắn bó hơn 10 năm để tìm nơi yên tĩnh tại một eo biển đẹp.
Lần đầu tiên gặp tôi, họ sống trong một túp lều bằng bạt, dựng tạm bợ tai khu du lịch Bình Tiên, Ninh Thuận. Nơi đây họ đã bị lừa một cú “ngoạn mục” bởi một ngư dân và cả chức trách của địa phương khi “đồng lòng” bán cho họ miếng đất nằm trong quy hoạch của một dự án du lịch.
Vẫn chưa hết, sau chuyến đến thăm của tôi, những con người trên mảnh đất họ yêu quý lại một lần nữa dụ họ mắc mưu, bỏ tiền ra mướn đất đang nằm trong dự án tại Hòa Phú, gần Phan Rí, Bình Thuận. Hơn nửa năm sau, họ được chính quyền địa phương hứa hẹn “đền bù” bằng cách cho mướn một bãi biển đẹp hơn, tại Bãi Dương, Minh Hóa, cũng gần cửa Phan Rí. Tuy nhiên, miếng đất “hứa hẹn” ấy cũng đã từng dùng để lừa một người đàn ông mang quốc tịch Úc khiến anh này mất gần nửa năm theo đuổi vụ “mướn đất” và cũng mất một số tiền kha khá trong túi.
Đến lúc này thì sự chịu đựng của ông Kurt cho những gian xảo, lừa lọc của con người nơi đây cũng đã đến giới hạn, nhưng vì thương người vợ Việt Nam, ông không thể quay lại Đan Mạch mà bỏ vợ lại xứ này. Ông ta quyết định dành dụm số tiền ít ỏi còn lại, để mua được miếng đất sa mạc toàn cát, đầy mồ mả, ngay QL1, gần cây xăng Thắng Lợi, thuộc Chí Công, Bình Thuận.
Năm 1992, lần đầu tiên ông Kurt đến Việt Nam, ông đã yêu một người phụ nữ bản xứ, chính là bà Nhung. Sau nhiều lần thư từ và vài lần đi lại giữa Việt Nam – Đan Mạch. Đến mùa thu năm 1994, ông mới bảo lãnh được người vợ mới cưới sang Đan Mạch.
Năm 1992, lần đầu tiên ông Kurt đến Việt Nam, ông đã yêu một người phụ nữ bản xứ, chính là bà Nhung. Sau nhiều lần thư từ và vài lần đi lại giữa Việt Nam – Đan Mạch. Đến mùa thu năm 1994, ông mới bảo lãnh được người vợ mới cưới sang Đan Mạch.
Vậy mà họ đâu có để đôi vợ chồng già này được yên. Hai ông bà vẫn thường xuyên bị lực lượng chức năng đến xét giấy tờ, hỏi tại sao họ lại thích về Việt Nam ở… Rồi xin tiền đổ xăng, sau vài lần đến nhà ông, thấy có cái máy vi tính của ông Kurt là giá trị trong căn nhà tuềnh toàng cũng lấy luôn mang về cơ quan, rồi xóa luôn hình ảnh các công trình, tài liệu của ông lưu trữ trong đó…
Ông Kurt kể rằng, hàng xóm xung quanh cũng có người tốt, nhưng cũng vẫn có kẻ thích “bắt nạt” hoặc “bành trướng” chủ quyền sang nhà người khác. Mới đây, không hiểu vô tình hay ác ý mà có người đã phá hoại cái giếng nhà ông bằng cách thả dây thun cũ (cắt từ ruột xe đạp) vào trong ống bơm. Thế là ông Kurt phải xây cái giếng mới.
"Ông già và biển cả"
Ông Kurt rất thích trò chuyện tiếng Đan Mạch với tôi. Lâu lâu ông mới có cơ hội bày tỏ sự bức xúc của cuộc sống với một người hiểu được tiếng nước ông. Hai vợ chồng già rất quý hóa khách đến thăm nên rất muốn tôi ở lại. Nhưng vì tôi cũng là thằng ngang bướng với ý nghĩ ngủ một đêm tại nhà bạn bè mà phải đi trình giấy tờ với chính quyền địa phương thì nhiêu khê cho tôi quá. Thôi để tôi đi ngủ bụi và để cho đôi bạn già của tôi ngủ yên giấc.
Hiện nay ông bà Kurt, vẫn kiên trì định cư tại Chí Công. Miếng đất sa mạc và đầy mồ mả này nằm ngay QL1, gần giữa trạm xăng Thắng Lợi và khu đồi quạt gió, thuộc tỉnh Bình Thuận.
Hiện nay ông bà Kurt, vẫn kiên trì định cư tại Chí Công. Miếng đất sa mạc và đầy mồ mả này nằm ngay QL1, gần giữa trạm xăng Thắng Lợi và khu đồi quạt gió, thuộc tỉnh Bình Thuận.
Tôi chỉ thấy buồn là không giúp gì được cho họ. Bạn yêu Việt Nam? vậy bạn đã giúp được gì cho người Việt? công sức bỏ ra liệu đã bằng đôi bạn già này chưa? Họ chính là những người yêu nước Việt, những người có tâm hồn Việt nhưng cũng thật cực nhọc cho họ quá khi muốn yêu, muốn sống an bình cũng không được.
Bạn đọc có thể tới thăm và động viên gia đình ông Kurt gần chùa Cổ Thạch thuộc Liên Hương, Tuy Phong, Bình Thuận.
Ngôi nhà sơ sài của ông bà nằm trên miếng đất sa mạc và mồ mả ngay QL1, gần giữa trạm xăng Thắng Lợi và khu đồi Quạt gió.
Chỉ cần ghé thăm họ, mua giúp cô Ngọc Nhung (0986902470) - vợ ông Kurt lon nước uống và nhìn những gì họ làm là bạn sẽ học hỏi được nhiều điều hay rồi.
Tùng Xích Lô

"Nhà thu nhập thấp" dành cho người giàu

Thu nhập hơn 20 triệu mới được mua nhà thu nhập thấp

Để được xét vay mua nhà thu nhập thấp, người mua vấp phải nghịch ý tréo ngoe là chứng minh thu nhập cao, thậm chí vài chục triệu cho cả 2 vợ chồng mỗi tháng.
Vừa thu nhập thấp, vừa… thu nhập cao!
Vì thuộc đối tượng thu nhập thấp, nên đa số người mua nhà ở xã hội (NƠXH) phải vay vốn ngân hàng (NH), trong đó gói 30.000 tỷ đồng hỗ trợ mua nhà được nhiều người lựa chọn. Sau khi được chủ đầu tư chấp thuận cho mua NƠXH, khâu “thuyết phục” NH cho vay mới thật sự cam go với người mua nhà.
Anh H.T. (P.Hiệp Bình Chánh, Q.Thủ Đức) vừa được chủ đầu tư First Home chấp thuận cho mua căn hộ 48m2. Để hoàn thiện hồ sơ, quan trọng nhất là giấy xác nhận lương nhằm chứng minh anh là người có thu nhập thấp. “Về khoản này thì tôi hoàn toàn đạt chuẩn vì công ty xác nhận lương của tôi ở mức 4,5 triệu đồng/tháng. Đây chỉ là một phần lương được công ty trả qua NH”, anh T. cho hay. Mặc dù đã được chủ đầu tư thông báo anh thuộc diện được mua nhà, song anh T. mới chỉ có khoảng 200 triệu đồng, phải vay NH trên 300 triệu đồng. 
Tuy nhiên, để được NH cho vay, anh T. phải chứng minh thu nhập của hai vợ chồng mỗi tháng trên 12 triệu đồng, trong khi anh chỉ có thể chứng minh phần thu nhập của mình (gần mười triệu đồng/tháng), vì vợ anh kinh doanh tự do. “Tôi đã phải nhờ công ty của một người bạn làm cho vợ một hợp đồng lao động với xác nhận lương 8,5 triệu đồng/tháng. Thế là tôi đủ tiêu chuẩn vay NH”, anh T. tiết lộ. Và, anh T. phải làm hai hồ sơ, một thuộc diện thu nhập thấp để mua nhà, một thuộc diện thu nhập cao để vay vốn NH.
Tương tự, tại dự án HQC Plaza, chúng tôi được nhân viên môi giới hướng dẫn làm giấy xác nhận thu nhập dưới 16 triệu đồng (vì có hai con là người phụ thuộc) để được xét duyệt mua NƠXH. Khi đề cập đến vấn đề vay gói 30.000 tỷ đồng mà BIDV đang hỗ trợ cho dự án này, nhân viên môi giới “hiến kế”: “Anh nhờ công ty xác nhận thu nhập… trên 16 triệu đồng/tháng và nhờ ai đó làm cho vợ anh một hợp đồng và bảng lương khoảng tám triệu đồng/tháng là vay được ngay”.
- Độ vênh giữa các quy định khiến nhiều người phải “lách luật” để mua nhà ở xã hội, vốn được xây dựng để bán cho mình

Không có cách gỡ?
Trao đổi về sự tréo ngoe trên, ông Nguyễn Viết Mạnh, Vụ trưởng Vụ Tín dụng (NH Nhà nước) cho rằng, gói 30.000 tỷ đồng là gói cho vay thương mại thông thường. Người đi vay phải chứng minh được khả năng trả nợ để NH thu hồi vốn. Tuy nhiên, ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (HoREA) cho rằng: “Hiện luật đã cho phép thế chấp tài sản hình thành trong tương lai là NƠXH, đồng thời sản phẩm này hỗ trợ cho đối tượng người có thu nhập thấp. NH nào cũng biết điều này mà vẫn buộc chứng minh phương án trả nợ khả thi là vô lý”. Ông Châu ví dụ, để vay NH 480 triệu đồng mua một căn NƠXH giá khoảng 600 triệu đồng, người mua nhà phải có tối thiểu 120 triệu đồng và thế chấp chính căn nhà của mình. Điều này có nghĩa là người mua nhà phải dùng 720 triệu đồng để đảm bảo cho khoản vay 480 triệu đồng. “Theo tôi như vậy là đủ và NH không nên đòi hỏi thêm điều kiện”, ông Châu nêu quan điểm.
Nếu NH vẫn đòi hỏi căng như hiện nay, liệu bao nhiêu người sẽ mua được NƠXH? Theo các chuyên gia kinh tế, trước mắt NH Nhà nước có thể hạ lãi suất vay gói 30.000 tỷ đồng xuống mức thấp nhất có thể, đồng thời kéo dài thời gian cho vay ưu đãi từ 10 lên 15 năm hoặc 20 năm. Như vậy, người thu nhập thấp mới có thể mua NƠXH.
Nên chấn chỉnh giá nhà ở xã hội
Giá NƠXH hiện bị đẩy lên khá cao. Tại HQC Plaza, giá mỗi mét vuông nhà được chủ đầu tư bán ra ở mức từ hơn 12 triệu đến gần 15 triệu đồng. Ví dụ, căn hộ 57,3m2 được chủ đầu tư bán ra tương đương 14,7 triệu đồng/m2. Mức giá này tương đương hoặc cao hơn căn hộ của một số dự án thương mại có vị trí thuận lợi hơn. Chẳng hạn, dự án 8X Thái An (Q.Gò Vấp) vừa được công bố bán cuối tuần qua với giá 725 triệu đồng cho một căn hộ 54m2, tính ra mỗi mét vuông 14,7 triệu đồng/m2 (đã tính VAT).
Giá NƠXH lẽ ra phải thấp hơn nhà thương mại, bởi dự án NƠXH được hưởng nhiều ưu đãi về vốn, thuế sử dụng đất, VAT… Ông Nguyễn Duy Minh, Tổng giám đốc Hưng Thịnh land cho rằng, hiện doanh nghiệp làm dự án NƠXH bị giới hạn lợi nhuận ở mức tối đa 10%. Để hưởng lợi nhiều hơn, doanh nghiệp sẽ lách bằng cách nâng chi phí xây dựng. Mới đây, Bộ Xây dựng đã quyết định rà soát lại giá NƠXH ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng và TP.HCM.

Theo Ca Hảo/phunuonline

14 tháng 6, 2014

TQ tính toán, tìm thời cơ dùng vũ lực với VN

Trung Quốc đang tính toán tạo lý do để sử dụng vũ lực, gây xung đột vũ trang khi thời cơ đến, theo chiêu thức cổ truyền: “phản ứng tự vệ”, “dạy cho Việt Nam bài học”.
trancongtruc-7662-1402769088.jpg
Tiến sĩ Trần Công Trục. Ảnh: N.Hưng.
Giàn khoan Hải Dương 981 hạ đặt ở đâu?
Ngày 1/5/2014, cơ quan chức năng Việt Nam phát hiện giàn khoan dầu khí Hải Dương 981 và ba tàu dich vụ dầu khí của Trung Quốc di chuyển từ tây bắc đảo Tri Tôn (thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) xuống phía nam.
Đến 16h ngày 2/5, giàn khoan này neo đậu tại phía nam đảo Tri Tôn cùng khoảng 27 tàu bảo vệ. Trong các ngày tiếp theo, Trung Quốc tiếp tục huy động thêm tàu bảo vệ đến khu vực này.
Ngày 3/5/2014, trang mạng của Cục Hải sự Trung Quốc đăng thông tin thông báo từ ngày 2/5 đến 15/8, giàn khoan Hải Dương 981 sẽ tiến hành khoan thăm dò trong vùng biển có bán kính một hải lý tính từ khu vực trung tâm có tọa độ 15độ 29’58” vĩ Bắc - 111độ 12’06” kinh Đông, cấm mọi phương tiện đi vào khu vực này.
Tiếp đó, ngày 5/5, Cục Hải sự Trung Quốc tiếp tục đăng thông tin trong đó thông báo mở rộng phạm vi khoan thăm dò lên ba hải lý tính từ khu vực trung tâm có tọa độ 15độ 29’58” vĩ Bắc - 111độ 12’06” kinh Đông, cấm mọi phương tiện đi vào khu vực này, đồng thời hủy bỏ cảnh báo đưa ra ngày 3/5. Vị trí tọa độ hoạt động của giàn khoan nêu trong thông báo hàng hải của Cục Hải sự Trung Quốc nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, cách đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) của Việt Nam khoảng 120 hải lý.
Theo Cục Kiểm ngư, đến 10h ngày 27/5, Trung Quốc đã neo giàn khoan tại vị trí có tọa độ 15độ 33’38'' độ vĩ Bắc- 111độ 34’62'' độ kinh Đông, cách đảo Tri Tôn về hướng đông - đông nam 25 hải lý, cách vị trí cũ 23 hải lý theo hướng đông đông bắc, cách đảo Lý Sơn khoảng 150 hải lý.
Cùng ngày, theo TTXVN tàu chiến Trung Quốc đã tăng cường hoạt động, áp sát các tàu kiểm ngư hơn mọi ngày và thường xuyên có hành động mở bạt che súng, chĩa súng vào các tàu kiểm ngư khi tới gần.
Ngày 27/5, Cục Hải sự Trung Quốc cũng ra thông báo về việc di chuyển giàn khoan Hải Dương-981 đến vị trí mới. Trong ngày, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình khẳng định: Vị trí mới mà giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc di chuyển tới theo thông báo hàng hải của Cục Hải sự Trung Quốc nằm hoàn toàn trên thềm lục địa của Việt Nam. Hoạt động của giàn khoan ở vị trí này vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam".
Ngày 1/6, giàn khoan có sự dịch chuyển nhẹ và ổn định tại tọa độ 15độ 33’21’’N - 111độ 34’35’’E, cách vị trí ngày 27/5 khoảng 140 m về phía tây tây bắc. 
Đến nay vị trí giàn khoan cơ Hải Dương-981 vẫn nằm sâu trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Hiện trong dư luận vẫn tồn tại những nhận thức, nhận định, đánh giá khác nhau về vị trí giàn khoan Hải Dương 981. Dư luận đang cần có câu trả lời chính xác, thật sự khách quan, trung thực và có sức thuyết phục về giàn khoan Hải Dương 981, cùng với một lực lượng lớn tàu thuyền, máy bay, trong đó có cả tàu quân sự, đang ngày đêm ngang nhiên quần đảo ở trong vùng biển nào?
Vị trí giàn khoan Hải Dương-981 có nằm trong “vùng biển Tây Sa” không?
Để biện minh và hợp thức hóa hành động sai trái của mình, Trung Quốc ngụy biện rằng vị trí đặt giản khoan cách đảo “Trung Kiến” (đảo Tri Tôn) 18 hải lý là hoàn toàn nằm trong lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải của quần đảo “Tây Sa”, bởi vì Trung Quốc hoàn toàn có chủ quyền với quần đảo "Tây Sa".
Về lập luận ngụy biện này, có hai nội dung mà cách tiếp cận của chúng ta cần phân biệt rạch ròi: nội dung chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và hiệu lực của quần đảo này trong việc xác định phạm vi vùng biển và thềm lục địa của nó. Từ đó mới có sự phân tích, đánh giá một cách khách quan, chính xác về vị trí của giàn khoan Hải Dương 981 đang hoạt động là ở trong phạm vi vùng biển nào theo đúng quy định của UNCLOS.
1. Ai là chủ nhân của quần đảo Hoàng Sa?
Trung Quốc không thể xác lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bằng vũ lực. Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc dùng vũ lực để xâm chiếm hoàn toàn từ năm 1974 và luôn luôn khẳng định họ có “chủ quyền lịch sử” đối với quần đảo này, không cần phải bàn cãi. 
Việt Nam cũng đã bày tỏ quan điểm rõ ràng: Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khi chúng còn là đất vô chủ, ít nhất là từ thế kỷ XVII. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thật sự, liên tục, hòa bình và rõ ràng. Việt Nam hoàn toàn có cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý để khẳng định và bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình, đáp ứng đủ những điều kiện mà nguyên tắc chiếm hữu thật sự đòi hỏi.
Nhưng Trung Quốc đã chiếm đóng bất hợp pháp quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam sau ba lần thừa cơ thôn tính Hoàng Sa bằng vũ lực.
Lần thứ nhất, Trung Quốc đã nhảy vào chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam ngay từ đầu năm 1909, mở đầu là sự kiện Đô đốc Lý Chuẩn chỉ huy ba pháo thuyền ra khu vực quần đảo Hoàng Sa, đổ bộ chớp nhoáng lên đảo Phú Lâm. Sau đó nước này phải rút lui vì sự hiện diện của quân đội viễn chinh Pháp với tư cách là lực lượng được Chính quyền Pháp, đại diện cho Nhà nước Việt Nam về đối ngoại, giao nhiệm vụ bảo vệ, quản lý, thực thi chủ quyền tại quần đảo này.
Lần thứ hai, lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua trận trong Thế chiến 2 và Việt Nam vừa giành được độc lập và đang phải đối mặt với bộn bề khó khăn, năm 1946 chính quyền Trung Hoa Dân quốc (Tưởng Giới Thạch) đưa lực lượng ra chiếm đóng trái phép nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa.
Lần thứ ba, khi Trung Hoa Dân quốc bị đuổi khỏi Hoa lục chạy ra Đài Loan, họ phải rút luôn số quân đang chiếm đóng bất hợp pháp ở phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Tham vọng bành trướng lãnh thổ của người Trung Quốc trên Biển Đông vẫn không dừng lại mà chỉ chực có cơ hội là thừa thế đánh chiếm. Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dương theo quy định của Hiệp định Geneva và trong khi chính quyền miền Nam Việt Nam chưa kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa theo như thỏa thuận của Hiệp định này, Trung Quốc đã thừa cơ đưa quân ra chiếm đóng bất hợp pháp nhóm đảo An Vĩnh, phía đông quần đảo Hoàng Sa.
Đó là trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974, một dấu ấn bi hùng không bao giờ phai trong lịch sử đấu tranh gìn giữ và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của dân tộc Việt Nam.
Hành động của Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam là hoàn toàn sai trái:
Một là, hành động đánh chiếm các đảo trong quần đảo ở Biển Đông bằng vũ lực là sự vi phạm nghiêm trọng điều 2, khoản 4 của Hiến chương Liên hợp quốc, trong đó cấm các quốc gia sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là cấm sử dụng vũ lực để xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác. Nội dung điều khoản này trong Hiến chương Liên hợp quốc là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đòi hỏi tất cả các nước thành viên của tổ chức Liên hợp quốc, trong đó có Trung Quốc, phải tuân thủ.
Nguyên tắc này được phát triển và cụ thể hoá trong Nghị quyết 2625 ngày 24/10/ 1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc trong đó quy định: “Các quốc gia có nghĩa vụ không đe dọa hay sử dụng vũ lực để vi phạm các biên giới quốc tế hiện có của một quốc gia khác, hay (coi đe dọa hay sử dụng vũ lực) như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế, kể cả những tranh chấp về đất đai và những vấn đề liên quan đến biên giới của các quốc gia”.
Hai là, hành động Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa năm 1956 và chiếm nốt phần phía Tây của quần đảo này năm 1974 thực chất là một hành động xâm lược lãnh thổ của Việt Nam.
Ba là, theo luật pháp quốc tế việc Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm các đảo ở quần đảo Hoàng Sa không tạo ra được chứng cứ pháp lý để khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo, đá mà họ đã dùng vũ lực để chiếm đoạt. Nghị quyết 2625 ngày 24/10/1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc được trích dẫn ở trên đã nêu rõ: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với các quy định của Hiến chương Liên hợp quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”.
Hành động xâm lược nói trên không bổ sung vào bộ hồ sơ pháp lý về chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Những hành động như vậy đã bị cộng đồng quốc tế lên án mạnh mẽ và chắc chắn sẽ bị các toà án quốc tế bác bỏ một khi chúng được đưa ra tòa án quốc tế nhằm minh chứng cho chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.
2. Trung quốc cố tình áp dụng sai Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982:
Giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc đang hoạt động nằm ở vùng biển nào: lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải hay vùng đặc quyền kinh tế của quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc gọi là “Tây Sa” hay nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ?
Dễ dàng nhận ra, vị trí này không phải nằm trong lãnh hải của quần đảo Hoàng Sa, thậm chí là của đảo Tri Tôn, vì lúc đầu, nó ở cách Tri Tôn 18 hải lý và từ ngày 27/5, nó ở cách đảo Tri Tôn 25 hải lý. Vậy thì chỉ có thể là nó đã nằm trong vùng đặc quyền về kinh tế của quần đảo này (vì vùng tiếp giáp lãnh hải xét về phạm vi không gian, vẫn là một bộ phận của vùng đặc quyền kinh tế). Vấn đề là quần đảo này có hội đủ các tiêu chuẩn theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 để có thể cho phép quốc gia có chủ quyền mở rộng phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quần đảo này hay không?
Như mọi người đều biết, quần đảo này bao gồm các đảo, đá, bãi cạn, rạn san hô rất nhỏ bé, nằm trong khu vực có khí hậu khắc nghiệt, không thích hợp cho đời sống của con người và đương nhiên không thể có đời sống kinh tế riêng, mặc dù sau khi xâm chiếm bằng vũ lực, Trung Quốc đang cố tìm cách tạo ra diện mạo đó. Hơn nữa, quần đảo này không phải là quốc gia quần đảo. Vì thế, việc vạch ra hệ thông đường cơ sở để từ đó xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của quần đảo này là hoàn toàn khác với quốc gia quần đảo. Vì những lý do đó, có thể khẳng định rằng quần đảo này không thể có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục đia theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982; có chăng thì từng đảo nổi theo đúng quy định của Điều 121 của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 chỉ có thể có vùng lãnh hải rộng 12 hải lý mà thôi.
Việc Trung Quốc đã vạch một đường cơ sở bao trọn quần đảo mà họ gọi là “Tây Sa” để từ đó tạo ra vùng chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là sai với quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. Do đó có thể khẳng định rằng vị trí của giàn khoan này hoàn toàn nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, không có liên quan gì đến quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép và đang cố tình giải thích và áp dụng sai Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 để biện minh cho yêu sách vô lý, đầy tham vọng của mình.
Để minh chứng cho nhận xét này, xin hãy tham khảo các quy định có liên quan của Luật Biển quốc tế và Luật Biển Việt Nam:
Điều 121, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 định nghĩa: “một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước”. Nội dung quan trọng hơn đó là chế độ pháp lý của các đảo: các đảo có lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Tuy nhiên, các đảo “không thích hợp cho con người ở và không có đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”.
Điều 19, Luật Biển Việt Nam đã quy định về đảo, quần đảo như sau:
- Đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước. Quần đảo là tập hợp các đảo, bao gồm cả bộ phận của các đảo, vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan chặt chẽ với nhau.
- Đảo, quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.
Điều 20, Luật Biển Việt Nam quy định:
- Đảo thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
- Đảo, đá không thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Điều 13, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 đã quy định rõ: “các bãi cạn nửa nổi nửa chìm là các vùng đất nhô cao tự nhiên có biển bao quanh, khi thủy triều xuống thấp thì lộ ra, khi thủy triều lên cao thì bị ngập nước”. Chế độ pháp lý của các bãi cạn, đá: khi toàn bộ hoặc một phần bãi cạn nửa nổi, nửa chìm ở cách lục địa hoặc một đảo một khoảng cách không vượt quá chiều rộng lãnh hải thì ngấn nước triều thấp nhất ở trên các bãi cạn này có thể dùng làm đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải; khi chúng hoàn toàn ở cách lục địa hoặc ở cách một đảo một khoảng cách vượt quá chiều rộng của lãnh hải thì chúng không có lãnh hải riêng và các đường cơ sở thẳng chỉ được kéo đến hay xuất phát từ các bãi này khi trên đó có các công trình thiết bị nhân tạo thường xuyên nhô trên mặt nước.
tau4-5758-1402769088.jpg
Tại thực địa, các tàu Trung Quốc thường xuyên vây ép ngăn chặn tàu Việt Nam. Ảnh:Canhsatbien.
Quốc gia quần đảo? Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 dành một phần (Phần IV), gồm các điều 46, 47, 48, 49, 50, 51, 52, 53, 54 để quy định về phạm vi và chế độ pháp lý của quốc gia quần đảo và quần đảo. Theo đó, quốc gia quần đảo là quốc gia hoàn toàn được cấu thành bởi một hay nhiều quần đảo và có thể bao gồm một số đảo khác nữa. Còn quần đảo là một nhóm các đảo, kể cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước nối giữa và các thành phần tự nhiên khác có liên quan với nhau chặt chẽ đến mức tạo thành một thể thống nhất về địa lý, kinh tế và chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử.
Nội dung quan trọng nhất là tại Điều 47, Công ước quy định về đường cơ sở quần đảo: quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở thẳng của quần đảo nối các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá nổi xa nhất của quần đảo, với điều kiện là tuyến các đường cơ sở này bao lấy các đảo chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích nước so với đất, kể cả vành đai san hô, phải ở giữa tỷ số 1/1 và 9/1. Chiều dài của các đường cơ sở này không vượt quá 100 hải lý; hoặc có thể có chiều dài tối đa là 125 hải lý, nếu có 3% tổng số đường cơ sở bao quanh một quần đảo có chiều dài lớn hơn 100 hải lý; tuyến các đường cơ sở này không được tách xa rõ rệt đường bao quanh quần đảo. Các đường cơ sở này cũng không được kéo đến hay xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi, lúc chìm, trừ trường hợp trên đó có xây các đèn biển hay các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc trừ trường hợp toàn bộ hay một phần bãi cạn ở cách hòn đảo gần nhất một khoảng cách không vượt quá chiều rộng lãnh hải…
Với những nội dung này thì rõ ràng Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 chỉ quy định cách vạch đường cơ sở thẳng cho quốc gia quần đảo, chứ không quy định cách vạch đường cơ sở cho các quần đảo không phải là quốc gia quần đảo. Điều đó được hiểu là cách vạch đường cơ sở tại các quần đảo thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển ở cách quốc gia đó một khoảng cách vượt quá chiều rộng lãnh hải thì sẽ phải tuân thủ các quy định tại phần VIII, Điều 121: Chế độ các đảo.
Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam cũng phải tuân thủ quy định này của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 để vạch đường cơ sở và xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của chúng.
Ngoài ra, Luật Biển còn có những quy định về các đảo, công trình, thiết bị nhân tạo được xây dựng trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa:
Điều 60, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 quy định: Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có đặc quyền tiến hành xây dựng, khai thác và sử dụng: các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình dùng vào mục đích được trù định ở Điều 56 hoặc các mục đích kinh tế khác… Quốc gia ven biển có quyền tài phán đặc biệt đối với các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình đó, kể cả quyền tài phán về luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế, an ninh và nhập cư.
Việc xây dựng các đảo nhân tạo và các công trình đó phải được thông báo theo đúng thủ tục, phải có các phương tiện thường trực để báo hiệu sự tồn tại của chúng. Nếu các thiết bị đó đã bỏ hoặc không dùng nữa thì phải tháo dỡ để đảm bảo an toàn hàng hải…
Quốc gia ven biển có thể lập ra xung quanh các công trình đó những khu vực an toàn có phạm vi không vượt quá 500 m xung quanh chúng tính từ mỗi điểm của mép ngoài cùng của các công trình và đều phải được thông báo theo đúng thủ tục. Tất cả các tàu thuyền phải tôn trọng các khu vực an toàn đó và tuân theo các quy phạm quốc tế liên quan đến hàng hải trong khu vực gần các công trình và các khu vực an toàn đó.
Tuy nhiên không được xây dựng các công trình nhân tạo và lập các khu vực an toàn xung quanh chúng ở nơi có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng các đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế.
Các công trình nhân tạo này không được hưởng quy chế các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự hiện diện của chúng không có tác động gì đối với việc hoạch định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Việc xây dựng và bảo vệ các công trình nhân tạo trên thềm lục địa cũng phải tuân thủ các quy định nói trên, với những sửa đổi cần thiết về chi tiết (mutatis mutandis).
Điều 34, Luật Biển Việt Nam đã quy định về đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển bao gồm:
- Các giàn khoan trên biển cùng toàn bộ các bộ phận phụ thuộc khác đảm bảo hoạt động bình thường và liên tục của các giàn khoan hoặc các thiết bị chuyên dùng để thăm dò, khai thác và sử dụng biển.
- Các loại báo hiệu hàng hải.
- Các thiết bị công trình khác được lắp đặt và sử dụng ở biển.
Nhà nước Việt Nam có quyền tài phán đối với các đảo nhân tạo và thiết bị, công trình trên biển trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, bao gồm cả quyền tài phán theo các quy định của pháp luật về hải quan, thuế, y tế, an ninh và xuất nhập cảnh. Tại các điểm 3,4,5,6, Điều 34, Luật Biển Việt Nam đã thể hiện đầy đủ các nội dung phù hợp với các quy định nói trên của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982.
Có thể khẳng định rằng những lập luận để bảo vệ cho cái gọi là “hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 là hoạt động bình thường trong vùng biển thuộc quần đảo Tây Sa của Trung Quốc…” là thiếu căn cứ và hoàn toàn phi lý; bởi vì quần đảo Hoàng Sa là quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam mà Trung Quốc đã dùng vũ lực để xâm chiếm trái phép. Hơn nữa, vị trí của giàn khoan này hoàn toàn nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, không có liên quan gì đến vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đang cố tình giải thích và áp dụng sai Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 để biện minh cho yêu sách vô lý, đầy tham vọng của mình.
3. Hoạt động của giàn khoan là bình thường hay bất bình thường?
Nội dung phân tích nói trên đã cho thấy rõ sự bất bình thường của cái gọi là “hoạt động bình thường trong vùng biển thuộc Tây Sa” xét về khía cạnh pháp lý. Thực chất đây là kết quả logic của việc Trung Quốc cố tình giải thích và áp dụng sai Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982.
Tiến sĩ Trần Công Trục (Vnexpress)

Thay đổi tư duy, lật ngược thế cờ


Ảnh TL
Ảnh TL
Hơn bao giờ hết, Việt Nam cần đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, điều chỉnh chính sách, giảm sự phụ thuộc của các doanh nghiệp Việt Nam vào các nguồn cung ứng nguyên, vật liệu từ Trung Quốc.
Việt Nam cần xúc tiến đàm phán để đi đến ký kết các hiệp định với các đối tác khác như hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - liên minh châu Âu (EU), hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) để mở ra những thị trường mới, đối tác mới.
Điều rất quan trọng là Việt Nam phải đổi mới tư duy, thực hiện đồng bộ cải cách chính trị với cải cách kinh tế, cải cách thể chế, thực hiện cạnh tranh bình đẳng, công khai minh bạch, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, lợi ích nhóm và đặc quyền đặc lợi. Đây cũng là cơ hội để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, không phân biệt quá khứ, tôn giáo, ý kiến khác nhau trên cơ sở thống nhất vì lợi ích đất nước, vì sự phát triển phồn vinh của dân tộc, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
 Đây cũng là cơ hội để sử dụng người tài, khắc phục các biểu hiện lệch lạc trong chính sách cán bộ, ưu tiên “con ông, cháu cha”, “quan hệ”, đưa những người kém năng lực, phẩm chất vào bộ máy. Đây cũng là thời điểm sàng lọc cán bộ, áp dụng cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm để tiến tới có bộ máy có hiệu quả, tinh gọn, đáp ứng yêu cầu của người dân và các cam kết hội nhập quốc tế.
Giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải cải cách thể chế, bao gồm cả thể chế nhà nước và thể chế kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ, công khai minh bạch, làm rõ trách nhiệm giải trình của quan chức đối với chi tiêu ngân sách nhà nước, đầu tư công, trách nhiệm đối với dân và doanh nghiệp, giảm bớt chi phí về thời gian và tiền bạc đối với người dân và doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, từng doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ.
Nhà nước cần thực hiện các chương trình hình thành các ngành công nghiệp và dịch vụ trợ giúp cho dệt-may, da giày, xe máy, xe đạp, chế biến nông, lâm thuỷ sản, bao bì v.v.. Đó là những ngành có thị trường đủ lớn để hình thành công nghiệp và dịch vụ trợ giúp có hiệu quả, không như ngành ôtô có quy mô nhỏ bé trong khi có quá nhiều nhà sản xuất cạnh tranh với nhau.
Để chuẩn bị gia nhập TPP, Việt Nam phải bảo đảm hàm lượng 70% TPP cho các nguyên, vật liệu cho dệt may từ sợi trở lên nên hình thành các ngành sản xuất các phụ kiện cho dệt - may như sợi, nhuộm cúc áo, khóa kéo... là rất cần thiết và đang được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm.
Việc hợp tác nông nghiệp với Nhật Bản cũng đang có cơ hội lớn khi cả hai nước đều là thành viên TPP, Nhật Bản có thể đầu tư vào nông nghiệp, thuỷ sản ở Việt Nam sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao, sơ chế, bao bì bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm để xuất về Nhật Bản với thuế suất bằng 0%.
Để có thể hợp tác với Nhật Bản và các nước khác, nông nghiệp Việt Nam phải tái cơ cấu, chuyển sang sản xuất quy mô công nghiệp, có lao động được đào tạo, có chuyên môn và tay nghề cao, tiếp cận được với nguồn tín dụng, khoa học-công nghệ tiên tiến. Đó là những cơ hội và thách thức to lớn đứng trước nền nông nghiệp nước ta nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Trước tình hình hiện nay, với tấm lòng yêu nước, người tiêu dùng Việt Nam nên hưởng ứng mạnh mẽ phong trào “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, không dùng những hàng nhập lậu, kém chất lượng, thậm chí độc hại từ Trung Quốc.
Báo chí, truyền thông cần tích cực chỉ ra những sản phẩm độc hại, kém chất lượng để người tiêu dùng chủ động tránh. Kinh nghiệm cho thấy bia Trung Quốc, xe máy Trung Quốc kém chất lượng đã không có chỗ đứng trên thị trường Việt Nam. 
Đó là cơ hội để các nhà sản xuất và phân phối Việt Nam vươn lên đưa hàng về đến nông thôn với giá cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước. Các tỉnh biên giới cùng với các cơ quan có trách nhiệm cần đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống buôn lậu, cải thiện đời sống đồng bào dân tộc để đồng bào không cần buôn lậu cũng đủ sống, đồng thời phải truy tìm tận gốc những chủ đầu nậu để triệt tận gốc nạn buôn lậu này. 
Về lâu dài, các sản phẩm Việt Nam phải cạnh tranh được với các sản phâm Trung Quốc về chất lượng, giá cả thì mới hạn chế được buôn lậu và giữ vững thị trường nội địa trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc.
TS. Lê Đăng Doanh (chuyên gia kinh tế cao cấp) - Người Đô Thị 

Mỹ phản đối cuộc tấn công vào Đại sứ quán Nga tại Kiev

Đăng Bởi  - 

Cờ Nga tại đại sứ quán ở Kiev bị người biểu tình kéo xuống hôm 14-6
Cờ Nga tại đại sứ quán ở Kiev bị người biểu tình kéo xuống hôm 14-6
Mỹ đã lên tiếng phản đối vụ tấn công vào đại sứ quán Nga tại thủ đô Kiev của Ukraine vào ngày 14.6, kêu gọi chính phủ Ukraine phải có trách nhiệm đảm bảo an ninh một cách đầy đủ cho các cơ quan ngoại giao.
Mỹ đưa ra phản ứng sau khi đám đông kích động vì vụ quân ly khai thân Nga bắn rơi một máy bay vận tải quân sự của chính phủ Ukraine. Đám đông đã xé cờ Nga tại Đại sứ quán tại Kiev, lật ngang nhiều ô tô trong khi cảnh sát Ukraine thì đứng nhìn.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Jen Psaki cho biết Mỹ lên án cuộc tấn công vào Đại sứ quán Nga tại Kiev và kêu gọi các nhà chức trách Ukraina phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đảm bảo an ninh của nước sở tại theo Công ước Vienna về quan hệ ngoại giao năm 1961.
Trong khi đó, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã gọi điện và chia buồn với Thủ tướng Ukraina Arseniy Yatsenyuk sau vụ quân ly khai bắn hạ máy bay vận tải Il-76 làm 49 binh sĩ Ukraine thiệt mạng gần sân bay thành phố Lugansk vào sáng sớm ngày 14.6.
Ông Kerry cũng gọi cho Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov để bày tỏ "mối quan tâm mạnh mẽ" của Mỹ trước việc Nga điều quân đội và vũ khí hạng nặng đến miền đông Ukraine, cũng như hành động bắn rơi máy bay vận tải quân sự của lực lượng ly khai.
Ngoại trưởng Mỹ yêu cầu phía Nga phải thực hiện những cam kết trước đó là duy trì hòa bình và không leo thang chiến tranh. Nga phải ngưng điều động vũ khí và quân đội hỗ trợ phe ly khai, tích cực đàm phán với Ukraina cho một lệnh ngừng bắn, ân xá, và đối thoại chính trị.
Lâm Nguyên (AFP)