Trang

4 tháng 6, 2014

Việt Nam chọn mua rẻ, bán rẻ: Phải trả giá thế nào?


(Thị trường) - Chính sách mua rẻ bán rẻ thể hiện cách làm ăn dựa vào kinh tế tài nguyên, tư tưởng chụp giật, không tính toán làm ăn lâu dài.
GS TS Đặng Đình Đào nêu quan điểm trước thực tế thời gian vừa qua hoạt động thu mua các mặt hàng nông sản, thủy sản, lúa gạo của VN diễn ra tình trạng mua rẻ, bán rẻ, ép giá làm khó nông dân.
Về lĩnh vực khai thác khoáng sản cũng xảy ra tình trạng tương tự khi các tài nguyên như than, bauxite, titan... đều xuất khẩu với mức giá rất thấp. Đặc biệt, thị trường của chính sách mua rẻ bán rẻ lại chủ yếu là Trung Quốc đã tiềm ẩn nhiều rủi ro và nguy cơ.
Thua thiệt
PV: - Thời gian vừa qua, cá tra của Việt Nam dù chi phối thị trường vẫn bị kiện vì bán giá rẻ. Lúa gạo của Việt Nam vẫn chịu thua để thương lái Trung Quốc ép giá, mặc dù trên thực tế, Trung Quốc đang phụ thuộc vào lúa gạo VN vì TQ đang thiếu một lượng lớn lúa gạo. Đứng ở góc độ kinh tế, đây có coi là một nghịch lý không thưa ông? Phải hiểu nghịch lý này như thế nào?
GS TS Đặng Đình Đào: - Đây là một thực tế không bình thường, rất đáng lo ngại và cần phải có hướng giải quyết, điều chỉnh ngay vì VN đã để các thương lái TQ thao túng, lũng đoạn thị trường. Nguyên nhân do các cơ quan quản lý nhà nước các cấp, quản lý thị trường đã buông lỏng quản lý.
Nhiều mặt hàng, sản phẩm TQ khống chế, ép giá, rõ ràng VN sẽ thua thiệt lớn bởi TQ cũng biết chắc mình rất cần thị trường TQ vì TQ là thị trường gần gũi về vị trí địa lý và là thị trường dễ tính hơn các thị trường Châu Âu, Mỹ…
Hơn nữa, chất lượng và mẫu mã của gạo VN để đáp ứng thị trường của các nước phát triển như Nhật, EU… khó khăn vì chất lượng vẫn còn thấp hơn so với gạo Thái Lan vì vậy Việt Nam có thiên hướng xuất sang thị trường TQ là chủ yếu và đây cũng là điều bất lợi cho VN.
Nên chiến lược xuất khẩu đến năm 2020, nhà nước có chủ trương chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu để thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, nhất là các mặt hàng có giá trị gia tăng cao.
Vấn đề này mặc dù đã được các chuyên gia, nhà khoa học cảnh báo và nhiều thông tin phản hồi từ thị trường các nước nhưng tình trạng gạo kém chất lượng vẫn xảy ra. Nguyên nhân là do sản xuất nông nghiệp của VN vẫn còn manh mún, đầu tư cho khoa học công nghệ chưa tương xứng.
GS TS Đặng Đình Đào - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, Đại học KTQD Hà Nội - Ảnh: Nguyên Thảo
GS TS Đặng Đình Đào - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, Đại học KTQD Hà Nội - Ảnh: Nguyên Thảo
Chủ trương biện pháp là phổ biến những giống lúa có chất lượng tốt hơn với quy mô sản xuất lớn hơn để ổn định nguồn hàng xuất khẩu từ nhiều năm nay nhưng vẫn chưa làm được nhiều.
Ngay cả thị trường trong nước khi được mùa lại rớt giá, thu nhập từ lúa gạo của người nông dân trong chuỗi cung ứng sản phẩm rất thấp, điều này làm cho nông dân phải chịu thua thiệt, chính những điều này làm cho động lực cải tiến và nâng cao chất lượng trong sản xuất nông nghiệp hạn chế.
Thực tế này đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các bộ, ngành, các doanh nghiệp, các nhà khoa học cần quan tâm hơn, đầu tư nhiều hơn cho nông nghiệp để nông nghiệp phát triển xứng đáng hơn so với tiềm năng vốn có của nó ở Việt Nam.
Chủ trương xây dựng cánh đồng mẫu lớn là phù hợp và đúng đắn nhưng lại còn tùy thuộc vào từng địa bàn, vùng trồng lúa còn manh mún khó thực hiện cơ giới hóa sản xuất trên quy mô lớn để đảm bảo năng suất và chất lượng. Hiện tại, sản xuất nông nghiệp chủ yếu là theo hộ gia đình, mô hình hợp tác xã còn rất hạn chế, đây cũng là nguyên nhân làm cho chất lượng gạo khó cạnh tranh với gạo Thái Lan.
Giải bài toán nâng cao hiệu quả kinh tế hộ trong chuỗi cung ứng gạo lúa là bài toán cần được hóa giải và rất cần thiết hiện nay, nhà nước cần đầu tư cho nghiên cứu khoa học nhiều hơn ở các vùng, địa bàn mà trong chuỗi cung ứng các sản phẩm lúa gạo, người nông dân vẫn còn thua thiệt rất nhiều, chính ngay các thương lái, các doanh nghiệp vẫn còn ép giá người nông dân.
Cho nên cần có những nghiên cứu của nhà nước, các ngành một cách căn cơ để giúp người nông dân nâng cao chuỗi giá trị, để họ có thể gắn bó lâu dài với nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.
Hiện nay, nông sản của VN phụ thuộc khá lớn vào thị trường TQ nên phải từng bước tháo gỡ điều này. Muốn tháo gỡ, vấn đề quan trọng, lâu dài là chính từ chất lượng, mẫu mã và an toàn thực phẩm đối với các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam.
Mới đây, một số mặt hàng hóa qủa của VN được một số thị trường chấp nhận như thanh long được khẩu sang New Zealand là một tín hiệu tốt. VN cần phải gia tăng thị trường xuất khẩu mới thay vì xuất khẩu sang TQ, nhất là trong bối cảnh diễn biến trên biển Đông phức tạp, rõ ràng sẽ rất khó khăn cho Việt Nam.
Nhập siêu từ Trung Quốc so với tổng nhập siêu từ tất cả các quốc gia giai đoạn 2000 - 2013. Đơn vị: tỷ USD. Nguồn: Tổng cục Hải quan
Nhập siêu từ Trung Quốc so với tổng nhập siêu từ các nguồn khác giai đoạn 2000 - 2013. Đơn vị: tỷ USD. Nguồn: Tổng cục Hải quan
Việc các doanh nghiệp thu mua sản phẩm của nông dân với giá thấp là không công bằng, không đứng trên lợi ích, trách nhiệm xã hội để cùng người nông dân giải quyết đầu ra cho sản phẩm. Với thu nhập thực tế trong nông nghiệp như hiện nay mà các doanh nghiệp lại còn mua với một cái giá rất rẻ là điều khó chấp nhận, tình trạng này đang diễn ra ở không ít doanh nghiệp.
Rõ ràng cần có chế tài nhất định buộc doanh nghiệp, các thương lái phải thực hiện, không thể thu gom bất kỳ ở đâu và với cái giá nào cũng được, cần có sự quản lý của nhà nước về thu gom hàng, không thể để các doanh nghiệp, thương lái ép giá đối với người nông dân một cách tùy tiện!
PV: - Trong lĩnh vực khai thác khoáng sản, cũng xảy ra tình trạng tương tự. Các tài nguyên thiên nhiên như than, bauxite, titan… đều xuất khẩu với mức giá rất thấp, chưa kể lại xin đủ thứ ưu đãi về thuế, phí. Các chuyên gia đã chỉ thẳng thực trạng xuất khẩu nông sản giá rẻ dẫn đến thu mua của người dân giá rẻ, nông dân phải bỏ ruộng.
Trong trường hợp của khoáng sản kể trên, phải phân tích như thế nào? Chính sách đào tài nguyên bán giá rẻ đó sẽ gây thiệt hại cho ai, và vì sao nó tồn tại được lâu đến tận hôm nay, khi mà theo nhiều dự báo, Việt Nam đã sắp hết một số loại khoáng sản?
GS Đặng Đình Đào: - Thực tế này cần phải ngăn chặn, hạn chế không thể kéo dài được. Trong lúc các doanh nghiệp hủy hoại môi trường, những tài sản không tái tạo được lại xuất khẩu với giá thấp, với cách làm như vậy, trong tương lai không xa VN sẽ nhập lại những sản phẩm đã xuất rẻ với một cái giá rất đắt.
Cần phải có các biện pháp cứng rắn với hệ thống pháp luật đồng bộ để quản lý thay vì chỉ tuyên truyền. Giai đoạn xuất khẩu khoáng sản, tài nguyên thô đã qua rồi, cần có những tính toán, biện pháp ngăn chặn không thể tràn lan được.
Một ví dụ diễn ra thời gian vừa qua là việc sản xuất bauxite tại 2 dự án Tân Cơ, Nhân Rai giữa 2 bộ Công thương và Bộ Tài chính vẫn còn đối kiến không thống nhất. Rõ ràng cần xem xét lại cách thức giải quyết vấn đề.
Khi Bộ Tài chính có ý kiến không đồng tình với những ưu đãi cho các doanh nghiệp thực hiện việc khai thác bauxite nhưng Bộ Công thương vẫn bảo vệ quan điểm. Trong lúc cơ chế quản lý bộ chủ quản vẫn chưa có sự thay đổi thì rõ ràng khó có thể lý giải một cách thuyết phục không có lợi ích nhóm ở đây.
Chính vì vậy, cần có sự tách bạch giữa quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh của doanh nghiệp mới giải quyết cơ bản những điều này.
Phải trả giá
PV: - Thị trường của chính sách mua rẻ, bán rẻ, xuất khẩu thô và nhập khẩu các sản phẩm đã qua chế biến, máy móc của Việt Nam chủ yếu là Trung Quốc. Đây là sự phụ thuộc hay lệ thuộc, thưa ông? Tư duy “bán rẻ, bán nhiều” đang chi phối nền kinh tế Việt Nam trong khi thị trường xuất khẩu chủ yếu lại là Trung Quốc tiềm ẩn những rủi ro nào?
GS Đặng Đình Đào: - Chính sách mua rẻ, bán rẻ, xuất khẩu thô và nhập khẩu các sản phẩm đã qua chế biến, máy móc của Việt Nam thể hiện cách làm ăn dựa vào kinh tế tài nguyên, tư tưởng "chụp giựt" trong kinh doanh, không tính toán làm ăn lâu dài theo quy tắc thị trường.
Thương nhân Trung Quốc vận chuyển hàng hóa từ cửa khẩu vào Việt Nam. Ảnh: China Daily
Thương nhân Trung Quốc vận chuyển hàng hóa từ cửa khẩu vào Việt Nam. Ảnh: China Daily
Qua những sự việc trên cũng nói lên một điều, việc xúc tiến tìm kiếm thị trường để mở rộng thị trường mới vẫn còn nhiều yếu kém nên vẫn lệ thuộc vào thị trường TQ.
Có nhiều ý kiến TQ nhập khẩu than của VN về chỉ để sau này mới dùng còn VN lại ồ ạt xuất sang TQ. Vấn đề hiện nay là các doanh nghiệp phải tính đến việc đầu tư khoa học và công nghệ để có thể sản xuất được mặt hàng có giá trị gia tăng cao, tránh tình trạng xuất khẩu thô, giá rẻ và nhập về sản phẩm đã qua chế biến với giá đắt. Kéo dài tình trạng này sẽ là vấn đề đáng báo động.
Thực tế hiện nay, vấn đề vốn là một khía cạnh khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước nhưng điều quan trọng hơn là tập quán, kiểu làm ăn dựa vào kinh tế tài nguyên đã ăn sâu trong các doanh nghiệp Việt Nam.
Dựa vào kinh tế tài nguyên thường mang lại lợi nhuận nhanh hơn cho doanh nghiệp, thay vì phải nghiên cứu ứng dụng KHCN vào sản xuất chế biến các sản phẩm có hàm lượng KHCN cao. Nguồn tài nguyên bao giờ cũng có giới hạn và đến một lúc sẽ cạn kiệt và VN lại phải dùng đô la để nhập về chính những sản phẩm mà chúng ta đã xuất khẩu trong tương lai không xa.
Quan hệ VN và TQ trên biển Đông hiện đang căng thẳng, cách ứng xử của TQ rất ngang ngược thì rõ ràng các nhà hoạch định chính sách thị trường, thương mại cần tỉnh táo và có sự chuẩn bị để định hướng lại thị trường theo hướng đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu, không để hàng hóa Việt Nam bị lệ thuộc vào thị trường của một nước.
Chạy theo hàng giá rẻ, Việt Nam đã phải trả giá một thời kỳ nhập khẩu các thiết bị máy móc cho các nhà máy xi măng Lò đứng của TQ, bây giờ là đến lượt các nhà máy điện cũng là máy móc của TQ nhập với giá rẻ nhưng chất lượng kém. Chính vì ham rẻ nên VN phải trả giá.
PV- Trong bối cảnh dư luận đang đặt ra vấn đề thoát khỏi sự lệ thuộc về kinh tế Trung Quốc, việc loại bỏ tư duy “bán rẻ, bán nhiều” cho Trung Quốc có tác động như thế nào trong mục tiêu trên? Và để làm được như vậy, giải pháp cụ thể phải đặt ra là gì?
GS Đặng Đình Đào: - Khi trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam, thị trường Trung Quốc chiếm tỷ trọng gần 30% thì những chính sách, biện pháp hạn chế thì rõ ràng trong giai đoạn đầu sẽ có ảnh hưởng, tác động đến hoạt động kinh tế thương mại của Việt Nam.
Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị nếu không khi mà thị trường với TQ biến động theo chiều hướng không thuận lợi sẽ có những tác động tiêu cực đến hoạt động của các doanh nghiệp. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp VN còn phụ thuộc rất lớn vào thị trường TQ nên cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Trong dài hạn buộc các doanh nghiệp phải có sự chuyển đổi, tái cơ cấu lại quá trình sản xuất các sản phẩm, xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp với điều kiện mới.
Trong chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2011 - 2020 và cả trong nhiệm vụ, giải pháp xuất nhập khẩu năm 2014 đã xác định là phải tiếp tục mở rộng, đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu, tận dụng hiệu quả các cơ hội thị trường và đối với nhóm hàng nông thủy sản cần phải nâng cao năng suất.
Chất lượng và giá trị gia tăng để tăng giá trị và kim ngạch xuất khẩu nông sản, giảm khối lượng xuất khẩu khoáng sản thô …là những nhiệm vụ quan trọng cần được thực hiện có hiệu quả trong các ngành và các địa phương, doanh nghiệp hiện nay.
Xin trân trọng cảm ơn ông!

Nguyên Thảo (thực hiện)

69 tuổi vẫn đi thi tốt nghiệp THPT

(Dân trí) - Trong kỳ thi tốt nghiệp THPT năm nay tại hội đồng thi Giồng Trôm 2 (Trường THPT Nguyễn Thị Định, Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, Bến Tre) có thi sinh đã 69 tuổi vẫn quyết tâm đi thi tốt nghiệp THPT.

 >>  Sĩ tử U50 tuổi: Thi xong tốt nghiệp tôi sẽ thi trường nghề!
 >>  Thí sinh 53 tuổi quyết tâm đi thi để lấy bằng tốt nghiệp

Đó là trường hợp của ông Hồ Ngọc Cảnh, sinh năm 1945, ngụ ấp Tân Lợi (Tân Thanh, Giồng Trôm, Bến Tre) hiện đang là lương y thuộc chi hội Đông y tại xã Tân Thanh. Trong kỳ thi tốt nghiệp tốt nghiệp THPT năm nay, ông Cảnh là thí sinh hệ Giáo dục thường xuyên.
Thí sinh Hồ Ngọc Cảnh (69 tuổi) rất tự tin sau khi hoàn thành kỳ thi tốt nghiệp THPT
Thí sinh Hồ Ngọc Cảnh (69 tuổi) rất tự tin sau khi hoàn thành kỳ thi tốt nghiệp THPT
Ông Cảnh cho biết: “Năm rồi tôi thi rớt nhưng bảo lưu được 6 điểm của môn Văn nên năm nay chỉ phải thi 3 môn gồm môn Toán bắt buộc và hai môn Hóa học và Sinh học do tôi tự chọn”.
Sau khi hoàn thành kỳ thi tốt nghiệp, ông Cảnh cho rằng mình làm bài cũng tạm ổn nên hy vọng sẽ đậu. Tuy nhiên ông cho rằng nếu có rớt thì năm sau sẽ tiếp tục thi tiếp.
Theo ông Cảnh, nguyên nhân ông đi thi là có bằng tốt nghiệp THPT để đủ điều kiện dự sát hạch nâng lên bậc lương y trung cấp. Tuy nhiên thí sinh 69 tuổi này đã là ông nội, ông ngoại với đầu tóc bạc phơ nhưng vẫn đi thi khiến cho nhiều thí sinh khác rất khâm phục về tinh thần hiếu học.
Minh Giang

Hàng trăm cây đổ, mưa ngập nhiều nơi ở Hà Nội


(Dân trí) - Trận mưa lớn kèm giông tối qua, 4/6, đã khiến hàng trăm cây xanh bị “quật ngã”. Một số “điểm đen” trong nội thành vẫn xảy ra úng ngập nhẹ. Nhiều khu vực bị mất điện do ảnh hưởng của mưa giông.
 >> Hà Nội: Cây xà cừ cổ thụ đè nát taxi, 1 người chết

Theo thống kê mới nhất của Công ty TNHH Một thành viên Cây xanh Hà Nội, đến sáng nay 5/6, Công ty ghi nhận 155 trường hợp sự cố về cây xanh. Trong số đó, 119 trường hợp cây đổ, 36 trường hợp cành gãy gây ảnh hưởng đến giao thông, sinh hoạt của người dân. Ngoài ra, một số trường hợp cây nhỏ hoặc cành gẫy khác đã được người dân tự khắc phục.
Hàng trăm cây đổ, mưa ngập nhiều nơi ở Hà Nội
Cây xà cừ cổ thụ trong vườn hoa Mai Xuân Thưởng đổ chắn ngang đường, đè nát xe taxi, khiến 1 người tử vong.
Thiệt hại nặng nề nhất là vụ cây xà cừ cổ thụ ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng bật tung gốc, đè nát xe taxi do anh Nguyễn Hữu Dần (SN 1978, quê Trường Yên, Yên Mỹ, Chương Mỹ, Hà Nội) điều khiển, khiến anh này tử vong tại chỗ, chiếc xe biến dạng hoàn toàn. Một vị khách nữ ngồi ở ghế sau của chiếc taxi trên may mắn thoát nạn, chỉ bị choáng nhẹ.
Chiếc xe taxi biến dạng, tài xế tử vong, mắc kẹt trong xe.
Chiếc xe taxi biến dạng, tài xế tử vong, mắc kẹt trong xe.
Vụ việc còn gây ùn tắc giao thông vì cây xà cừ đổ chắn hoàn toàn cả 2 phần đường. Lực lượng chức năng đã phải cưa thân cây xà cừ đường kính lên tới 1,2m thành nhiều khúc để giải cứu chiếc xe taxi, đưa thi thể tài xế ra ngoài. Các chiến sỹ CSGT đội mưa phân luồng, hướng dẫn các phương tiền lưu thông qua khu vực xảy ra sự cố.
Tại ngã tư Trần Khát Chân - Kim Ngưu, một cây xà cừ lớn có đường kính thân cây khoảng 60cm cũng bị gió “quật ngã”, đè lên đường dây điện hạ thế, kéo gãy cột điện. Vụ việc khiến khu vực xung quanh bị mất điện, các phương tiện lưu thông qua khu vực này gặp nhiều khó khăn do dây cáp điện bị kéo võng xuống, cản trở giao thông.
Ngập úng nhiều nơi.
Ngập úng nhiều nơi.
Mưa lớn kèm giông, lốc đã làm hỏng nhiều biển quảng cáo trên phố Chùa Bộc, khiến 5 cây lớn đổ đè vào đường dây điện, kéo đổ gãy 3 cột điện, làm gián đoạn việc cung cấp điện  tại một số khu vực của quận Đống Đa như khu vực phố Trần Quang Diệu - Hoàng Cầu, Ngõ Giếng, Chùa Bộc, Đê La Thành, Nguyễn Khuyến, Giảng Võ, Đặng Văn Ngữ…
Ngay sau khi ngớt mưa, các cán bộ Công ty Điện lực Đống Đa đã tập trung toàn bộ lực lượng ứng trực có mặt tại hiện trường để khắc phục sự cố. Đến 20h cùng ngày 4/6, Điện lực Đống Đa đã khôi phục cấp điện trở lại cho hầu hết các khu vực như Chùa Bộc, Đê La Thành, Nguyễn Khuyến… Riêng khu vực Ngõ Giếng - Hoàng Cầu, do gốc cây quá to bị đổ đè trực tiếp lên đường dây và gây đổ cột, Công ty Điện lực Đống Đa vẫn tiếp tục huy động thêm lực lượng nhằm khôi phục hệ thống lưới điện ngay trong đêm.
Cây đổ kéo gẫy cột điện tại ngã tư Trần Khát Chân - Kim Ngưu.
Cây đổ kéo gẫy cột điện tại ngã tư Trần Khát Chân - Kim Ngưu.
Sáng 5/6, trao đổi với PV Dân trí, ông Nguyễn Xuân Hưng - Phó Giám đốc Công ty TNHH Một thành viên Cây xanh Hà Nội - cho hay, đối với các sự cố cây xanh trên các tuyến đường liên quan đến việc đi lại của các đại biểu Quốc hội, các nhân viên công ty đã thâu đêm xử lý, đảm bảo đường thông suốt vào buổi sáng.
“Các sự cố ít gây ảnh hưởng hơn như ở các vườn hoa, công viên, chúng tôi sẽ tiếp tục xử lý, nơi nào ảnh hưởng lớn sẽ khắc phục trước. Sáng nay, phía Công ty cũng nhận được tin báo từ các lực lượng chức năng quận, huyện và quần chúng nhân dân về một số sự cố cây xanh khác. Công ty đã cử cán bộ công nhân viên tiếp tục đi ghi nhận và sẽ khắc phục trong thời gian sớm nhất.” - ông Hưng cho biết.
Nhân viên Công ty Điện lực Đống Đa khắc phục sự cố ngay trong đêm.
Nhân viên Công ty Điện lực Đống Đa khắc phục sự cố ngay trong đêm.
Theo thông ty từ Công ty TNHH Một thành viên Thoát nước Hà Nội, trận mưa tối qua 4/6, đã khiến một số vị trí tại khu vực đang được xây dựng hạ tầng kỹ thuật, đô thị hóa hoặc không có hệ thống thoát nước như đường Phạm Văn Đồng, nút Mai Dịch, Phan Văn Trường, Trần Bình úng ngập với độ sâu 0,1- 0,2m. Giao thông tại một số khu vực này bị ảnh hưởng do có cây đổ.
Thời điểm mưa lớn, tình trạng mất điện đã xảy ra tại cửa điều tiết Hồ Tây, trạm bơm hồ Bảy Mẫu, trạm bơm Hầm chui Trung tâm Hội nghị Quốc gia. Đến thời điểm 20h cùng ngày, các vị trí ứng ngập cơ bản đã rút nước, giao thông đã hoạt động trở lại.
Tiến Nguyên

Đừng dựa vào nhu cầu ảo để xây sân bay

BTTD: Đất nước còn nghèo, dân khổ, có nơi các cháu học sinh dân tộc mỗi bữa ăn chỉ có 3000 đ... 

Hãy lo bảo vệ Tổ quốc, lo cho đời sống người lao động...nghèo đói sẽ biến loạn đó.

TT - Ngày 4-6, Quốc hội thảo luận Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hàng không dân dụng VN.

Đại biểu Lê Văn Học - Ảnh: V.DŨNG

Đại biểu Lê Văn Học - phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng - đề nghị Chính phủ rà soát lại quy hoạch phát triển ngành hàng không, bởi nếu dựa vào nhu cầu ảo để đầu tư xây dựng sân bay sẽ rất lãng phí, tốn kém.
Theo ông Học, quy hoạch phát triển ngành hàng không đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã được Chính phủ phê duyệt sẽ gồm 26 cảng hàng không, trong đó có 10 cảng hàng không quốc tế. Hiện nay ta đã có và đang khai thác 21 cảng hàng không, trong đó có bảy cảng hàng không quốc tế. Vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng cảng và sân bay giai đoạn 2011-2013 khoảng 28.650 tỉ đồng (khoảng 1,4 tỉ USD) chứng tỏ Nhà nước đầu tư rất lớn.
"Ngành hàng không dân dụng và giao thông vận tải không chỉ dựa vào những nhu cầu ảo, dự báo thiếu chính xác và chưa tin cậy để làm quy hoạch sẽ gây lãng phí và hiệu quả thấp, tốn kém cho xã hội"
Đại biểu Lê Văn Học
Điều đáng nói là trong thời gian vừa qua báo chí và các nhà khoa học có rất nhiều ý kiến về quy hoạch cảng hàng không, có những sân bay cách nhau chỉ hơn 100km, ví dụ từ sân bay Nội Bài đến sân bay Cát Bi, sân bay Thanh Hóa. Rồi sẽ xây dựng sân bay Long Thành tốn rất nhiều vốn. Trong khi chúng ta có bốn sân bay quốc tế vệ tinh gần sân bay Tân Sơn Nhất hoặc sân bay Long Thành, đó là sân bay Cần Thơ, sân bay Cam Ranh, sân bay Phú Quốc và sân bay Đà Lạt. Hiện tại chưa cần mở rộng và tăng công suất thì khả năng của bốn sân bay này đã có thể đạt đến hơn 20 triệu lượt hành khách/năm đến năm 2020 và 2025.
Từ những phân tích trên, đại biểu Học đề nghị: “Ngành hàng không dân dụng và giao thông vận tải không chỉ dựa vào những nhu cầu ảo, dự báo thiếu chính xác và chưa tin cậy để làm quy hoạch sẽ gây lãng phí và hiệu quả thấp, tốn kém cho xã hội. Tôi đề nghị Chính phủ điều chỉnh lại quy hoạch ngành hàng không thay cho quyết định năm 2009 và dự báo số lượng hành khách, hàng hóa qua các sân bay của VN vào năm 2020-2030 và tầm nhìn đến năm 2050 một cách chính xác”.
Tiếp tục dẫn số liệu, ông Học phân tích: hiện tại sân bay Tân Sơn Nhất mỗi năm có 76.800 chuyến, trong khi số liệu để làm sân bay Long Thành hoặc mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất là 120.000 chuyến/năm, gấp 1,5 lần. Như vậy đến năm 2020 sân bay Tân Sơn Nhất chưa hề quá tải. Ngoài ra, phải dựa vào một số tiêu chí khác để điều chỉnh quy hoạch hàng không, sân bay, ví dụ như vận tải hàng không có số lãi trên vốn đầu tư rất thấp, 10 năm qua thị trường vận tải hàng không quốc tế lỗ hơn 50 tỉ USD. Thị trường hàng không châu Á - Thái Bình Dương cũng chỉ phát triển dưới 10%/năm, do vậy lượng hành khách đi máy bay của VN chỉ khoảng 150 triệu lượt vào năm 2020.
Liên quan đến quy định giá, phí dịch vụ hàng không, nhiều ý kiến đồng ý với quy định trong dự thảo luật, theo đó giá cả theo quy luật cung cầu, cơ chế thị trường, có tính đến đặc thù của hàng không dân dụng. “Tinh thần là Bộ Giao thông vận tải vẫn phải quy định khung giá và quy định một số loại dịch vụ phí hàng không, trên cơ sở khung giá và phương pháp định giá sau khi đã phối hợp, thống nhất với Bộ Tài chính” - Phó chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu nói.
Sáng cùng ngày, Quốc hội đã nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - đầu tư Bùi Quang Vinh trình bày tờ trình về dự án Luật đầu tư (sửa đổi) và Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu trình bày báo cáo thẩm tra. Quốc hội sẽ thảo luận luật này trong những ngày tới.
LÊ KIÊN
* Đại biểu Nguyễn Bá Thuyền (phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng):
Chưa cần thiết khởi động ngay sân bay Long Thành
Việc quy hoạch sân bay Long Thành là cần thiết, tuy nhiên khởi động thì phải tính toán kỹ thời điểm. Theo tôi, chỉ khi nào sân bay Tân Sơn Nhất không đủ khả năng đáp ứng thì mới khởi động sân bay Long Thành. Còn bây giờ khởi động ngay sân bay này là chưa cần thiết vì ngốn ngân sách rất lớn - hoặc là tiền thuế của dân, hoặc là tiền vay nước ngoài, vay trong nước... Tôi sẽ tiếp tục lắng nghe ý kiến của người dân về vấn đề này và sẽ có tiếng nói của mình với vai trò là một đại biểu.
* Đại biểu Võ Thị Dung (phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM):
Lợi ích cục bộ
Trong thời gian qua và cho đến nay, đối với dự án sân golf trong sân bay Tân Sơn Nhất, có thể nói đây là một lợi ích cục bộ. Nếu vì lợi ích quốc gia và phát triển ngành hàng không thì chúng ta có thể sử dụng quỹ đất này để mở rộng sân bay, phục vụ nhu cầu phát triển ngành này, cũng góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách. Nếu nói đó là khu vực cần giữ để đảm bảo quốc phòng - an ninh, trong lúc chưa sử dụng cho các công trình cụ thể, thì quỹ đất đó cần sử dụng vào mục đích quy hoạch cây xanh, phục vụ không gian công cộng cho cư dân địa phương. Đó là chưa kể vấn đề an toàn bay và những yếu tố khác khi làm sân golf và các công trình liên quan. Do vậy, cá nhân tôi cho rằng đó là một dự án không phải để phục vụ lợi ích chung, mà mang tính cục bộ.
QUỐC THANH ghi

G7 ra tuyên bố chống vũ lực ở Biển Đông

Các lãnh đạo nhóm G7 bày tỏ quan ngại sâu sắc về những căng thẳng giữa TQ và một số quốc gia châu Á do tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông và Hoa Đông.

Tuyên bố chung của nhóm G7 cảnh báo chống lại bất kỳ nỗ lực nào trong viêc sử dụng vũ lực trong tranh chấp.
TQ, Biển Đông, giàn khoan, G7
"Chúng tôi quan ngại sâu sắc về căng thẳng ở Biển Đông và Hoa Đông. Chúng tôi phản đối bất kỳ nỗ lực đơn phương của bất kỳ nước nào nhằm khẳng định lãnh thổ hay tuyên bố chủ quyền hàng hải thông qua hăm dọa, áp chế hay sử dụng vũ lực”, các lãnh đạo G7 nêu rõ sau cuộc hội đàm ở Brussels tối qua.
"Chúng tôi kêu gọi tất cả các bên làm rõ và theo đuổi tuyên bố lãnh thổ, tuyên bố chủ quyền hàng hải phù hợp với luật pháp quốc tế”, G7 nhấn mạnh trong tuyên bố chung.
TQ đưa ra yêu sách chủ quyền với hầu hết Biển Đông bất chấp các nước Việt Nam, Brunei, Philippines, Malaysia có chủ quyền trong vùng biển này. Bắc Kinh cũng có tranh chấp với Nhật về quần đảo Senkaku/Điếu Ngư ở Hoa Đông.
Căng thẳng trong các vùng biển khu vực đã gia tăng mạnh thời gian gần đây khi TQ có những hành động đơn phương khiêu khích như triển khai giàn khoan ở vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại Biển Đông; điều máy bay áp sát máy bay Nhật tại vùng tranh chấp Hoa Đông…
Hội nghị thượng đỉnh G7 diễn ra trong hai ngày 4-5/6. Các quốc gia G7 gồm Nhật, Anh, Canada, Pháp, Đức, Italy và Mỹ.
Thái An (theo Reuters)

Đại biểu chất vấn Thủ tướng về nhà thầu TQ


Thủ tướng trả lời chất vấn trực tiếp tại kỳ họp thứ sáu, cuối năm 2013.
Thủ tướng trả lời chất vấn trực tiếp tại kỳ họp thứ sáu, cuối năm 2013.

Theo tổng hợp của đoàn thư ký kỳ họp, tính đến chiều ngày 2/6/2014, đã có 95 văn bản chất vấn với 110 câu hỏi gửi đến Thủ tướng và các thành viên khác của Chính phủ.

Trong đó, mới có hai vị gửi văn bản chất vấn Thủ tướng. Như vậy, so với kỳ họp cuối năm 2013,số chất vấn bằng văn bản dành cho Thủ tướng đã giảm đi quá nửa.

Ở nội dung thứ nhất, một vị trưởng đoàn đại biểu Quốc hội của một thành phố lớn dẫn số liệu của Ủy ban Tài chính - Ngân sách, tính đến năm 2010 có đến 90% các dự án tổng thầu EPC của Việt Nam do nhà thầu Trung Quốc đảm nhận.

Trong đó, nhiều trường hợp chậm trễ, kéo dài thời gian thi công rồi yêu cầu chủ đầu tư bù giá làm đội vốn đầu tư. Ví dụ: nhà máy Tân Rai, Nhân Cơ do nhà thầu Chalieco của Trung Quốc là đơn vị tổng thầu thi công, với tổng mức đầu tư vượt lên lần lượt tới hơn 15.400 tỷ đồng và 16.800 tỷ đồng; tăng 3.800 tỷ đồng và 4.300 tỷ đồng so với dự kiến ban đầu.


Đáng chú ý là trong số chậm trễ đó có tới 30 dự án trọng điểm quốc gia, có nhiều dự án “tỷ đô” của ngành điện…

“Ở nước ta, nhiều dự án hạ tầng lớn đều do doanh nghiệp Trung Quốc trúng thầu thì vấn đề an ninh năng lượng, an ninh quốc gia, hiệu quả đầu tư… thật sự rất đáng lo ngại, nhất là trong tình hình biển Đông hiện nay”, văn bản chất vấn nêu.

Đề nghị của đại biểu này là “Chính phủ cần làm rõ trách nhiệm của mình cũng như các bộ, ngành liên quan trong việc tham mưu đề xuất cho nhà thầu Trung Quốc trong thời gian vừa qua. Chính phủ có giải pháp gì để sớm khắc phục tình trạng trên trong tình hình hiện nay?”.

Cùng một văn bản, nội dung chất vấn thứ hai của vị trưởng đoàn liên quan đến Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC).

Theo người chất vấn, việc VAMC mua nợ xấu từ các ngân hàng thương mại và trả bằng trái phiếu tuy góp phần làm “sạch” nợ xấu và tăng nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại. Nhưng về thực chất, mới thực hiện việc gom các khoản nợ xấu từ các ngân hàng thương mại về VAMC. Nói cách khác, đó chỉ là bút toán chuyển nợ xấu từ tài khoản của các ngân hàng thương mại sang tài khoản của VAMC.

Theo đó, tổng số nợ xấu gom về VAMC ngày càng lớn lên (đến nay đã khoảng trên 50 ngàn tỷ đồng) dẫn đến kết quả là, tổng số nợ xấu chuyển về Ngân hàng Nhà nước cũng như Chính phủ sẽ ngày càng lớn hơn.

Chính phủ cần làm rõ vấn đề nêu trên và có giải pháp nào xử lý các khoản nợ xấu ngày càng lớn tại VAMC, văn bản chất vấn nêu đề nghị của đại biểu.

Người thứ hai gửi chất vấn đến Thủ tướng là một vị đại biểu đoàn Đồng Tháp.

Thời gian qua, xảy ra tình trạng sử dụng hóa chất độc hại trong thực phẩm, chất tăng trưởng không nhãn mác, không rõ nguồn gốc và chất lượng được bày bán công khai ở mọi nơi, từ thành thị đến nông thôn. Người dân và dư luận xã hội chỉ biết là những chất trên có hại cho sức khỏe một cách chung chung, mà chưa thấy cơ quan có trách nhiệm nào kịp thời công bố công khai, chính thức thành phần, tính chất cũng như tác hại của việc sử dụng để người dân tự ý thức bảo vệ chính mình, đại biểu viết.

Theo đại biểu, thực trạng trên cho thấy sự phân công và phối hợp thực hiện nhiệm vụ giữa các bộ, ngành có lúc trùng lắp, chồng chéo, có lúc lại không quy rõ trách nhiệm khi xảy ra những bức xúc trong dư luận xã hội.

Thủ tướng có suy nghĩ gì về thực trạng trên; giải pháp để chấn chỉnh những bất cập này, đại biểu nêu câu hỏi.

Nếu trực tiếp đăng đàn, người đứng đầu Chính phủ sẽ trực tiếp trả lời chất vấn trước Quốc hội vào chiều 12/6 tới.
Theo Nguyên Hà
VnEconomy

TQ khoan trúng "núi lửa", loay hoay trong sự bẽ bàng


(Quan hệ quốc tế) - Giàn khoan Hải Dương 981 được sử dụng như một hòn đảo di động để giành chủ quyền, nhưng chính giàn khoan này đang lôi TQ vào một vũng lầy khó thoát
Mục đích và thực tế
Đầu tháng 5/2014, Trung Quốc mang đến vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam một giàn khoan nửa chìm, công nghệ tiên tiến bậc nhất thế giới, được người Trung Quốc tung hô là "tượng đài của sức mạnh năng lượng Trung Quốc."
Tuy nhiên, không chỉ sử dụng trong mục đích kinh tế, giàn khoan này còn được Bắc Kinh sử dụng như một hòn đảo di động để áp đặt việc giành giật chủ quyền trên biển. Theo kế hoạch đề ra, Hải Dương 981 sẽ khoan thử nghiệm tại khu vực vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Nhưng thực tế, phía Việt Nam cho rằng nơi đây khả năng cao không có dầu. Vậy Trung Quốc muốn khoan cái gì ở đó?
Họ muốn khoan thử nghiệm vào phản ứng của thế giới trước sự ngang ngược, bất chấp của họ. Họ muốn khoan thử vào lòng dân Việt Nam, để xem xem sau gần 40 năm kết thúc chiến tranh, nhiều thế hệ mới ra đời, quen sống trong nhung lụa đầy đủ có còn lòng tự tôn dân tộc như ngày còn chiến tranh, còn nghèo khổ.
Có lẽ, đó mới chính là những mũi khoan mà Trung Quốc muốn thử nghiệm. Tiếc rằng, lần này Trung Quốc đã khoan phải miệng núi lửa chứ không phải mỏ dầu. Giàn khoan Hải Dương 981 đã kích hoạt lòng yêu nước của người dân Việt Nam, và đây cũng là thứ vũ khí mãnh liệt nhất, lợi hại nhất mà dân tộc nhỏ bé này có, từ bao đời nay.
Giàn khoan Hải Dương 981 (Haiyang Shiyou 981) và tàu kéo bảo vệ
Giàn khoan Hải Dương 981 (Haiyang Shiyou 981) và tàu kéo bảo vệ
Đồng thời, giàn khoan Hải Dương 981 đã làm Việt Nam tỉnh táo trước những sự hữu nghị viển vông. Như ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia nói trong cuộc họp báo quốc tế về tình hình Biển Đông hôm 23/5, khi phóng viên hỏi về vấn đề mối quan hệ hữu nghị và 16 chữ vàng với Trung Quốc: “Xin khẳng định việc chủ quyền lãnh thổ hết sức thiêng liêng với dân tộc Việt Nam, nên không thể đánh đối được. Vàng rất quý, nhưng chủ quyền quốc gia còn quý hơn vàng.”
Việt Nam cũng nhận thấy rằng cần phải có những sự cẩn trọng hơn với Trung Quốc, từ chính trị, xã hội, kinh tế, quân sự.... Một giàn khoan Hải Dương 981 như một giọt nước làm tràn ly, Việt Nam đã nhận thấy nhiều điều, cần xem xét nhiều thứ, mà trên hết, chủ quyền đang bị đe doạ.
Còn quốc tế, Bắc Kinh sai lầm lớn hơn trên phương diện này. Họ bày ra những lời biện minh ngây ngô, nào là tàu cá Việt Nam muốn tấn công giàn khoan nên tự chìm, nào là cảnh sát biển Việt Nam đâm lực lượng chấp pháp Trung Quốc 171 lần, nào là tàu kiểm ngư Việt Nam tấn công tàu cá vỏ sắt Trung Quốc...
Bắc Kinh quên rằng thế giới đang ở thế kỷ 21, khi đang ở trong một "thế giới phẳng," bạn sẽ không thể che giấu điều gì. Đây không phải cuộc đấu khẩu giữa Bắc Kinh và Hà Nội, bởi những phóng viên quốc tế đang làm nhiệm vụ tương tự như những quan sát viên Liên Hợp Quốc, và sự thực được phơi bày trước ống kính của họ.
Bà Phó Oánh - thiên tài hùng biện của Trung Quốc đã đến Shangri-la quyết đọ thiệt hơn
Bà Phó Oánh - thiên tài hùng biện của Trung Quốc đã đến Shangri-la quyết đọ thiệt hơn
Tại hội nghị Shangri-La 2014, theo phái đoàn của Trung Quốc có một nhân vật rất đáng chú ý là bà Phó Oánh. Nhân vật này được báo chí phương Tây xưng tụng là người phụ nữ có tài hùng biện nhất Trung Quốc, là "nắm đấm thép bọc nhung," là người có khả năng "thổi tung bất kỳ ai ra ngoài Trái Đất bằng lời nói." Nhân vật này đủ cho thấy Trung Quốc muốn hơn thua ở diễn đàn này.
Nhưng thực tế, dù cho có một Phó Oánh hay mười Phó Oánh thì một sự thực mà Bắc Kinh đang phải thừa nhận, chính họ đã tự thổi mình ra khỏi thế giới khi không nhận được bất kỳ một lời ủng hộ nào cho chiến lược, sách lược chủ quyền của họ.
Đồng thời, Trung Quốc đã tạo ra một cái cớ để Nhật Bản bất chiến tự nhiên thành. Thay vì chạy đua tiền bạc với Trung Quốc trong những gói đầu tư, những nguồn vốn vay ưu đãi, Nhật Bản bỗng dưng trở thành người nói lời chính nghĩa, là bậc quân tử. Nhật Bản tỏ ra cho ASEAN thấy có đại nạn mới tỏ tình bằng hữu, và ASEAN chắc chắn sẽ nắm lấy bàn tay mà Nhật đang chìa ra. Trong cuộc đua ngoại giao, ảnh hưởng này, Trung Quốc thua rồi.
Bị cô lập đã là tồi tệ, nhưng tự cô lập còn nguy hiểm hơn nhiều. Trung Quốc có cả hai hoàn cảnh này. Cái giàn khoan không có lỗi, lỗi là ở những người áp đặt mục đích lên nó, và Bắc Kinh không chỉ muốn khoan thử dầu mà còn muốn nhiều phép thử khác, và thực tế mọi phép thử đều khiến họ bẽ bàng.
Việt Nam có thể làm gì?
Dù biết rằng giàn khoan Hải Dương 981 kéo Trung Quốc vào một bãi lầy, nhưng thói dân tộc chủ nghĩa, quan điểm thiên triều ăn sâu vào tiềm thức những người lãnh đạo Trung Quốc thì khó có thể thay đổi. Họ cho rằng họ đang dư thừa sức mạnh, bãi lầy đang kéo họ xuống kia, họ lại nghĩ rằng đã đặt một chân lên việc hiện thực hoá giấc mơ đẹp về một Đại Trung Hoa.
Việt Nam lên án, thế giới phản đối, cô lập hoàn toàn, nhưng với giàn khoan này, Trung Quốc lâm vào ba trường hợp: hoặc cố đấm ăn xôi, chịu nhiều tốn kém, duy trì đến đúng lộ trình tháng 8 thì rút về. Hoặc rút ngay về nước hay một căn cứ quân sự nào gần đó. Ba là để luôn cái giàn khoan ấy ở lại Hoàng Sa hoặc xa hơn là Trường Sa.
Biện pháp một là thượng sách, hai là trung sách, ba là hạ sách với Trung Quốc. Nhưng nếu Bắc Kinh dùng phương pháp thứ ba, điều này chứng tỏ khát vọng, dã tâm của Trung Quốc là đã không thể kìm chế được nữa.
Trong những hoàn cảnh đó, Việt Nam làm được gì? Điều khả dĩ nhất lúc này là kiện Trung Quốc ra toà án quốc tế. Nếu kiện, Việt Nam sẽ thắng. Nếu thắng, thì đó cũng chỉ là chiến thắng trên bàn ngoại giao, trên phương diện thủ tục pháp lý. Trung Quốc không phải một kẻ tôn trọng luật pháp cho lắm.
Ba tàu Trung Quốc vây đánh tàu kiểm ngư của Việt Nam
Ba tàu Trung Quốc vây đánh tàu kiểm ngư của Việt Nam
Bên cạnh đó, cần một sự chuẩn bị. Sự chuẩn bị ở đây không chỉ là mua sắm khí tài quân sự hay tăng chi tiêu quốc phòng. Việt Nam cần phải có một sự đầu tư hơn về quan hệ quốc tế, chuẩn bị những đường lùi cho mình khi đối tác chính của nền kinh tế là Trung Quốc có trắc trở…
Và biện pháp tốt nhất vào thời điểm này, đó là quốc tế hóa, đưa vấn đề Biển Đông ra thế giới một cách công khai, Việt Nam có thể hoàn toàn mang những lợi ích kinh tế trên vùng đặc quyền của mình để hợp tác với đa dạng các quốc gia.
Làm được điều này, Trung Quốc có muốn nuốt Biển Đông cũng phải bước qua nhiều cường quốc, Việt Nam bất chiến tự nhiên thành.
Đỗ Minh Tú