Trang

29 tháng 4, 2014

Thăm tư dinh cựu TBT Lê Khả Phiêu


BTTD: Lê Khả Phiêu- người đầy tớ trung thành, tận tụy của nhân dân Việt Nam.

1.  Thăm nhà...
...
Ngày 28 Tháng Chạp Âm lịch (24 Tháng Giêng Dương lịch), Ban Liên Lạc Ðồng Hương Thanh Hóa ở Hà Nội đã đến tư gia ông Lê Khả Phiêu để chúc Tết, tặng quà cho cựu tổng bí thư đảng, với đại diện là các ông: Lê Thế Chữ - trưởng Ban Liên Lạc Ðồng Hương Thanh Hóa, Lê Xuân Thảo - trưởng ban doanh nghiệp đồng hương Thanh Hóa, Hoàng Văn Ðoàn - phó ban doanh nghiệp đồng hương Thanh Hóa, Lữ Thành Long - tổng giám đốc công ty Misa, Nguyễn Hồng Chung - chủ tịch công ty Luật Ðại Việt, Bùi Việt Hà - giám đốc công ty HINCO, Nguyễn Hữu Hùng - công ty Truyền Thông Dầu Khí Việt Nam, Lê Xuân Tiến Trung - công ty Việt FT và một số người khác, cùng là dân Thanh Hóa.

Các thành viên trong đoàn đã được ông Lê Khả Phiêu đưa đi thăm tư gia và không rõ ai đó đã đưa hàng loạt ảnh lên Internet để tất cả mọi người có thể tận mắt mục kích.  Lê Khả Phiêu còn tặng cho các thành viên đến thăm, mỗi người một cuốn sách do Lê Khả Phiêu tự viết về mình với tên sách là... “Mênh mông tình dân”)?
...
Theo Phan Việt Ðăng

2. Sau đây là một số hình ảnh buổi gặp mặt bác Lê Khả Phiêu:

 


Trên đường đến nhà bác Lê Khả Phiêu



Nơi ở trước của bác Lê Khả Phiêu trên đường Hoàng Diệu



Quà cáp cho bác nho nhỏ thôi, đổi lại tình cảm của bác với nhân dân đất nước mới quan trọng.



Nhà mới của bác Lê Khả Phiêu.






Trong nhà bác toàn những hiện vật quý giá mang đậm tinh thần dân tộc, và cả vị "cha già dân tộc" nữa, tất cả mọi người trên đất nước Việt nam này đều là "con cháu của bác Hồ".



Nhìn phong bì thế thôi chứ trong đó "không có tiền đâu", chỉ là thư "thăm hỏi sức khỏe" bác.
Nhưng bác dặn lần sau đến thăm bác là được rồi, đời sống dân mình đang khó khăn,
đừng bày vẽ quà cáp gì mà lãng phí.




Gặp mặt bác Lê Khả Phiêu tại phòng khách.


Thăm quan nhà bác Lê Khả Phiêu. Mọi người đều ngưỡng mộ con người "học cao hiểu rộng"
của bác, cả 1 tủ sách đồ sộ với tư tưởng Mác Lê nin, Mao Trạch Ðông, Hồ Chí Minh!



Thăm quan phòng thư viện: Hình cụ Mác cụ Lê đặt trang trọng trên cùng chính giửa, bác Hồ
chỉ dưới 1 chút thôi. Còn 2 bên là trống đồng và chữ Tâm bằng vàng. Trống đồng tuy là
nét biểu trưng của văn hóa dân tộc nhưng giờ đã là "thời đại Hồ Chí Minh" rồi
không nên ôm quá khứ mà phải học "cái hay cái đẹp" của "tư tưởng Hồ Chí Minh"!




Chụp ảnh lưu niệm với tượng bác Lê Khả Phiêu bằng đồng




Ảnh chân dung bác Lê Khả Phiêu, dưới là cặp ngà voi nho nhỏ xinh xinh
(giá thị trường hơn 50 nghìn đô)




Tư liệu về các cuộc gặp mặt với các nguyên thủ quốc gia các nước



Bác Phiêu đang giới thiệu với bác Lê Thế Chữ về những bức ảnh ghi lại những
năm tháng mà bác đã vất vả lao động cống hiến cho đồng bào quốc dân



Ngôi nhà mới hoàn thiện, nên đang còn một số bề bộn


Nhà bác thật văn hóa, đi đâu cũng thấy sách




Bác cũng là 1 người rất đam mê nghê thuật và biết thưởng thức cái đẹp
Hình như phải bỏ cái móc áo quần vào giữa bức tranh mới đẹp, nghệ thuật mà


Quang cảnh nhìn từ tầng 4


Tuy biết cộng sản là vô thần vô thánh nhưng tối nào trước khi đi ngủ cũng
lạy bác phù hộ độ trì cho sống lâu để phục vụ nhân dân được tốt hơn



Vườn rau sạch nhà bác Phiêu
Vì thực phẩm trên thị trường rất độc hại nên nhà bác phải trồng rau sạch để ăn


Nhìn sang bên phải là Bộ Quốc Phòng, nơi có sân bay trực thăng, để lỡ
đất nước có chuyện gì là bác sẽ là người bay đi công tác trước tiên


Nhìn về xa xa là Cột cờ Hà Nội


Nhà bên cạnh là nhà riêng của Đại tướng Chu Huy Mân, các bác phải sống
gần nhau để tối lửa tắt đèn có nhau, tình cảm đồng chí đáng quý biết bao



Phòng làm việc của trợ lý bác Phiêu với những vần thơ làm xúc động lòng người :
"Hồ Chí Minh người sống mãi đời với non sông Việt Nam và trong tái tim nhân loại"





Cuốn sách về bác Lê Khả Phiêu được bác tặng cho mọi người, "Mênh mông tình dân",
ôi tình cảm nhân dân dành cho đảng và nhà nước thật nhiều, thử hỏi trên
giải đất hình chữ S này có nơi nào mà không mang ơn bác và đảng!


Món quà của Ban liên lạc tặng bác Phiêu nhân ngày sinh nhật.



Mình đã đi nhiều nhà lãnh đạo, và thật thương bác Phiêu vì nhà bác sao mà đơn sơ quá, còn thua xa cả những lãnh đạo cấp nhỏ ở tỉnh mình nữa. Đoàn đại biểu rời nhà bác Lê Khả Phiêu ai nầy trong lòng đều trào dâng niềm xúc động về một con người đã một đời vì dân vì nước, chúng cháu hứa đời này kiếp này làm lãnh đạo có vất vả khổ cực đến đâu cũng sẽ học theo gương bác.
 (Nguồn: internet )
 

 


28 tháng 4, 2014

TT Nguyễn Văn Thiệu mang gì khi rời Sài Gòn năm 1975 ?

Đăng Bởi  - 

Nguyễn Văn Thiệu luôn đa nghi và  tính toán trong lá bài của mình. Ảnh TL
Nguyễn Văn Thiệu luôn đa nghi và tính toán trong lá bài của mình. Ảnh TL

Ngày 25.4.1975, đại sứ Martin điện cho Kissinger báo rằng đã nghĩ ra cách đưa Thiệu và Khiêm rời khỏi miền Nam bí mật. Martin giao cho tướng Timmes tổ chức cuộc ra đi. Chuyến bay của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mang số 231 đi Đài Loan vào lúc 9 giờ 20 đã mang theo 18 tấn vàng của ngân khố Sài Gòn?...

Lý Quí Chung (1940-2005), bút danh Chánh Trinh, là một nhà báo, và cũng là một dân biểu và nghị sĩ đối lập dưới thời chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Ông từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin trong chính phủ tồn tại 2 ngày của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa cuối cùng Dương Văn Minh. Ông là một nhân vật có điều kiện nhìn sâu vào bên trong bộ máy chính quyền Sài Gòn. Từ góc nhìn của ông, người đọc có thể thấy những sự kiện, biến động chính trị - xã hội, cũng như một số góc khuất trong chính trường Sài Gòn từ 1965 đến 1975.
Ông mất ngày 3.3.2005 tại Sài Gòn.
Nhân kỷ niệm ngày 30.4, Báo điện tử Một Thế Giới trích giới thiệu một số tư liệu trong "Hồi ký không tên" của ông. Mời các bạn theo dõi!

 Nhà báo Lý Quý Chung (giữa), tướng Dương Văn Minh (trái)
Kỳ 1.
Không khí tại Dinh Hoa Lan rộn rịp lên sau tuyên bố từ chức của ông Thiệu.
Cựu trung tướng Trần Văn Đôn, nghị sĩ quốc hội, thất bại trong việc toan tính tự giới thiệu mình với Pháp như một ứng cử viên thay Thiệu, giờ chót quyết định ủng hộ người bạn xưa của ông là cựu trung tướng Dương Văn Minh. 
Tướng Đôn trước đây hầu như không thấy xuất hiện ở Dinh Hoa Lan, bây giờ vô ra thường xuyên. Tuy Dương Văn Minh và Trần Văn Đôn cùng tham gia cuộc lật đổ hai anh em Diệm – Nhu và đều xuất thân là những sĩ quan quân đội Pháp nhưng ngoài đời hai người rất ít quan hệ với nhau vì tánh tình rất khác nhau.
Ông Minh thích thể thao từ nhỏ, đã từng là thủ môn của đội bóng Thủ Dầu Một những năm 40, một đấu thủ quần vợt có hạng và mãi sau này ông vẫn cầm vợt ra sân tuần ba buổi tại câu lạc bộ CSS. Khác với phần đông các tướng lãnh Sài Gòn đều mê gái, ông Minh có một cuộc sống gia đình rất gương mẫu. 
Tướng Đôn ngược hẳn: ông như nhân vật Don Juan, các phụ nữ đẹp trong giới thượng lưu Sài Gòn khó thoát khỏi tay ông nếu lọt vào tầm ngắm của ông. Dù không hợp nhau nhưng Minh và Đôn vẫn tôn trọng nhau.
Người ta cũng thường thấy xuất hiện một số tướng về hưu như trung tướng Nguyễn Hữu Có, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh… Thẳng thắn mà nói số tướng tá chung quanh ông Minh lúc này không có nhiều và cũng ít có gương mặt nổi bật. Các tướng tá đương quyền, thuộc thế hệ sau, đều phò Thiệu hoặc Kỳ. 
Nếu xảy ra một cuộc đối đầu quyền lực với Nguyễn Cao Kỳ, chắc chắn nhóm ông Minh sẽ gặp khó khăn. Lực lượng của ông Minh quá mỏng. Do lâu ngày tách khỏi quân đội, ông Minh không còn tay chân thân tình của mình trong hàng tướng tá. 
Trong các buổi họp hàng tuần của nhóm ông Minh chỉ thấy có mặt hai nhân vật quân sự thuộc thế hệ đã qua: đó là cựu trung tướng Mai Hữu Xuân và cựu trung tướng Lê Văn Nghiêm, đều không còn ảnh hưởng trong quân đội.
Khi nhân vật tình báo Mỹ Charles Timmes gián tiếp nói cho Kỳ biết đại sứ Mỹ Martin ủng hộ giải pháp Dương Văn Minh và không ủng hộ cá nhân ông, Kỳ không giấu giếm lập trường của ông là sẽ chống ông Minh không khác chống cộng sản. Tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ vẫn nuôi tham vọng trở lại chính trường. 

Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu chưa bao giờ tin nhau 
Ngay sau khi Thiệu ra lệnh rút khỏi Ban Mê Thuột, từ Khánh Dương trên Cao Nguyên – nơi ông có một nông trại – Kỳ đáp máy bay trực thăng về Sài Gòn nhờ tướng Cao Văn Viên, đang là tổng tham mưu trưởng, thuyết phục Thiệu giao quân cho Kỳ đi ngăn chặn sự tiến quân của quân giải phóng và bảo vệ Sài Gòn. Trong hồi ký của mình (“Buddha’s Child”), Kỳ kể đã gặp Cao Văn Viên.
Kỳ hỏi” “Tình hình Ban Mê Thuột thế nào rồi?”.
Viên đáp: “Rất khó khăn. Chúng ta không có thừa quân vì phải bảo vệ Sài Gòn”.
Kỳ: “Tôi không cần nhiều quân. Cho tôi vài tiểu đoàn thủy quân lục chiến hoặc dù, và chừng 20 đến 25 chiến xa, tôi sẽ tìm cách phá vỡ sự bao vây. Tôi sẽ trực diện với quân địch và chiến đấu”.
Dừng một lúc, Kỳ hỏi Viên: “Anh có nghĩ là tôi sẽ thành công?”
Viên trả lời: “Nếu anh chỉ huy lực lượng đó, tôi nghĩ là thành công”.
Kỳ: “Vậy thì hãy để tôi hành động”.
Viên: “Đáng tiếc tôi không ở vào vị trí có thể lấy một quyết định như thế. Quyết định này thuộc thẩm quyền của tổng thống Thiệu”.
Kỳ: “ Ô kê, hãy gọi cho Thiệu, báo cho ông ta tôi đang ở đây và nói với ông ta biết đề nghị của tôi…”
Viên gọi điện cho Thiệu, nhưng tổng tham mưu trưởng không nói chuyện được với vị tổng chỉ huy của mình. Thông qua một tùy viên của Thiệu, Viên để lại một báo cáo. Nhưng sau đó, viên trợ lý này gọi lại tướng Viên và cho biết:
“Tổng thống cảm ơn tướng Kỳ rất nhiều về đề nghị của ông nhưng tổng thống cần có thời gian để suy nghĩ về đề nghị của ông”.
27 năm có đủ lâu để suy nghĩ cho một quyết định như thế? Tôi vẫn chờ câu trả lời của Thiệu. Có lẽ  ông ta sợ tôi sẽ làm gì đó tại Sài Gòn với đơn vị xe tăng hơn là sợ đối phương có thể làm gì với quốc gia”.
Thật sự đây chỉ là canh bạc xì phé mà Kỳ tung ra với Thiệu. Cả Cao Văn Viên và Nguyễn Văn Thiệu không ai tin rằng Kỳ sẽ cầm quân ra mặt trận vào lúc đó và sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ cái ghế tổng thống của Thiệu. 
Điều mà cả hai nghĩ là có quân trong tay Kỳ sẽ tính tới lật đổ Thiệu và giành lấy quyền bính mà ông ta đã để lọt ra khỏi tay hồi năm 1967. Tự cho mình quá hiểu Kỳ, Thiệu đương nhiên gạt qua một bên “đề nghị viển vông” ấy.
Vào lúc CIA có  ý định lật đổ Thiệu, ông Kỳ lại được nhà báo Mỹ Robert Shaplen của báo New Yorker tích cực vận động để quay trở lại chính quyền. Từ đầu Shaplen luôn ủng hộ Kỳ. Shaplen có ảnh hưởng khá lớn đối với tòa đại sứ Mỹ, nhưng cuộc vận động này bất thành. Nếu quân giải phóng chưa vào Sài Gòn ngày 30-4-1975, chắc chắn Kỳ cũng sẽ tìm cách đảo chính ông Minh.
Chân dung Nguyễn Văn Thiệu 
Ngày 25-4-1975, ông Thiệu rời Sài Gòn một cách bí mật; địa chỉ đến là Đài Loan. Trước đó, quyền tổng thống Trần Văn Hương thúc hối đại sứ Martin phải áp lực để ông Thiệu rời Việt Nam sớm bởi “sự hiện diện của ông Thiệu gây khó khăn cho ông”! 
Từ ngày 21-4 sau khi tuyên bố từ chức, ông Thiệu và gia đình vẫn ở trong Dinh Độc Lập. Ông Thiệu rời Dinh Độc Lập vào lúc 7 giờ 30 tối. Cùng đi với ông Thiệu có tướng Trần Thiện Khiêm, cựu thủ tướng và là người bạn thân của Thiệu. 
Bà Thiệu và bà Khiêm đã rời Sài Gòn trước đó vài ngày. Bà Khiêm mang theo cả người giúp việc. Theo sự tố giác của linh mục Đinh Bình Định, người rất gần gũi với linh mục Trần Hữu Thanh, thì trong quân đội vào đầu tháng 3 có nhen nhúm một kế hoạch kết hợp Thiệu và Khiêm thành một liên danh tranh cử tổng thống nhiệm kỳ 3 vào cuối năm 1975, nếu chế độ Sài Gòn còn kéo dài. Chính Thiệu cũng từng tiết lộ kế hoạch này với đại sứ Martin và cho rằng nếu ông làm tổng thống một nhiệm kỳ nữa thì ông sẽ có điều kiện mở rộng dân chủ!
Chi tiết về cuộc “trốn chạy” của ông Thiệu – vâng phải gọi đó là cuộc trốn chạy – được các tài liệu CIA sau này tiết lộ như sau:
Ngày 25-4-1975, đại sứ Martin điện cho Kissinger báo rằng ông ta đã nghĩ ra cách đưa Thiệu và Khiêm rời khỏi miền Nam một cách bí mật. Martin giao cho tướng Mỹ Timmes tổ chức cuộc ra đi của Thiệu.
Timmes điện cho Thiệu và cho biết ông ta có thể dùng một chiếc trực thăng để  đưa Thiệu từ Dinh Độc Lập đến phi trường Tân Sơn Nhất. Nhưng ông Thiệu trả lời rằng ông ta muốn đi bằng ô tô để ghé tổng tham mưu trước và “uống một ly rượu với 22 tướng tá” đến chào từ biệt ông ta tại đây. 
Hình như nơi Thiệu và Khiêm ghé lại là nhà riêng của ông Khiêm. Từ tổng tham mưu, Chính nhân viên CIA Frank Snepp và tướng Timmes đưa Thiệu và Khiêm vào sân bay. Timmes giới thiệu Snepp với Thiệu: “Đây là một chuyên viên phân tích cừ khôi của tòa đại sứ, hơn nữa anh còn là một tài xế đẳng cấp”. 
Khi ô tô đi vào sân bay quân sự Tân Sơn Nhất, Timmes khuyên ông Thiệu cúi người xuống “như thế an toàn cho tổng thống”. Timmes sợ lính gác nhận ra tổng thống của họ chạy ra nước ngoài và biết đâu sẽ manh động. Timmes hỏi bà Thiệu và con gái, ông Thiệu trả lời: “Họ đang shopping ở Lon Don mua đồ cổ". 
Đại sứ Martin đứng chờ sẵn ông Thiệu bên cạnh chiếc máy bay C-118. Trước khi lên máy bay ông Thiệu vỗ vai cảm ơn Frank Snepp. Trong bài viết riêng của mình liên quan đến giây phút này  trong quyển “The VietNam War rememberd from all sides” của Christain G. Appy, Frank Snepp có kể rằng ông Thiệu bắt tay Sneep và nói  “tiếng Anh bằng giọng Pháp” với Snepp rằng: “Cảm ơn, cảm ơn tất cả mọi chuyện”. 
Nhưng sau đó Snepp lại tự hỏi ông Thiệu cảm ơn chuyện gì? “Tôi nghĩ chúng ta (tức người Mỹ) đã mất 58.000 thanh niên tại đây – ông Thiệu cảm ơn chuyện đó? Hay đơn giản cảm ơn vì bản thân mình chuồn đi được?” Đại sứ Martin theo Thiệu vào tận bên trong máy bay. 
Ông ta nói với Thiệu “Chúc may mắn” rồi mới bước xuống lên ô tô của mình. Chuyến bay của Thiệu mang số 231 đi Đài Loan vào lúc 9 giờ 20. Có tin đồn Thiệu mang theo 16 tấn vàng của ngân khố Sài Gòn. Thật sự số vàng ấy vẫn ở lại miền Nam. Nhưng theo Kỳ thì “ Thiệu mang theo 17 tấn hành lý và nhiều triệu đô la tiền mặt. Ông ta không cần chuồn với số vàng của ngân khố quốc gia”.
Dân Sài Gòn dửng dưng (và không ngạc nhiên) khi hay tin sự “trốn chạy” của Thiệu ra nước ngoài. Họ không ngạc nhiên vì Nam Việt Nam đã từng chứng kiến không biết bao nhiêu những cuộc đào tẩu như thế của những kẻ một thời lãnh đạo Miền Nam. 
Trường hợp của ông Thiệu cũng thế thôi, nằm trong sự dự đoán trước của nhiều người. Trung tá phi công Minh, bạn học của Hoàng Đức Nhã ở Lycee Yersin Đà Lạt, được Nhã kéo về chỉ huy đội bay trực thăng riêng của tổng thống Thiệu trong nhiều năm, gặp tôi ở Dinh Độc Lập tối 29-4-1975 đã bày tỏ sự bất mãn của anh với cách cư xử của Thiệu đối với những người đã từng là thân tín của ông ta.
Lý Quí Chung
1 Bình luận
  • Quốc Phòng
    8:33 - Ngày 29/4/2014

    Chuyện có hay ko việc Tổng thống Thiệu mang 16 tấn vàng ra nước ngoài khi đào tẩu khỏi Việt Nam . Tôi xin kể lại câu chuyện có thật mà tôi được 1 người gần như trong cuộc kể vói tôi. Câu chuyện đã cả chục năm nên tôi ko còn nhó tên các nhân vật . Số là khi báo Thanh niên đăng dài kì về chiến công hiển hách của nhóm chuyển tiền của cách mạng vào Sài Gòn do ông cựu Thống đốc Minh Châu chỉ huy. Có một bà tuổi khoảng trên 70 có gặp tôi cung cấp thông tin báo Thanh niên đề cập vụ 16 tấn vàng đó đã chuyển theo máy bay cùng ông Thiệu chưa ? Bà cho biết chồng bà , sau giải phóng là Phó tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương ( bây giờ) , CHƯ lúc đó tên gọi hơi khác . Bà nói , trong lúc chồng bà chuẩn bị sang Liên Xô , bà có chuẩn bị quần áo cho ông thì có hỏi chồng mình đi có lâu không để còn biết mà xếp đồ . Ông nói nhỏ chuyện Bí mật vói bà rằng ông sang Liên Xô lần này là mang theo hàng chục tấn vàng sang đó trả nợ Bạn một phần và còn lại thì dập lại số vàng này theo quy định của Kho bạc Viêt Nam để nhập kho. Bà cho rằng ko có chuyện ông Thiệu mang vàng chạy đi . Bà nói như thế với tôi và mong báo có dịp nên nói lại để nhiều người cùng biết vì chồng bà khi đó đã qua đời  ???

Bà giáo già ươm chữ xứ biển


KTĐT - Gần 40 năm trên cương vị là nhà giáo, nhà quản lý giáo dục, Nhà giáo Ưu tú (NGƯT) Nguyễn Thị Thông, 68 tuổi ở xã Ngư Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa những tưởng bà dành thời gian để nghỉ ngơi sau những năm tháng tận tâm với sự nghiệp. Ấy vậy, vừa cầm sổ hưu, cô lại tiếp tục bước vào trận tuyến mới, mở lớp học tình thương, đi gõ cửa từng nhà để vận động người dân ở xã nghèo vùng biển cho con đi học. Ròng rã hơn 12 năm qua, lớp học tình thương vẫn bền bỉ duy trì, hàng trăm trẻ em đã biết mặt chữ…
Trên đường về thôn Thành Lập quanh co, độc đạo, ngập trắng nước được người dân kể về cô giáo Nguyễn Thị Thông với tấm lòng biết ơn vô hạn. Để tìm gặp cô, chúng tôi đã phải quần xắn móng lợn, vật lộn với con nước. Ngồi đối diện với chúng tôi, gương mặt cô hiện lên nhiều nếp nhăn, sạm đen vì gió biển. Cô ít nói về mình. Ngay đến những công việc mở lớp học tình thương miễn phí, cô cũng không nghĩ nhiều. Dường như, đối với cô đó là bổn phận và lương tâm của một nhà giáo đối với cái chữ dành cho người dân ở địa phương. Khi chúng tôi gợi chuyện về cuộc sống gia đình riêng, đôi mắt cô đượm buồn. Cô bảo, hạnh phúc lớn nhất của người phụ nữ là có một tổ ấm, có một người chồng để nương tựa, có những đứa con để vỗ về, nhưng điều đó đã không đến với cô! Ở tuổi gần thất thập, cô vẫn đi về lẻ bóng. Nhưng niềm hạnh phúc nhất của cô khi được người dân quê luôn tôn kính, trân trọng và biết ơn mình đã dành trọn lòng yêu nghề, đem tình thương đến với những trẻ nghèo xứ Thanh.
 
Bà giáo già cẩn thận hướng dẫn các em nhỏ từng nét bút.
Bà giáo già cẩn thận hướng dẫn các em nhỏ từng nét bút.
Cô yêu nghề dạy học từ nhỏ, học hết lớp 7 đã nài nỉ xin bố mẹ cho bằng được để đi dạy lớp vỡ lòng của thôn. Làm cô giáo làng sau một năm, chính quyền địa phương thấy cô yêu nghề, nên đã động viên cô đi học trường sư phạm. Năm 1966 ra trường, theo nguyện vọng, cô được điều về quê dạy cấp 1. Với lòng yêu nghề, tình thương với học sinh, cô đã dành hết tâm huyết của mình dạy học. Năm nào cô cũng đạt giáo viên dạy giỏi, rồi vinh dự được kết nạp Đảng khi vừa tròn 23 tuổi. Cô được bổ nhiệm làm Phó Hiệu trưởng Trường Tiểu học Đa Lộc, rồi Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Đông Minh (Đông Sơn) và đến năm 1987 cô về Trường Tiểu học Ngư Lộc 2, nhận chức Hiệu trưởng cho đến khi về hưu (năm 2001). Nhiều năm liền, cô đã đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua các cấp. Năm 1996, cô đã được phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú.
Lý giải về việc mở lớp học tình thương, cô chia sẻ: Năm 1996, một cơn bão tràn đến Ngư Lộc đã san phẳng những ngôi nhà, tài sản của ngư dân ky cóp cả đời đi biển. Những vành khăn tang trắng cả một vùng, những đứa trẻ mất người thân, trụ cột của gia đình, miếng ăn còn không đủ, huống chi cái sự học. Những đứa trẻ nghỉ học hàng loạt, nhiều đứa phải lao động kiếm tiền để phụ giúp gia đình khi chưa từng được biết đến cái chữ. Và kể từ đó cô ấp ủ một ước mơ - xóa mù cho những mảnh đời tội nghiệp ấy. Trăn trở với những hoàn cảnh khó khăn, lo cho tương lai của những đứa trẻ nghèo vì ở Ngư Lộc, nhiều gia đình nghèo lại đông con. Việc đảm bảo đủ cái ăn, cái mặc đã khó nói gì đến ước mơ xa xỉ là đi học chữ. Nhiều đứa trẻ lớn lên không biết mặt chữ, bố mẹ không dạy dỗ đến nới đến chốn, dễ đi vào con đường tệ nạn xã hội. Chứng kiến nhiều cháu đến tuổi đi học không được đến trường, nhiều người lớn chưa biết mặt chữ, lòng cô quặn thắt.
Ngày nghỉ hưu, cô quyết định đứng ra mở lớp học tình thương để dạy chữ cho những trẻ em nghèo mù chữ, trẻ em bị khuyết tật… Đối tượng học không chỉ trẻ em, mà cả những người ngư dân mải đi biển, không biết chữ. Việc đầu tiên là cô làm đơn báo cáo với chính quyền và trường học, đứng ra xin bảo lãnh cho các em đi học. Cô tự mình lặn lội xuống tận các thôn xóm trong xã, thuyết phục các gia đình cho các em đi học. Đến tận nhà các cháu, cô chứng kiến có những em đã 10 tuổi mà không có được cơ hội đến trường. Tìm hiểu nguyên nhân, cô mới vỡ lẽ, bố mẹ các em đi biển quanh năm, không ai quan tâm đến việc học hành của con cái. Có khi cả tháng trời, các em sống thui thủi trong nhà vì bố mẹ ngoài khơi xa. "Thậm chí, khi tôi đi thuyết phục phụ huynh cho con em đi học, có người còn đuổi đánh. Họ sợ rằng con mình đi học sẽ không về nhà làm việc nữa. Nhiều khi, tôi phải cho tiền, cho gạo phụ huynh để họ đồng ý cho con mình đi học" – hai vạt nước mắt cô lăn dài, ngậm ngùi nhớ lại.
Những ngày đầu mới mở lớp gặp nhiều khó khăn. Bàn ghế không có, cô lặn lội đến xin trường cấp I được ít bàn ghế đã gãy, nhờ thợ mộc sửa sang lại cho các cháu ngồi tạm. Nhiều hôm, cô trò đang học trên lớp thì trời đổ mưa, mái nhà bị mưa hắt vào, mấy cô trò mang áo mưa che đậy để nước đỡ chảy ra nền nhà. Từ lớp học đầu tiên, ngay ở căn nhà hai gian của mình, với 16 em, đứa 8 tuổi, đứa 13 tuổi, cũng có đứa 22 tuổi... Đến nay, nhờ lớp học tình thương này mà hàng trăm em có hoàn cảnh khó khăn biết đọc, biết viết. Có thời gian, cô còn dạy chữ cho những ngư dân bị mù chữ, lớp học được mở ra vào buổi tối với sự tận tình của cô, nhiều người rất hăng say đến lớp. Ban ngày lam lũ mưu sinh, tối đến họ lại cắp sách vở đến lớp học chữ. Có thời điểm lớp học xóa mù chữ của cô lên đến 60 người. Nhờ lớp học tình thương của cô mà hàng trăm các em và người dân mù chữ ở xã Ngư Lộc và các địa phương lân cận đã đọc thông viết thạo. Đến nay, UBND xã đã cho mượn phòng học khang trang hơn tại Trung tâm học tập cộng đồng, nhờ đó, cô và học sinh không còn phải ngồi trong lớp học tạm bợ nữa. Sau khi học ở đây, các em đọc thông viết thạo, cô lại xin để chuyển cho các em qua trường để đi học như những em bình thường khác.
Những vệt nắng cuối trời dần tắt, các em lại đến lớp học tình thương, mặt mày lấm lem, nhưng lại  rạng ngời vẻ háo hức. Cô lại tất tả, chuẩn bị buổi học mới. Những nếp nhăn, hằn lên trên khuôn mặt cô. Nhưng tình thương yêu học sinh, vì sự học của các em của NGƯT Nguyễn Thị Thông như những ngọn hải đăng trên biển, không bao giờ tắt.
Tuấn Trần