Trang

8 tháng 2, 2014

DÂN CỰC KHỔ VÌ NUÔI CÁN BỘ

- Nước lớn và đông dân như Trung Quốc mà chỉ có 33 tỉnh, thành. VN bé tẹo mà có tới 64 tỉnh, thành. Làm sao dân không khổ? BTTD

'Chỉ tăng một bộ, tinh giản biên chế thành vô nghĩa'

 - Nguyên Bộ trưởng Nội vụ Trần Văn Tuấn lo lắng khi góp ý cho dự thảo nghị định về tinh giản biên chế, "chỉ cần tăng một bộ là tinh giản biên chế thành vô nghĩa".

Một nghị định mới về tinh giản biên chế sắp được ban hành nhưng các câu hỏi cần trả lời vẫn là cũ.
Ra 100.000, vào bao nhiêu?
Chính sách tinh giản biên chế trước đây [nghị định 132 năm 2007, đã hết hiệu lực năm 2012], chưa đạt được hiệu quả như mong muốn, thậm chí “càng nói giảm thì biên chế càng tăng” như nhận định của những người trong ngành nội vụ ngay từ khi tham gia ý kiến bước đầu cho nghị định mới.
tinh giản biên chế, công chức, bộ nội vụ
Một hội thảo tại Bộ Nội vụ - đơn vị xây dựng dự thảo nghị định về chính sách tinh giản biên chế. Ảnh: Lê Anh Dũng
Giảm được bao nhiêu người do nghỉ hưu, chuyển công tác, thôi việc, đi học… thì lại tuyển vào bấy nhiêu, thậm chí nhiều hơn, cũng vì năng lực công chức chưa đủ đáp ứng nhu cầu nên phải “lấy lượng bù chất” như ông Vũ Văn Thái, nguyên Vụ trưởng Vụ Tổ chức - Biên chế, Bộ Nội vụ, nói, tại một cuộc hội thảo tháng 6/2013.
Dự thảo nghị định mới đưa ra con số cụ thể cho nỗ lực giảm số lượng công chức trong 6 năm tới, nhưng vẫn để ngỏ chuyện tuyển vào, liệu có đi vào lối cũ khi mà các nguy cơ tăng biên chế vẫn còn.
Đó là việc điều chỉnh cơ cấu tổ chức các cơ quan nhà nước, “chỉ cần tăng một bộ là tinh giản biên chế thành vô nghĩa”, như nguyên Bộ trưởng Nội vụ Trần Văn Tuấn phát biểu. Chính phủ đã cam kết từ nay đến hết nhiệm kỳ giữ ổn định bộ máy, nhưng vẫn mở việc bổ sung biên chế cho nhiệm vụ mới hoặc cơ quan mới lập vì cần thiết.
Tính ổn định của bộ máy các địa phương cũng là câu hỏi, vì tốc độ đi thị hóa nhanh thì không tránh đươc nhu cầu chia tách, mà chia tách thì không tránh được gia tăng biên chế.
Đó còn là việc sau khi xác định vị trí việc làm sẽ nảy sinh biên chế do “chẻ nhỏ” nhiệm vụ, như lo ngại của chính các địa phương khi được phổ biến phương pháp xác định vị trí việc làm. Đó có thể là thực tế ở các cấp cơ sở, nơi đang giải quyết hầu hết các thủ tục hành chính thông thường cho người dân.
Nghị định mới tiếp tục chỉ lo việc “ra”, để việc “vào” cho một nghị định, đề án khác?
Giảm người nhà nước, vẫn làm được việc?
Trong khi năng lực của đội ngũ công chức vẫn là vấn đề đau đầu thì việc dự thảo nghị định mới tăng thêm đối tượng tinh giản dựa trên đánh giá chất lượng là một điểm đáng chú ý.
Từ lúc các luật Công chức, Viên chức có quy định “hai năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ sẽ phải ra khỏi đội ngũ”, chưa có công chức nào bị rơi vào hoàn cảnh này. Liệu sau khi nghị định mới được ban hành với các tiêu chí mạnh mẽ hơn, sẽ tìm ra được những công chức như vậy?
Vấn đề này cũng được nguyên Bộ trưởng Trần Văn Tuấn nêu. Có thêm nhiều ý kiến khác, Bộ Nội vụ mới đây đã thúc đẩy phương pháp đánh giá cán bộ theo hướng “cấp trên đánh giá cấp dưới”, không để “tập thể đánh giá cá nhân” như trước nữa. Nhưng việc này cũng mới khởi động, liệu có kịp đáp ứng mục tiêu đưa ra khỏi bộ máy 100.000 cán bộ đúng thật là “cắp ô”?
Hơn nữa, sau khi giảm được từng ấy người, là không nhỏ so với 2,8 triệu công chức, viên chức cả nước hiện có, hiệu quả hành chính công vẫn được đảm bảo? Trong khi chính Thứ trưởng Nội vụ Trần Anh Tuấn đã cho biết nhiều cơ quan vẫn thiếu người làm được việc, phải làm cả thứ bảy, chủ nhật, đến 7-8 giờ tối.
Tuy nhiên, dự thảo nghị định mới chưa đề cập đến các giải pháp đảm bảo hiệu quả hoạt động sau tinh giản, ví dụ phương án tăng cường xã hội hóa các dịch vụ công, “nhà nước bớt ôm đồm”, như kiến nghị của ông Vũ Văn Thái.
Một nghị định mới khó bao quát mọi vấn đề đặt ra, nhưng sẽ chỉ có hiệu quả khi trả lời được những câu hỏi cũ này.
Chung Hoàng 
MỜI BẠN ĐỌC THÊM TOÀN BỘ TRANG TÔI MUỐN SỐNG BẰNG LƯƠNG
  
Đánh giá:
Ý kiến bạn đọc (21)
Phạm Thị Xuân Khải10 giờ trước
Tinh giản biên chế nhắc mãi, nói hoài nhưng vẫn là chuyện cũ như trái đất! Không khó đến nỗi không thể làm được.Vấn đề là có quyết làm hay không, nói nhiều làm ít làm sao dân tin khi mà 32 người dân còng lưng nuôi 1 công chức, trong ...
Nguyễn Anh Minh11 giờ trước
Tinh giản bộ máy Chính phủ nhằm quản lý NN có hiệu quả hơn là việc làm thường xuyên, nhưng tách ra hay nhập lại giữa các Bộ thời gian qua còn nhiều bất cập, nó chỉ giảm số Bộ trưởng còn bộ máy, nhân viên vẫn vậy, ví như Bộ ...
Thanh Sơn11 giờ trước
Khó giảm biên chế lắm, bởi cơ quan nào cũng cài cắm con ông cháu cha giữ vị trí chủ chốt rồi. Chưa thành lập đơn vị thì danh sách BC đã có rồi, mà toàn là: CCCCC, người ngoài muốn vào phải chạy tiền hoặc làm hợp đồng thôi.
phan nam11 giờ trước
với 2.8 triệu công chức viên chức thì 32 người dân nuôi một cán bộ. đất nước không nghèo mới là chuyện lạ
bùi thị mỹ tâm14 giờ trước
tôi đề nghị giữ nguyên số lượng hiện nay, chỉ tuyển mới thay thế số nghỉ hưu và quy trình tuyển dụng phải chặt chẽ hơn. thực hiện trong 10 năm là ok
huynh13 giờ trước
Làm khổ dân thôi, tuyển vào ồ ạt, giờ lại đuổi ra. Đầu tiên là đuổi những người tuyển dụng sai đã
yeu viet13 giờ trước
Giảm chỗ không cần tăng chỗ cần là hợp lý và khách quan không thể cứ giảm được quan trọng là hiệu suất công việc và thái độ công chức với nhân dân!
Phuoc Thanh13 giờ trước
nếu như muốn giảm biên chế thì chẳng những không chia tách một số bộ ngành, địa phương mà phải sát nhập lại thì mới mong thực hiện được đề án giảm biên chế. Thật khó hiểu khi mà thời buổi khoa học, công nghệ thông tin phát triển như vũ ...
Hùng Nhân13 giờ trước
Giảm 100.000 công chức có nghĩa là 100.000 con ông cháu cha sẽ được nhận vào biên chế , rứa thôi .
Lê Xuân Hoan12 giờ trước
"Câu lạc bộ nước trà". Đó là câu nói cửa miệng thường được dành cho các cơ quan công quyền hiện nay ở hầu khắp các tỉnh, thành của nước ta. Tôi có một ông bạn hiện đang công tác tại một sở ở Tây Nguyên, ông bảo, ở cơ quan ông ấy có một phòng, một năm cấp được 2 giấy phép cho 2 cơ quan liên quan. Trong lúc đó, biên chế của phòng ấy lên đến 4 người. Như vậy, bình quan 6 tháng cái phòng ấy cấp được một giấy phép! 

Khi pháo vỡ nòng

Chấm điểm Liverpool 5-1 Arsenal: Không tưởng!
Thứ bảy, 08/02/2014 21:23 GMT


- Với đội hình thiếu chiều sâu và phong độ thất thường, chắc chắn Arsenal lại thêm một mùa giải thất vọng. BTTD


Với quyết tâm đòi lại món nợ ở trận lượt đi, Liverpool đã tạo ra thế trận không tưởng trước Arsenal. Hệ quả, họ đã dễ dàng hủy diệt Arsenal với 5 bàn thắng và vô số cơ hội ngon ăn khác. Thất bại ê chề này khiến Arsenal đối mặt với nguy cơ tụt xuống vị trí thứ 3...
Trước chuyến làm khách ở Anfield, HLV Arsene Wenger tuyên bố đã tìm ra phương pháp hóa giải cặp song sát Sturridge - Suarez. Tuy vậy, trong ngày thi đấu quá tệ của hàng phòng ngự, Pháo thủ đã dễ dàng bị Liverpool đè bẹp với 5 bàn thắng. Đáng ra, Lữ đoàn đỏ đã có thể có 1 chiến thắng đậm đà hơn thế.

  


Mặc dù thiếu vắng khá nhiều nhân tố trụ cột ở hàng thủ nhưng Liverpool vẫn có màn khởi đầu cực kì ấn tượng. Chỉ 52 giây sau tiếng còi khai cuộc, trung vệ Martin Skrtel đã đệm bóng tung lưới thủ thành Szczesny sau cú đá phạt khó chịu của Gerrard bên hành lang trái.Hưng phấn sau bàn mở tỉ số, Liveprool tiếp tục tràn lên tấn công với sức ép nghẹt thở. Trong ngày thi đấu thăng hoa của mình, Skrtel tiếp tục phá lưới Liverpool với cú đánh đầu hiểm hóc ở phút thứ 10.Hai bàn thua chóng vánh đã khiến hàng thủ Arsenal choáng váng. Hệ quả, chỉ trong 3 phút sau đó, họ đã đối mặt với 2 tình huống cực kì nguy hiểm. Sau khi Sturridge bỏ lỡ cơ hội mười mươi trong pha đối mặt với Sczesny, tới lượt Suarez cũng ôm đầu nuối tiếc với cú vô lê đưa bóng dội cột dọc.Tuy nhiên, các CĐV The Kop cũng chẳng quá nuối tiếc với 2 cơ hội ấy bởi vào phút thứ 17, Lữ đoàn đỏ đã có bàn thắng thứ 3 do công của Sterling, người đã dễ dàng đệm bóng đánh bại Szczesny sau đường căng ngang dọn cỗ của Luis Suarez.Nhận 3 bàn thua trong vòng 17 phút, Arsenal đã hoàn toàn vỡ trận! Trong bối cảnh 2 tiền vệ đánh chặn hoạt động quá nghiệp dư, Pháo thủ đã phải nhận bàn thua thứ 4 ở phút 20. Lần này, Daniel Sturridge đã lập công sau khi nhận đường chọc khe cực kì tinh tế của Coutinho.
Trong thế chẳng còn gì để mất, Arsenal đã đẩy cao đội hình tấn công trong hiệp 2. Đó cũng là thời điểm Liverpool tỏ ra cực kì lợi hại với tình huống phát công chớp nhoáng. Với khả năng phân phối bóng rất tốt của hàng tiền vệ, Lữ đoàn đỏ vẫn là đội bóng tạo ra nhiều cơ hội hơn. Kết quả, tới phút 52, Raheem Sterling đã ghi bàn thắng thứ 5 cho Liverpool sau 2 cú dứt điểm liên tiếp.Đó đã là dấu chấm hết cho nỗ lực của Arsenal! Trong thời gian còn lại của trận đấu, dù kiểm soát bóng tốt hơn nhưng các vị khách London lại không thể tạo ra quá nhiều cơ hội. Mãi tới phút 69, họ mới có bàn thắng danh dự nhờ cú đá phạt đền thành công của Mikel Arteta.Trong khi đó, bên kia chiến tuyến, Liverpool đã tạo ra vô số cơ hội có thể ghi bàn. Nếu Suarez, Sturridge, Sterling và Coutinho tận dụng thành công, Lữ đoàn đỏ đã có thể kết thúc trận đấu với 1 kết quả đậm đà hơn thế.Dù mắc lỗi trận tới quả phạt đền song với 2 đường kiến tạo và hàng loạt đường chuyền tạo cơ hội, Steven Gerrard vẫn xứng đáng được bình chọn là ngôi sao xuất sắc nhất trận với điểm số 9,0. Đây cũng là điểm số của tiền vệ Raheem Sterling, người đã ghi được 2 bàn thắng. Trong khi đó, Nacho Monreal và Mikel Arteta lại là 2 cầu thủ thi đấu tệ nhất bên phía Arsenal (điểm 3,0). 

ĐIỂM SỐ CỤ THỂ CỦA 2 ĐỘI
LIVERPOOL: Simon Mignolet - 6; John Flanagan - 8; Martin Skrtel - 8; Kolo Toure - 6; Aly Cissokho - 6;Steven Gerrard - 9; Jordan Henderson - 7; Raheem Sterling - 9; Philippe Coutinho - 7; Luis Suarez - 8; Daniel Sturridge -7 .
Thay người: Joe Allen - 6; Jordon Ibe – không chấm; Iago Aspas – không chấm.
ARSENAL: Wojciech Szczesny - 5; Bacary Sagna - 4; Per Mertesacker - 4; Laurent Koscielny - 5; Nacho Monreal - 3; Mikel Arteta - 3; Jack Wilshere - 6; Alex Oxlade-Chamberlain - 4; Mesut Özil - 3; Santi Cazorla - 6; Olivier Giroud - 4.
Thay người: Lukas Podolski - 5; Tomas Rosicky - 6; Kieran Gibbs - 5.

7 tháng 2, 2014

Ba đặc điểm nổi bật Biển Đông 2014


TS. Nguyễn Ngọc Trường
(Toquoc)- Trung Quốc nỗ lực mới kiểm soát Biển Đông, nhưng xu thế quốc tế hóa và luật pháp hóa giải quyết vấn đề Biển Đông tăng mạnh. 
Năm 2014, Biển Đông nổi bật ba vấn đề. 
Thứ nhất, Trung Quốc tiếp tục chủ trương “lục hoãn hải khẩu” với Việt Nam 
Trong năm 2013, lãnh đạo mới của Trung Quốc đã cơ bản vạch ra mô hình tổng thể của các quan hệ trong kỷ nguyên mới giữa Bắc Kinh và các nước láng giềng. Đó là "phiên bản kinh tế ngoại vi", với “ngoại giao xung quanh” tạo ra các vành đai hoặc hành lang kinh tế tại các khu vực cận biên của Trung Quốc, xây dựng vòng cung khu vực ảnh hưởng địa-chính trị-kinh tế của Trung Quốc trong thế kỷ 21. Tại phía Bắc, Trung Quốc đề xuất thành lập “Vành đai kinh tế Con đường tơ lụa mới” nối Tân Cương với Trung Á, Tây Á, Cận Đông, tới tận Địa Trung Hải. Ở phía tây nam, đề xuất sớm đàm phán để xây dựng “Hành lang kinh tế bốn nước”, Trung Quốc, Mianma, Băngladet, Ấn Độ. Ở Đông Nam Á, một mặt tăng cường mở rộng hoạt động kinh tế Khu vực Tiểu vùng sông Mêkông mở rộng, hỗ trợ phát triển kinh tế Vân Nam, Quảng Tây, mặt khác đề nghị tái cấu trúc nâng cao Hiệp định tự do thương mại Trung Quốc ASEAN ký kết 10 năm trước đây, mục tiêu đưa thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN lên 500 tỷ USD vào năm 2015 và 1.000 tỷ USD vào năm 2020. Về chính trị, Bắc Kinh đề xuất ký kết “Điều ước hợp tác láng giềng hữu nghị giữa các nước ASEAN và Trung Quốc” nhằm thắt chặt quan hệ với ASEAN/Đông Nam Á. Trên biển, "Con đường Tơ lụa hàng hải thế kỷ 21" tại Đông Nam Á bắt đầu từ Biển Hoa Đông, cùng với trên bộ kết nối các quốc gia và lãnh thổ láng giềng với Trung Quốc trở thành một mắt xích trung tâm.Trung Quốc nhất trí cùng Việt Nam thực hiện tốt “Bản ghi nhớ về việc xây dựng các khu hợp tác kinh tế qua biên giới”, tích cực nghiên cứu đàm phán ký kết “Hiệp định thương mại biên giới Việt-Trung”, đề nghị Việt Nam tạo thuận lợi, hỗ trợ sớm hoàn thành Khu công nghiệp Long Giang và Khu công nghiệp An Dương. Sau khi đặt được những viên gạch gia cố những mối quan hệ kinh tế trên bộ, đầu năm 2014, Trung Quốc mở màn cuộc tranh chấp Biển Đông với hai quyết định: Tăng cường quyền hạn cho lực lượng cảnh sát biển của họ tại khu vực Biển Đông, và từ ngày 1/1/2014 bắt buộc tàu đánh cá nước ngoài phải xin phép khi vào hoạt động bên trong vùng biển mà Bắc Kinh tự nhận của mình; tàu thuyền vi phạm sẽ bị trục xuất và bị tịch thu những hải sản đã đánh bắt được, đồng thời bị phạt 500.000 Nhân dân tệ. Chủ trương này chủ yếu nhằm vào Việt Nam, ngăn chặn ngư dân Việt Nam đánh cá ở các ngư trường truyền thống Hoàng Sa, phục vụ việc kiểm soát Hoàng Sa của Việt Nam, đồng thời biến Tam Sa thành trung tâm bàn đạp kiểm soát Biển Đông trong đường lưỡi bò.Ngày 3/1/2014, một chiếc tàu tuần tra Trung Quốc đã tấn công một tàu cá Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa, coi như “mở màn” cho việc trấn áp tàu cá nước ngoài tại Biển Đông.Các hành động nêu trên diễn ra chỉ 2 tháng sau khi lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam ký Tuyên bố chung tại Hà Nội (15/10/2014) khẳng định những nguyên tắc hợp tác giải quyết những vấn đề liên quan đến biển. Tuyên bố có đoạn: “Hai bên nhất trí kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp,... xử lý kịp thời, thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, đồng thời tiếp tục tích cực trao đổi và tìm kiếm các biện pháp có hiệu quả để kiểm soát tranh chấp, duy trì đại cục quan hệ Việt-Trung và hòa bình, ổn định trên Biển Đông”.Như vậy, Trung Quốc căn bản vẫn áp dụng chủ trương “lục hoãn hải khẩu” (trên đất liền hòa hoãn, dưới biển tranh chấp xung đột).
Hm Đi Nam Hi được trang b thêm 7 tàu chiến mi phc v ch trương tích cc tranh chp, tích cc khai thác Bin Đông 
Thứ hai, Trung Quốc trọng điểm bố trí tàu chiến mới, tích cực tranh chấp, tích cực khai thác 
Trong năm 2013, Hải quân Trung Quốc đã đạt được bước đột phá khá lớn về mặt trang bị quân sự. Trung Quốc tăng cường lực lượng hải quân và bán vũ trang để thực hiện kiểm soát Biển Đông. Tạp chí American Interest ngày 8/1 nhận định Trung Quốc đang từng bước tăng cường sự kiểm soát tại các vùng nước tranh chấp trên Biển Đông.Từ đầu năm 2013 đến nay đã có ít nhất 17 tàu chiến mới được biên chế vào lực lượng hải quân Trung Quốc, Hạm đội Nam Hải nhận nhiều tàu chiến mới nhất 7 chiếc. Tiếp đó là hạm đội Đông Hải thêm 6 chiếc.Theo tạp chí Forbes (Mỹ), Trung Quốc đang thực hiện cuộc chiến xâm chiếm lãnh thổ lớn nhất kể từ Chiến tranh thế giới II. 
Thứ ba, vụ kiện của Philippines sẽ đẩy mạnh cuộc đấu tranh pháp lý quốc tế 
Tòa án trọng tài quốc tế về luật biển cho vụ kiện đã được thành lập trong năm 2013 và đã đưa ra lịch làm việc, bao gồm thời hạn để Philippines đưa ra các bằng chứng vụ kiện Trung Quốc vào ngày 30/3/2014.Đây là lần đầu tiên Trung Quốc bị kiện trước một tòa án quốc tế về luật biển. Phát biểu trên chương trình truyền hìnhNews to Go, Giáo sư Rommel Banlaoi - Viện trưởng Viện Hòa bình, Bạo lực và Khủng bố thuộc Trung tâm nghiên cứu tình báo và an ninh quốc gia Philippines, khẳng định: với việc đưa tranh chấp với Trung Quốc ra tòa án quốc tế, Philippines “đã đẩy Trung Quốc vào chân tường”. Vụ kiện góp phần “quốc tế hóa” tranh chấp; “đây không chỉ là vấn đề giữa Trung Quốc với Philippines, mà là vấn đề quốc tế bởi nó sẽ ảnh hưởng đến thương mại, tự do hàng hải và khai thác dầu khí ở Biển Hoa Nam (Biển Đông)”.Philippines đã thuê một nhóm chuyên gia pháp lý chuyên môn giỏi của nước ngoài  chuẩn bị các tài liệu để trình Tòa án trọng tài ở La Hay (Hà Lan) vào ngày 30/3/2014.Nhóm chuyên gia gồm các luật sư Anh, Mỹ có kinh nghiệm về các vụ kiện liên quan đến vấn đề chủ quyền tại các tòa quốc tế do luật sư Paul Reichler đứng đầu. Hiện nhóm đang chuẩn bị bằng chứng và lập luận để chứng minh rằng tuyên bố đường 9 đoạn của Trung Quốc là không hợp lệ theo Công ước quốc tế về Luật Biển. Ngoài ra, họ cũng tìm kiếm các thông tin chi tiết về giới hạn lãnh thổ theo pháp luật của các khối đá và bãi đá ngầm Scarborough như là một phần của nỗ lực để khẳng định chủ quyền của Philippines trong vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý.Ông Rommel Banlaoi cho rằng mặc dù Bắc Kinh rất giỏi “phô trương sức mạnh quân sự”, song Philippines đủ năng lực giải quyết bằng biện pháp ngoại giao theo “quy định của pháp luật... Chúng tôi cho rằng giải pháp văn minh và hòa bình nhất để giải quyết tranh chấp lãnh thổ phức tạp này chỉ có thể được thực hiện thông qua quy định pháp luật”.Năm 2014 sẽ khẳng định xu thế luật pháp quốc tế đóng vai trò quan trọng giải quyết tranh chấp Biển Đông. Đó là một tiến bộ lịch sử đối với vấn đề Biển Đông./.

XẾP HẠNG TỰ DO BÁO CHÍ THẾ GIỚI NĂM 2013

RSF: Việt Nam vẫn trong nhóm 10 nước tồi tệ nhất về tự do báo chí

Bản đồ thế giới về quyền tự do báo chí 2013 (trắng: tốt nhất; đen: tồi tệ nhất)
Bản đồ thế giới về quyền tự do báo chí 2013 (trắng: tốt nhất; đen: tồi tệ nhất)
RSF

Đức Tâm
Hôm nay, 03/05/2013, nhân ngày Tự do báo chí thế giới, tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (RSF), có trụ sở tại Pháp, cho công bố bản xếp hạng 2013 về tự do báo chí trên thế giới. Cũng như năm trước, thứ hạng của Việt Nam không thay đổi, đứng thứ 172 trong tổng số 179 quốc gia được xem xét, tức là vẫn nằm trong nhóm 10 nước cuối bảng, bóp nghẹt quyền tự do báo chí. Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng vẫn nằm trong danh sách 39 sát thủ của quyền tự do báo chí.

Tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới tỏ thái độ thất vọng : Sau làn sóng « Mùa Xuân Ả Rập » và phong trào phản kháng trong năm 2011, vấn đề tự do báo chí trên thế giới dường như quay trở lại tình hình như trước.
Đối với nhiều quốc gia, thứ hạng về quyền tự do báo chí không liên quan đến những biến động chính trị. Do vậy, bảng xếp hạng năm nay giúp đánh giá tốt hơn về thái độ và ý đồ của các chế độ đối với quyền tự do báo chí trong trung hạn và dài hạn.
Dẫn đầu bảng là ba nước Bắc Âu, Phần Lan, Hà Lan và Na Uy. Ba nước cuối bảng là Turkménistan, Bắc Triều Tiên và Eritrea.
Trong năm 2013, xếp hạng của Việt Nam trong lĩnh vực quyền tự do báo chí, không thay đổi so với năm 2011-2012, đứng thứ 172 trong tổng số 179 quốc gia. Theo Phóng Viên Không Biên Giới, Việt Nam là nhà tù khổng lồ thứ hai trên thế giới đối với các công dân mạng. So với năm 2010, Việt Nam đã bị mất 6 hạng và vẫn nằm trong nhóm 10 nước tồi tệ nhất về quyền tự do báo chí.
Cũng vào dịp này, Phóng Viên Không Biên Giới cập nhật danh sách các những chính trị gia, tổ chức là kẻ thù – tạm gọi là sát thủ - của quyền tự do báo chí. Trong số 39 nhân vật hoặc tổ chức, có 5 sát thủ mới, như tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình.
Ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam có mặt trong danh sách các sát thủ của quyền tự do báo chí. Phóng Viên Không Biên Giới đã trích dẫn những phát biển của ông Trọng, để chứng minh. Lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng « báo chí không có vai trò tuyên truyền chống Nhà nước. Các nhà báo chỉ đưa các thông tin có thể chấp nhận được và không nên có những bình luận ủng hộ đa đảng… ». Vẫn theo tổ chức này, ông Trọng còn có những phát biểu liên quan đến việc bỏ tù các blogger và các nhà ly khai sử dụng internet.
Điều đáng chú ý là năm nay, Phóng Viên Không Biên Giới đã không còn xếp tổng thống Miến Điện Thein Sein trong danh sách các sát thủ của quyền tự do báo chí.

Nhân quyền VN: thắng thua thua thắng


Cập nhật: 11:48 GMT - thứ sáu, 7 tháng 2, 2014
Cuộc Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát về nhân quyền Việt Nam tại LHQ gọi tắt là UPR diễn ra tại Geneva hôm 5 tháng 2 vừa qua có vẻ đã gây chú ý cho dư luận ở hải ngoại khá nhiều.
Với sự có mặt của một số cá nhân đáng chú ý trong phong trào tranh đấu cho nhân quyền tại Việt Nam và một phái đoàn đông đảo từ phía chính quyền Hà Nội, cuộc khảo sát đã chấm dứt, nhưng dư âm vẫn còn.

'Bên thắng cuộc'


Phía những người tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền và một số người Việt hải ngoại cho rằng họ đã chiến thắng vẻ vang.Dường như cả hai phía nhà nước Việt Nam lẫn những người tranh đấu cho nhân quyền và dân chủ tại Việt Nam cũng như một số người Việt hải ngoại đều tự ca ngợi phe mình chiến thắng.
Trưởng đoàn VN trình bày bằng tiếng Anh và những người khác trong đoàn nói tiếng Việt.
Thứ nhất, đánh động được dư luận các nước chú ý hơn đến tình hình nhân quyền tại Việt Nam, kể cả những quốc gia được xem là đồng minh của Việt Nam như Nga, nước cũng nhấn mạnh đến thái độ xử dụng những điều luật mơ hồ để buộc tội những người tranh đấu cho nhân quyền của phía an ninh Việt Nam.
Thứ hai, phía này cũng cho rằng mình thành công qua việc vạch ra những chiến thuật mà nhà nước Việt Nam thông qua bộ ngoại giao thường áp dụng để đối phó với những chỉ trích về nhân quyền như lần khảo sát năm 2009.
Người giúp cho phía tranh đấu nhân quyền vạch ra chiến thuật là nhân vật tên Đặng Xương Hùng, người từng phục vụ trong Bộ Ngoại giao Việt Nam và rời khỏi Đảng Cộng Sản năm 2012.
Thứ ba là cuộc tường trình từ những nhân vật tranh đấu cho nhân quyền trong nước đặt biệt là trường hợp ông Phạm Chí Dũng, người vào giờ chót bị công an Việt Nam ngăn chặn không cho lên máy bay, nhưng vẫn có bản tường trình qua hình ảnh video, cho thấy họ vẫn chiến thắng trước sự ngăn cản của nhà nước Việt Nam.
Trong khi đó phía nhà nước Việt Nam cũng cho rằng họ chiến thắng vẻ vang trước cuộc khảo sát và tạo ra hình ảnh tốt trước sự chứng kiến của cộng đồng quốc tế.
"Tuy không nêu rõ, nhưng ai cũng hiểu ông Phạm Bình Minh muốn nói đến tổ chức chính trị Việt Tân, một tổ chức luôn tìm cách trở thành đảng đối lập tranh quyền cai trị với Đảng Cộng Sản, nhưng chưa bao giờ được chính thể quốc gia nào thừa nhận"
Thứ nhất, qua lời phát biểu của Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao Phạm Bình Minh tại Việt Nam, khi ông khẳng định những chỉ trích đến từ "thế lực xấu" để vô hiệu hóa chính nghĩa của cuộc tranh đấu nhân quyền tại Việt Nam.
Tuy không nêu rõ, nhưng ai cũng hiểu ông Phạm Bình Minh muốn nói đến Đảng Việt Tân, một tổ chức luôn tìm cách trở thành đảng đối lập tranh quyền cai trị với Đảng Cộng Sản, nhưng chưa bao giờ được chính thể quốc gia nào thừa nhận.
Phía Việt Nam cho rằng họ đã chiến thắng khi vạch ra động cơ chính trị đằng sau cuộc vận động khảo sát UPR lần này.
Thứ hai, phía nhà nước Việt Nam cho rằng họ đã gây bất ngờ cho phía chỉ trích, khi đem tất cả những bộ, ban ngành liên hệ đến tường trình và ghi nhận ở Thụy Sỹ, bao gồm cả Bộ công an, Bộ thông tin và Truyền thông, Bộ Kế hoạch và Đầu tư...
Điều này phía Việt Nam cho rằng họ chiến thắng vì thuyết phục được cộng đồng quốc tế qua sự giải thích của các ban ngành chuyên môn, và phá vỡ "âm mưu chính trị của những thông tin thiếu khách quan" từ phía chỉ trích.
Thứ ba nhà nước Việt Nam cho rằng họ chiến thắng với những lời khen ngợi của một số quốc gia về những phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo cũng như nâng cấp đời sống dân chúng.
Phía Việt Nam cho rằng họ đã thành công khi đưa được các thông tin này ra trước sự chứng kiến của nhiều quốc gia, để xác định về ý nghĩa rộng rãi hơn của hai chữ nhân quyền mà không bị đóng khung thuần túy trong các quyền ngôn luận, đi lại hay tôn giáo.

'Bên thua cuộc'

Người biểu tình trước trụ sở LHQ vào ngày 05/02/2014.
Tuy các phía đều cho rằng họ chiến thắng trong cuộc khảo sát định kỳ phổ quát nhân quyền UPR hôm 5 tháng 2 vừa qua, nhưng dư luận bên ngoài vẫn cho rằng các phía đều đã thua tơi tã, và dư luận đánh giá rằng cuộc khảo sát lần này kết quả cũng chỉ là tuyên cáo chung chung, sẽ không có một kết quả cụ thể nào.
Phía những người tranh đấu cho dân chủ nhân quyền và một số nhân sự, tổ chức ở hải ngoại cũng bị đánh giá là thua trận, do chủ quan, định hướng và chiến thuật.
Cái thua thứ nhất là bên cạnh những tổ chức NGO, những cá nhân tranh đấu cho công bằng xã hội, dân chủ và nhân quyền, sự có mặt của một số tổ chức chính trị đã khiến cho ý nghĩa và chính nghĩa họ đã bị mất, vì họ đã trở thành công cụ cho những tổ chức chính trị dùng để đả kích đảng cầm quyền ỡ Việt Nam, với mục tiêu là lật đổ chế độ đang cầm quyền, không còn ý nghĩa tranh đấu nhân quyền nên tiếng nói không được chú ý nhiều và tác động lớn.
Cái thua thứ hai là thiếu sự định hướng, nên bên cạnh cuộc kiểm điểm UPR lại xuất hiện cuộc biểu tình với cờ vàng ba sọc đỏ, điều này có thể có ý nghĩa quan trọng đối với những người Việt từng phục vụ dưới lá cờ đó và sự thiêng liêng, nhưng nếu đem đến những nơi như trụ sở LHQ thì xem như trật lấc.
Đó là vì trụ sở LHQ sẽ không kiếm ra lá cờ đó biểu tượng cho quốc gia nào trong hiện tại, và phía nhà nước Việt Nam lại khẳng định, những người tham gia cuộc chỉ trích chỉ muốn lật đổ chế độ hiện nay để tái lập thể chế VNCH đã không còn hiện hữu chứ không phải tranh đấu cho nhân quyền gì cả.
"Xuất hiện cuộc biểu tình với cờ vàng ba sọc đỏ, điều này có thể có ý nghĩa quan trọng đối với những người Việt từng phục vụ dưới lá cờ đó và sự thiêng liêng, nhưng nếu đem đến những nơi như trụ sở LHQ thì xem như trật lấc"
Cái thua thứ ba chính là chiến thuật, thay vì tranh thủ cơ hội tiếp cận với những ban ngành do phía nhà nước Việt Nam đưa ra, để trực diện tranh đấu thì những tổ chức, cá nhân lại chọn thái độ tránh né vì sợ mang tiếng "tiếp xúc với Cộng Sản", và chỉ nhắm vận động vào các quốc gia tham dự, điều này với cái nhìn từ bên ngoài thì có vẽ là chiến thuật gây áp lực hữu hiệu, nhưng với cái nhìn của những người trong nước , thì chính là cầu viện ngoại bang hay "cõng rắn cắn gà nhà", khiến cho những người tranh đấu nhân quyền và dân chủ càng bị đẩy ra xa hơn với người dân trong nước.
Phía nhà nước Việt Nam cũng bị đánh giá là thua thê thảm trong lần này, xem như những cố gắng tham gia vào hội đồng nhân quyền LHQ không còn giá trị gì cả.
Thứ nhất, việc ngăn chặn cá nhân ông Phạm Chí Dũng tham gia cuộc kiểm điểm UPR của an ninh Việt Nam, đã trở thành bằng chứng rõ ràng nhất về quyền tự do đi lại bị xâm phạm trước con mắt của cộng đồng quốc tế, cho thấy nhà nước Việt Nam đã làm ngược lại với bản hiến pháp mà họ vừa tu chính cách đây không lâu.
Cái thua thứ hai khi bị truy vấn đến quyền tự do báo chí, Việt Nam vẫn không thuyết phục được mọi giới khi khung luật pháp của họ khẳng định không cho phép tư nhân được ra báo chí, ngược lại với qui định của hiến pháp về quyền tự do ngôn luận, và không cho phép người dân được sở hữu đất đai, một cái quyền mà bất cứ người nào trên trái đất cũng có.
Cái thua thứ ba là các giải thích đều lái vấn đề qua phát triển xã hội, khiến cho nhiều quốc gia nhìn thấy chính quyền Việt Nam đang cố gắng biện minh cho các hành động bị xem là vi phạm nhân quyền, mà không chứng minh được thiện chí cải tổ về khung luật pháp, thái độ ứng xử, để người dân cảm thấy họ được bảo vệ quyền làm người như các quốc gia khác, cái thua chính là cộng đồng quốc tế nhìn thấy tại Việt Nam nhân quyền được ban phát chứ không phải được tôn trọng.

'Đánh mất cơ hội'

Có cả các nhà hoạt động người Việt đến từ Việt Nam và Hoa Kỳ tới vận động.
Dù có nhiều dư luận trái chiều về thắng và thua của các phía, nhưng cũng có những ý kiến khác cho rằng các phía đã đánh mất cơ hội tốt lần này để giải quyết những khác biệt.
Nhiều dư luận cho rằng phải chăng thay vì đưa ra những lý luận bảo vệ quan điểm của bên cầm quyền, phía nhà nước nước Việt Nam nên dùng cơ hội này chủ động thăm hỏi những người tranh đấu cho dân chủ nhân quyền, tổ chức buổi gặp gỡ bên lề UPR, lắng nghe tâm tư của những người chống đối hay khác ý kiến về việc điều hành đất nước.
"Đáng tiếc những điều ghi nhận ở trên đều không xảy ra, và cái mọi người nhìn thấy chỉ là những con dân Việt Nam, những người nói tiếng Việt của cả hai phía đang tìm cách triệt hạ nhau trước cặp mắt của những trọng tài quốc tế, mà họ dường như không bao giờ đưa ra kết quả chung cuộc"
Một buổi như vậy không chỉ là để tiếp xúc với những người Việt hải ngoại mà cả với những cá nhân như Đặng Xương Hùng, Phạm Chí Dũng, thân mẫu của Lê Quốc Quân hay thân phụ của ông Trần Huỳnh Duy Thức, thì có lẽ kết quả sẽ đẹp hơn nhiều, ít nhất có thể đối thoại và giải quyết trong tin thần xây dựng.
Ngược lại đối với những tổ chức NGO, hay những cá nhân tranh đấu cho công bằng xã hội, nhân quyền và dân chủ, định hướng rõ mục tiêu sau cùng của họ, sẵn sàng tiếp cận quan chức Nhà nước Việt Nam ở Thụy Sỹ, thẳng thắn vạch ra những tiêu cực và những điều chưa đúng của nhà nước Việt Nam về quan điểm nhân quyền, đừng để những tổ chức chính trị hay những cá nhân có động cơ chính trị ảnh hưởng thì có lẽ mục tiêu của họ sẽ dể dàng đạt được nhiều hơn, thay vì sự chỉ trích và khát vọng nhân quyền của họ bị biến thành công cụ chính trị.
Đáng tiếc những điều ghi nhận ở trên đều không xảy ra, và cái mọi người nhìn thấy chỉ là những con dân Việt Nam, những người nói tiếng Việt của cả hai phía đang tìm cách triệt hạ nhau trước cặp mắt của những trọng tài quốc tế, mà họ dường như không bao giờ đưa ra kết quả chung cuộc.
Bài viết thể hiện quan điểm và lối hành văn của ông Trần Nhật Phong, một người hoạt động trong ngành truyền thông tại Quận Cam, California, Hoa Kỳ.

Đông Á sẽ rơi vào xung đột vũ trang?


Cập nhật: 12:19 GMT - thứ năm, 6 tháng 2, 2014

Phi cơ Trung Quốc tập cất cánh trên chiến hạm ngoài khơi
Phát biểu tại một hội nghị về an ninh quốc tế ở thành phố Munich, nước Đức, gần đây cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger cho rằng xung đột quân sự có thể xảy ra tại châu Á.
Trong một bài viết trên nhật báo The Telegraph ở Anh ngày 06/01/2014, John Everard, cựu Đại sứ Anh ở Bắc Hàn, đã so sánh tình hình tại Á Đông năm 2014 với bối cảnh châu Âu năm 1914 – khi một nước Đức đang nổi (cũng giống như Trung Quốc bây giờ) tìm cách thay đổi hiện trạng để khẳng định vị thế của mình. Thái độ ấy của nước Đức lúc bấy giờ đã đẩy châu Âu và thế giới vào Thế chiến thứ nhất.

Theo ông hai khuynh hướng đó là nguyên nhân sâu xa có thể dẫn đến một cuộc chạy đua vũ trang toàn diện ở châu Á. Ông cũng nêu rằng nếu trong thế kỷ trước châu Âu là đại lục nguy hiểm nhất và là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc thế chiến, giờ mọi sự chú ý của giới quan sát và các nhà chiến lược lại hướng về những diễn biến gần đây tại châu Á.Nhưng đó không phải là lần đầu tiên các chính trị gia ngoài châu Á cảnh báo nguy cơ xung đột ở đây. Chẳng hạn, trong một bài phát biểu tại Đại học Zurich, Thụy Sĩ vào tháng 11/2011, Chủ tịch Liên hiệp châu Âu (EU) Herman Van Rompuy đã chỉ ra tâm lý đối đầu và chi tiêu lớn cho quốc phòng của các nước khu vực.
"Trong thế kỷ trước châu Âu là đại lục nguy hiểm nhất và là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc thế chiến, giờ mọi sự chú ý của giới quan sát và các nhà chiến lược lại hướng về những diễn biến gần đây tại châu Á."
Chủ tịch EU Herman Van Rompuy
Với những nhận xét như vậy, Chủ tịch EU muốn cảnh báo rằng nếu tình trạng đối đầu và chạy đua vũ trang cứ tiếp diễn, châu Á có thể rơi vào xung đột, thập chí phải đối diện với những cuộc chiến như châu Âu đã từng nếm trải trong thế kỷ vừa qua.
Nếu quan sát những gì diễn ra tại châu Á và Đông Á nói riêng trong những năm vừa qua – đặc biệt tình trạng căng thẳng và đối đầu giữa Trung Quốc và Nhật Bản trong thời gian gần đây – chắc ai cũng có thể nhận ra rằng hai khuynh hướng đó ngày càng gia tăng và đáng lo ngại.
Câu hỏi được đặt là tại sao hai khuynh hướng ấy càng ngày càng mạnh tại châu Á và liệu chúng có dẫn châu lục này vào một cuộc xung đột quân sự như ông Henry Kissinger cảnh báo?

Căng thẳng, đối đầu do đâu?

B52 của Mỹ
B52 bay trên vùng phòng không Trung Quốc công bố trên biển Hoa Đông hôm 27/11/2013.
Có rất nhiều nguyên nhân – trực tiếp hay gián tiếp – dẫn đến tình trạng căng thẳng, đối đầu giữa Trung Quốc và Nhật Bản trong thời gian qua.
Một trong những nguyên nhân ấy là các hiềm khích lịch sử để lại. Thời gian gần đây những hận thù quá khứ ấy không chỉ không được gạt bỏ mà còn được khơi dậy. Cụ thể, các cuộc ‘khẩu chiến’ mới đây giữa hai quốc gia này đều liên quan đến chiến tranh trong quá khứ.
Trong khi Bắc Kinh buộc Chính phủ Nhật phải xin lỗi về những ‘tội ác chiến tranh’ trước đây, Tokyo lại cho rằng họ đã nghiêm túc giải quyết chuyện quá khứ của mình.
Yếu tố khác làm khơi dậy những nghi kỵ quá khứ và gia tăng căng thẳng giữa hai nước láng giềng là chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi – nếu không muốn nói là hơi quá khích – càng ngày càng trở nên phổ biến và thậm chí được khuyến khích tại Nhật Bản và Trung Quốc. Chuyện Thủ tướng Shinzo Abe tới thăm đền Yasukuni – nơi thờ những binh sĩ Nhật tử trận trong thời chiến, trong đó có một số tội phạm chiến tranh của Nhật trong Thế chiến thứ hai – và việc Trung Quốc nổi giận lên án chuyến thăm của ông Abe chứng minh điều đó.
Một lý do nữa – dù ít được giới quan sát, phân tích nhắc đến – ít hay nhiều khiến Trung Quốc có thái độ mạnh bạo, nếu không muốn nói là khá hung hăng, với Nhật Bản và một số nước khu vực khác là Trung Quốc vẫn là một quốc gia độc đảng.
Nếu là một quốc gia dân chủ, có thể Trung Quốc không có những hành động hung hăng, bành trướng – như đơn phương đưa ra đường lưỡi bò hay áp đặt vùng nhận dạng phòng không – như nước này đã tiến hành.
"Ông Tập theo đuổi ‘Giấc mơ Trung Hoa’ một phần cũng vì sự trỗi dậy của Trung Quốc. Và đây là một nguyên nhân quan trọng nữa dẫn đến tình trạng căng thẳng, đối đầu giữa Bắc Kinh và Tokyo"
Ba lý do trên ít hay nhiều được thể hiện qua ‘Giấc mơ Trung Hoa’ mà ông Tập Cận Bình khởi xướng. Phần vì cảm thấy đất nước mình bị làm nhục trong quá khứ, phần vì thấy chủ nghĩa Mác-Lê càng ngày càng mất chỗ đứng tại Trung Quốc, giới lãnh đạo ở Bắc Kinh đang tìm cách khơi dậy lòng tự tôn dân tộc nơi người dân để tiến hành ‘cuộc phục hưng vĩ đại’ và cũng qua đó có thể duy trì, củng cố tính chính danh cho mình.
Ông Tập theo đuổi ‘Giấc mơ Trung Hoa’ một phần cũng vì sự trỗi dậy của Trung Quốc. Và đây là một nguyên nhân quan trọng nữa dẫn đến tình trạng căng thẳng, đối đầu giữa Bắc Kinh và Tokyo. Nhờ sự lớn mạnh về kinh tế, Trung Quốc càng ngày càng hiện đại hóa quân đội và công khai phô trương sức mạnh quân sự của mình. Chính điều này đã làm Nhật Bản và các nước khu vực khác quan ngại và buộc họ phải thay đổi chiến lược quân sự hay tăng cường quốc phòng để phòng vệ hoặc để đối trọng với Trung Quốc.
Một lý do khác làm tăng sự hiềm khích, căng thẳng giữa Trung Quốc với Nhật Bản và một số quốc gia trong vùng là tại đây có nhiều tranh chấp về lãnh thổ, lãnh hải tồn tại từ lâu và chưa được giải quyết thỏa đáng. Có thể nói không có khu vực hay châu lục nào phải đối diện với nhiều tranh chấp về chủ quyền như châu Á và Đông Á nói riêng. Và quốc gia có nhiều tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải nhất trong khu vực là Trung Quốc.
Hơn nữa, vùng biển tranh chấp là vùng biển quan trọng cả về kinh tế và chiến lược. Chẳng hạn, Biển Đông – nơi Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền với một số nước ASEAN, trong đó có Việt Nam – không chỉ giàu tài nguyên thủy sản, nhiều khoáng sản, nhất là dầu khí, mà còn là một trong những tuyến đường hàng hải quốc tế chính yếu. Kiểm soát được vùng biển này Trung Quốc sẽ có rất nhiều thuận lợi để thực hiện giấc mơ bá quyền, bá chủ (khu vực) của mình.

Thái độ mạnh bạo của Trung Quốc?

Quân đội Nhật Bản
Nhật Bản tăng cường phòng không và quân sự trong khi tiến hành các điều chỉnh về chính sách quốc phòng.
Vì những lý do trên, trong thời gian gần đây Bắc Kinh đã có nhiều động thái khá hung hăng và chính tham vọng bành trướng, bá quyền, bá chủ khu vực ấy của họ đã làm Nhật Bản cũng như nhiều nước khác trong vùng quan ngại và buộc các quốc gia này phải lên tiếng hay thay đổi chính sách quốc phòng để nhằm đối phó với Trung Quốc.
Điều đó cho thấy, dù có thể có những yếu tố khác tác động – như chuyện Thủ tướng Abe đi thăm đền Yasukuni hoặc quyết định thay đổi chính sách quốc phòng của ông – Trung Quốc là quốc gia chính gây nên những căng thẳng, đối đầu hay chạy đua vũ trang ở Đông Á gần đây.
"Dù muốn hay không, Nhật Bản và nhiều nước khác không thể thụ động ngồi im chứng kiến Trung Quốc phô trương sức mạnh quân sự và bất chấp công luận, luật pháp quốc tế đơn phương đưa ra đường lưỡi bò, áp đặt vùng cấm bay hay vùng đánh bắt cá tại các vùng biển thuộc chủ quyền của mình."
Vào tháng 12 năm ngoái, sau khi Thủ tướng Nhật tuyên bố gia tăng ngân sách quốc phòng, Bắc Kinh đã cáo buộc Tokyo viện cớ an ninh quốc gia để mở rộng quân đội và cho rằng hành động ấy sẽ làm gia tăng căng thẳng trong khu vực.
Nhưng có thể nói chính những động thái gần đây của Trung Quốc đã buộc Nhật Bản phải thay đổi chính sách quốc phòng để có thể chủ động đối phó với Trung Quốc. Nằm cạnh một quốc gia đang từng ngày lớn mạnh và đặc biệt khi quốc gia ấy lại có những động thái mạnh bạo, hung hăng, việc các nước láng giềng đang có tranh chấp lãnh hải với Bắc Kinh như Nhật Bản gia tăng quốc phòng hay thay đổi chiến lược quốc phòng cũng là chuyện dễ hiểu.
Trong một bài viết trên Bloomberg ngày 29/12/2013, Kishore Mahbubani – Hiệu trưởng trường Chính sách công Lý Quang Diệu, thuộc Đại học Quốc gia Singapore và là cựu Đại sứ Singapore tại Liên Hợp Quốc – nhận định rằng Tokyo rất quan ngại về thái độ hung hăng của Bắc Kinh và cho rằng Trung Quốc càng gây hấn, Nhật càng nhanh chóng tăng cường khả năng quân sự của mình và củng cố liên minh với Mỹ và các nước khu vực khác.
Đúng vậy, dù muốn hay không, Nhật Bản và nhiều nước khác không thể thụ động ngồi im chứng kiến Trung Quốc phô trương sức mạnh quân sự và bất chấp công luận, luật pháp quốc tế đơn phương đưa ra đường lưỡi bò, áp đặt vùng cấm bay hay vùng đánh bắt cá tại các vùng biển thuộc chủ quyền của mình.
Trung Quốc
Lãnh đạo TQ đang nuôi 'Giấc mơ Trung Hoa' khi nước này trên đà trỗi dậy
Điều đáng nói là căng thẳng giữa Trung Quốc và Nhật Bản không chỉ diễn ra trong giới lãnh đạo mà còn ở được thể hiện qua thái độ của người dân. Theo kết quả thăm dò dư luận mới đây của Pew Research Center – một trung tâm chuyên về thăm dò dư luận quốc tế đặt tại Thủ đô Washington, Mỹ – chỉ có 5% người Nhật được hỏi có thái độ tốt với Trung Quốc trong khi đó có đến 90% người Trung Quốc không có thiện cảm với Nhật.
Cũng theo kết quả của trung tâm này, năm 2007 có đến 29% người Nhật có thiện cảm với Trung Quốc nhưng năm 2013 con số đó chỉ là 5%. Điều này cũng chứng tỏ rằng những động thái của Trung Quốc trong những năm qua có tác động rất lớn đến dư luận người Nhật. Một kết quả khác cũng đáng nêu lên là có đến 96% người Nhật và 91% người Hàn Quốc được hỏi cho rằng sự lớn mạnh của Trung Quốc không tốt cho đất nước của họ.

Đối đầu sẽ dẫn đến xung đột?

Có thể nói kể từ khi kết thúc Chiến tranh lạnh tới nay, chưa lúc nào Đông Á rơi vào tình trạng căng thẳng, đối đầu như hiện nay. Tuy vậy, một cuộc xung đột vũ trang giữa Trung Quốc và Nhật Bản hay giữa Trung Quốc và một quốc gia khu vực nào đó khó có thể xảy ra – ít nhất là trong những năm tới.
"Một trong những lý do xung đột quân sự như vậy khó diễn ra trong thời gian tới là vì Trung Quốc và Nhật Bản phụ thuộc vào nhau rất nhiều về mặt kinh tế. Hiện tại Nhật Bản là đối tác thương mại lớn thứ ba của Trung Quốc và Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Nhật."
Một trong những lý do xung đột quân sự như vậy khó diễn ra trong thời gian tới là vì Trung Quốc và Nhật Bản phụ thuộc vào nhau rất nhiều về mặt kinh tế. Hiện tại Nhật Bản là đối tác thương mại lớn thứ ba của Trung Quốc và Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Nhật. Ước tính kim ngạch mậu dịch giữa hai nước lên tới 340 tỷ đôla. Vì vậy, bất cứ một cuộc xung đột nào sẽ gây hậu quả nghiêm trọng đến kinh tế hai nước. Giới phân tích thường nêu lập luận này để loại trừ khả năng xung đột vũ trang Trung-Nhật.
Về phía Trung Quốc, dù đang trở thành cường quốc thứ hai thế giới và số một khu vực về quân sự và có những động thái mạnh bạo trong thời gian qua, có thể giới lãnh đạo nước này vẫn chưa muốn hay không thể có một hành động khiêu chiến nào đó lúc này vì nếu làm như vậy Trung Quốc sẽ chịu rất nhiều tổn thất. Như bài viết của John Everard nhận định, nếu một cuộc xung đột vũ trang giữa Trung Quốc với Nhật hay một quốc gia nào đó trong khu vực xảy ra, Mỹ sẽ vào cuộc vì Washington đã thiết lập các liên minh quân sự với Nhật và nhiều nước trong vùng. Đây là một điều Bắc Kinh không muốn.
Hơn nữa, ngoài Bắc Hàn và một số ít quốc gia khác như Pakistan, đến giờ Trung Quốc vẫn không có nhiều đồng minh tại châu Á và hầu hết các nước trong khu vực đều có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc.
Do vậy, nếu Bắc Kinh tiến hành một cuộc chiến hay có một hành động hung hăng quá trớn nào đó lúc này, không chỉ Mỹ vào cuộc mà các nước trong khu vực cũng sẽ liên minh với nhau để đối phó với Trung Quốc. Chẳng hạn, trước những động thái gần đây của Bắc Kinh, một ủy ban thuộc Chính phủ Nhật dự kiến kêu gọi nước này cho phép quân đội giúp đỡ các đồng minh trong khu vực nếu các đồng minh bị tấn công.
Không quân Hàn Quốc
Hàn Quốc đang điều chỉnh chiến lược quân sự ở khu vực trong lúc tiếp tục đối phó với Bắc Hàn.
Và trên hết, Mỹ, Liên hiệp châu Âu và cộng đồng quốc tế nói chung và các nước khác tại Đông Á nói riêng cũng hiểu rõ rằng một cuộc xung đột vũ trang giữa Trung Quốc và Nhật sẽ tác động xấu lên nền kinh tế thế giới và có thể đẩy đưa không chỉ Đông Á mà cả thế giới vào một cuộc chiến. Do đó, không ai muốn chuyện đó xảy ra và sẽ tìm cách ngăn ngừa nó.

Không loại trừ hoàn toàn xung đột

Nói thế không có nghĩa là loại trừ hoàn toàn khả năng xung đột quân sự tại Đông Á. Chẳng hạn, trong một bài viết được đăng trên Tạp chí Foreign Policy hôm 04/10/2012, Michael Auslin nhắc lại rằng vào năm 1909, Norman Angell – một chính trị gia người Anh và cũng là một nhà báo – quả quyết rằng vì phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, các nước châu Âu không thể đánh chiếm lẫn nhau. Nhưng chỉ năm năm sau đó, chiến tranh bùng nổ tại châu lục này.
Một bài viết của Michael Crowley trên tạp chí Time ngày 02/12/2013 cho rằng vì những hiềm khích quá khứ và đối đầu hiện tại giữa Trung Quốc và Nhật Bản một cuộc chiến có thể xảy ra.
"Khác hẳn với châu Âu và thậm chí cả châu Phi, châu Á không có một cơ chế nào có thể giúp giải quyết ổn thỏa tranh chấp, xung đột giữa các nước"
John Everard, cựu Đại sứ Anh ở Bắc Hàn
Dù không nghĩ những căng thẳng, tranh chấp hiện tại sẽ biến thành một cuộc đối đầu quân sự, John Everard nhận định rằng những tranh chấp ấy cũng không thể giải quyết một cách hòa bình trong tương lai ngắn và như vậy căng thẳng, đối đầu sẽ tiếp diễn. Một lý do ông đưa ra là khác hẳn với châu Âu và thậm chí cả châu Phi, châu Á không có một cơ chế nào có thể giúp giải quyết ổn thỏa tranh chấp, xung đột giữa các nước.
Nhận định ấy ít hay nhiều có cơ sở vì đến giờ các cơ chế như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) hay Hội nghị bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) – ba diễn đàn quy tụ 10 nước ASEAN, Mỹ, Nga và các nước lớn trong khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc – được các nước ASEAN khởi xướng để đối thoại về các vấn đề an ninh khu vực không làm giảm hay giải quyết được các tranh chấp, căng thẳng ở Đông Á.
Vì vậy, dù xung đột vũ trang khó hay không xảy ra – như Michael Auslin đã từng dự đoán cách đây gần hai năm – những căng thẳng, đối đầu hiện tại có thể đây đưa châu Á vào ‘một cuộc chiến tranh lạnh’ trong những năm hay thậm chí những thập niên tới. Và điều này cũng có nghĩa là khu vực này vẫn phải luôn đối diện với nhiều nguy cơ xung đột, bất ổn.
Bài viết phản ánh quan điểm riêng và lối hành văn của tác giả, một người đang làm nghiên cứu tại Global Policy Institute, London.