Trang

7 tháng 2, 2014

Đông Á sẽ rơi vào xung đột vũ trang?


Cập nhật: 12:19 GMT - thứ năm, 6 tháng 2, 2014

Phi cơ Trung Quốc tập cất cánh trên chiến hạm ngoài khơi
Phát biểu tại một hội nghị về an ninh quốc tế ở thành phố Munich, nước Đức, gần đây cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger cho rằng xung đột quân sự có thể xảy ra tại châu Á.
Trong một bài viết trên nhật báo The Telegraph ở Anh ngày 06/01/2014, John Everard, cựu Đại sứ Anh ở Bắc Hàn, đã so sánh tình hình tại Á Đông năm 2014 với bối cảnh châu Âu năm 1914 – khi một nước Đức đang nổi (cũng giống như Trung Quốc bây giờ) tìm cách thay đổi hiện trạng để khẳng định vị thế của mình. Thái độ ấy của nước Đức lúc bấy giờ đã đẩy châu Âu và thế giới vào Thế chiến thứ nhất.

Theo ông hai khuynh hướng đó là nguyên nhân sâu xa có thể dẫn đến một cuộc chạy đua vũ trang toàn diện ở châu Á. Ông cũng nêu rằng nếu trong thế kỷ trước châu Âu là đại lục nguy hiểm nhất và là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc thế chiến, giờ mọi sự chú ý của giới quan sát và các nhà chiến lược lại hướng về những diễn biến gần đây tại châu Á.Nhưng đó không phải là lần đầu tiên các chính trị gia ngoài châu Á cảnh báo nguy cơ xung đột ở đây. Chẳng hạn, trong một bài phát biểu tại Đại học Zurich, Thụy Sĩ vào tháng 11/2011, Chủ tịch Liên hiệp châu Âu (EU) Herman Van Rompuy đã chỉ ra tâm lý đối đầu và chi tiêu lớn cho quốc phòng của các nước khu vực.
"Trong thế kỷ trước châu Âu là đại lục nguy hiểm nhất và là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc thế chiến, giờ mọi sự chú ý của giới quan sát và các nhà chiến lược lại hướng về những diễn biến gần đây tại châu Á."
Chủ tịch EU Herman Van Rompuy
Với những nhận xét như vậy, Chủ tịch EU muốn cảnh báo rằng nếu tình trạng đối đầu và chạy đua vũ trang cứ tiếp diễn, châu Á có thể rơi vào xung đột, thập chí phải đối diện với những cuộc chiến như châu Âu đã từng nếm trải trong thế kỷ vừa qua.
Nếu quan sát những gì diễn ra tại châu Á và Đông Á nói riêng trong những năm vừa qua – đặc biệt tình trạng căng thẳng và đối đầu giữa Trung Quốc và Nhật Bản trong thời gian gần đây – chắc ai cũng có thể nhận ra rằng hai khuynh hướng đó ngày càng gia tăng và đáng lo ngại.
Câu hỏi được đặt là tại sao hai khuynh hướng ấy càng ngày càng mạnh tại châu Á và liệu chúng có dẫn châu lục này vào một cuộc xung đột quân sự như ông Henry Kissinger cảnh báo?

Căng thẳng, đối đầu do đâu?

B52 của Mỹ
B52 bay trên vùng phòng không Trung Quốc công bố trên biển Hoa Đông hôm 27/11/2013.
Có rất nhiều nguyên nhân – trực tiếp hay gián tiếp – dẫn đến tình trạng căng thẳng, đối đầu giữa Trung Quốc và Nhật Bản trong thời gian qua.
Một trong những nguyên nhân ấy là các hiềm khích lịch sử để lại. Thời gian gần đây những hận thù quá khứ ấy không chỉ không được gạt bỏ mà còn được khơi dậy. Cụ thể, các cuộc ‘khẩu chiến’ mới đây giữa hai quốc gia này đều liên quan đến chiến tranh trong quá khứ.
Trong khi Bắc Kinh buộc Chính phủ Nhật phải xin lỗi về những ‘tội ác chiến tranh’ trước đây, Tokyo lại cho rằng họ đã nghiêm túc giải quyết chuyện quá khứ của mình.
Yếu tố khác làm khơi dậy những nghi kỵ quá khứ và gia tăng căng thẳng giữa hai nước láng giềng là chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi – nếu không muốn nói là hơi quá khích – càng ngày càng trở nên phổ biến và thậm chí được khuyến khích tại Nhật Bản và Trung Quốc. Chuyện Thủ tướng Shinzo Abe tới thăm đền Yasukuni – nơi thờ những binh sĩ Nhật tử trận trong thời chiến, trong đó có một số tội phạm chiến tranh của Nhật trong Thế chiến thứ hai – và việc Trung Quốc nổi giận lên án chuyến thăm của ông Abe chứng minh điều đó.
Một lý do nữa – dù ít được giới quan sát, phân tích nhắc đến – ít hay nhiều khiến Trung Quốc có thái độ mạnh bạo, nếu không muốn nói là khá hung hăng, với Nhật Bản và một số nước khu vực khác là Trung Quốc vẫn là một quốc gia độc đảng.
Nếu là một quốc gia dân chủ, có thể Trung Quốc không có những hành động hung hăng, bành trướng – như đơn phương đưa ra đường lưỡi bò hay áp đặt vùng nhận dạng phòng không – như nước này đã tiến hành.
"Ông Tập theo đuổi ‘Giấc mơ Trung Hoa’ một phần cũng vì sự trỗi dậy của Trung Quốc. Và đây là một nguyên nhân quan trọng nữa dẫn đến tình trạng căng thẳng, đối đầu giữa Bắc Kinh và Tokyo"
Ba lý do trên ít hay nhiều được thể hiện qua ‘Giấc mơ Trung Hoa’ mà ông Tập Cận Bình khởi xướng. Phần vì cảm thấy đất nước mình bị làm nhục trong quá khứ, phần vì thấy chủ nghĩa Mác-Lê càng ngày càng mất chỗ đứng tại Trung Quốc, giới lãnh đạo ở Bắc Kinh đang tìm cách khơi dậy lòng tự tôn dân tộc nơi người dân để tiến hành ‘cuộc phục hưng vĩ đại’ và cũng qua đó có thể duy trì, củng cố tính chính danh cho mình.
Ông Tập theo đuổi ‘Giấc mơ Trung Hoa’ một phần cũng vì sự trỗi dậy của Trung Quốc. Và đây là một nguyên nhân quan trọng nữa dẫn đến tình trạng căng thẳng, đối đầu giữa Bắc Kinh và Tokyo. Nhờ sự lớn mạnh về kinh tế, Trung Quốc càng ngày càng hiện đại hóa quân đội và công khai phô trương sức mạnh quân sự của mình. Chính điều này đã làm Nhật Bản và các nước khu vực khác quan ngại và buộc họ phải thay đổi chiến lược quân sự hay tăng cường quốc phòng để phòng vệ hoặc để đối trọng với Trung Quốc.
Một lý do khác làm tăng sự hiềm khích, căng thẳng giữa Trung Quốc với Nhật Bản và một số quốc gia trong vùng là tại đây có nhiều tranh chấp về lãnh thổ, lãnh hải tồn tại từ lâu và chưa được giải quyết thỏa đáng. Có thể nói không có khu vực hay châu lục nào phải đối diện với nhiều tranh chấp về chủ quyền như châu Á và Đông Á nói riêng. Và quốc gia có nhiều tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải nhất trong khu vực là Trung Quốc.
Hơn nữa, vùng biển tranh chấp là vùng biển quan trọng cả về kinh tế và chiến lược. Chẳng hạn, Biển Đông – nơi Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền với một số nước ASEAN, trong đó có Việt Nam – không chỉ giàu tài nguyên thủy sản, nhiều khoáng sản, nhất là dầu khí, mà còn là một trong những tuyến đường hàng hải quốc tế chính yếu. Kiểm soát được vùng biển này Trung Quốc sẽ có rất nhiều thuận lợi để thực hiện giấc mơ bá quyền, bá chủ (khu vực) của mình.

Thái độ mạnh bạo của Trung Quốc?

Quân đội Nhật Bản
Nhật Bản tăng cường phòng không và quân sự trong khi tiến hành các điều chỉnh về chính sách quốc phòng.
Vì những lý do trên, trong thời gian gần đây Bắc Kinh đã có nhiều động thái khá hung hăng và chính tham vọng bành trướng, bá quyền, bá chủ khu vực ấy của họ đã làm Nhật Bản cũng như nhiều nước khác trong vùng quan ngại và buộc các quốc gia này phải lên tiếng hay thay đổi chính sách quốc phòng để nhằm đối phó với Trung Quốc.
Điều đó cho thấy, dù có thể có những yếu tố khác tác động – như chuyện Thủ tướng Abe đi thăm đền Yasukuni hoặc quyết định thay đổi chính sách quốc phòng của ông – Trung Quốc là quốc gia chính gây nên những căng thẳng, đối đầu hay chạy đua vũ trang ở Đông Á gần đây.
"Dù muốn hay không, Nhật Bản và nhiều nước khác không thể thụ động ngồi im chứng kiến Trung Quốc phô trương sức mạnh quân sự và bất chấp công luận, luật pháp quốc tế đơn phương đưa ra đường lưỡi bò, áp đặt vùng cấm bay hay vùng đánh bắt cá tại các vùng biển thuộc chủ quyền của mình."
Vào tháng 12 năm ngoái, sau khi Thủ tướng Nhật tuyên bố gia tăng ngân sách quốc phòng, Bắc Kinh đã cáo buộc Tokyo viện cớ an ninh quốc gia để mở rộng quân đội và cho rằng hành động ấy sẽ làm gia tăng căng thẳng trong khu vực.
Nhưng có thể nói chính những động thái gần đây của Trung Quốc đã buộc Nhật Bản phải thay đổi chính sách quốc phòng để có thể chủ động đối phó với Trung Quốc. Nằm cạnh một quốc gia đang từng ngày lớn mạnh và đặc biệt khi quốc gia ấy lại có những động thái mạnh bạo, hung hăng, việc các nước láng giềng đang có tranh chấp lãnh hải với Bắc Kinh như Nhật Bản gia tăng quốc phòng hay thay đổi chiến lược quốc phòng cũng là chuyện dễ hiểu.
Trong một bài viết trên Bloomberg ngày 29/12/2013, Kishore Mahbubani – Hiệu trưởng trường Chính sách công Lý Quang Diệu, thuộc Đại học Quốc gia Singapore và là cựu Đại sứ Singapore tại Liên Hợp Quốc – nhận định rằng Tokyo rất quan ngại về thái độ hung hăng của Bắc Kinh và cho rằng Trung Quốc càng gây hấn, Nhật càng nhanh chóng tăng cường khả năng quân sự của mình và củng cố liên minh với Mỹ và các nước khu vực khác.
Đúng vậy, dù muốn hay không, Nhật Bản và nhiều nước khác không thể thụ động ngồi im chứng kiến Trung Quốc phô trương sức mạnh quân sự và bất chấp công luận, luật pháp quốc tế đơn phương đưa ra đường lưỡi bò, áp đặt vùng cấm bay hay vùng đánh bắt cá tại các vùng biển thuộc chủ quyền của mình.
Trung Quốc
Lãnh đạo TQ đang nuôi 'Giấc mơ Trung Hoa' khi nước này trên đà trỗi dậy
Điều đáng nói là căng thẳng giữa Trung Quốc và Nhật Bản không chỉ diễn ra trong giới lãnh đạo mà còn ở được thể hiện qua thái độ của người dân. Theo kết quả thăm dò dư luận mới đây của Pew Research Center – một trung tâm chuyên về thăm dò dư luận quốc tế đặt tại Thủ đô Washington, Mỹ – chỉ có 5% người Nhật được hỏi có thái độ tốt với Trung Quốc trong khi đó có đến 90% người Trung Quốc không có thiện cảm với Nhật.
Cũng theo kết quả của trung tâm này, năm 2007 có đến 29% người Nhật có thiện cảm với Trung Quốc nhưng năm 2013 con số đó chỉ là 5%. Điều này cũng chứng tỏ rằng những động thái của Trung Quốc trong những năm qua có tác động rất lớn đến dư luận người Nhật. Một kết quả khác cũng đáng nêu lên là có đến 96% người Nhật và 91% người Hàn Quốc được hỏi cho rằng sự lớn mạnh của Trung Quốc không tốt cho đất nước của họ.

Đối đầu sẽ dẫn đến xung đột?

Có thể nói kể từ khi kết thúc Chiến tranh lạnh tới nay, chưa lúc nào Đông Á rơi vào tình trạng căng thẳng, đối đầu như hiện nay. Tuy vậy, một cuộc xung đột vũ trang giữa Trung Quốc và Nhật Bản hay giữa Trung Quốc và một quốc gia khu vực nào đó khó có thể xảy ra – ít nhất là trong những năm tới.
"Một trong những lý do xung đột quân sự như vậy khó diễn ra trong thời gian tới là vì Trung Quốc và Nhật Bản phụ thuộc vào nhau rất nhiều về mặt kinh tế. Hiện tại Nhật Bản là đối tác thương mại lớn thứ ba của Trung Quốc và Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Nhật."
Một trong những lý do xung đột quân sự như vậy khó diễn ra trong thời gian tới là vì Trung Quốc và Nhật Bản phụ thuộc vào nhau rất nhiều về mặt kinh tế. Hiện tại Nhật Bản là đối tác thương mại lớn thứ ba của Trung Quốc và Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Nhật. Ước tính kim ngạch mậu dịch giữa hai nước lên tới 340 tỷ đôla. Vì vậy, bất cứ một cuộc xung đột nào sẽ gây hậu quả nghiêm trọng đến kinh tế hai nước. Giới phân tích thường nêu lập luận này để loại trừ khả năng xung đột vũ trang Trung-Nhật.
Về phía Trung Quốc, dù đang trở thành cường quốc thứ hai thế giới và số một khu vực về quân sự và có những động thái mạnh bạo trong thời gian qua, có thể giới lãnh đạo nước này vẫn chưa muốn hay không thể có một hành động khiêu chiến nào đó lúc này vì nếu làm như vậy Trung Quốc sẽ chịu rất nhiều tổn thất. Như bài viết của John Everard nhận định, nếu một cuộc xung đột vũ trang giữa Trung Quốc với Nhật hay một quốc gia nào đó trong khu vực xảy ra, Mỹ sẽ vào cuộc vì Washington đã thiết lập các liên minh quân sự với Nhật và nhiều nước trong vùng. Đây là một điều Bắc Kinh không muốn.
Hơn nữa, ngoài Bắc Hàn và một số ít quốc gia khác như Pakistan, đến giờ Trung Quốc vẫn không có nhiều đồng minh tại châu Á và hầu hết các nước trong khu vực đều có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc.
Do vậy, nếu Bắc Kinh tiến hành một cuộc chiến hay có một hành động hung hăng quá trớn nào đó lúc này, không chỉ Mỹ vào cuộc mà các nước trong khu vực cũng sẽ liên minh với nhau để đối phó với Trung Quốc. Chẳng hạn, trước những động thái gần đây của Bắc Kinh, một ủy ban thuộc Chính phủ Nhật dự kiến kêu gọi nước này cho phép quân đội giúp đỡ các đồng minh trong khu vực nếu các đồng minh bị tấn công.
Không quân Hàn Quốc
Hàn Quốc đang điều chỉnh chiến lược quân sự ở khu vực trong lúc tiếp tục đối phó với Bắc Hàn.
Và trên hết, Mỹ, Liên hiệp châu Âu và cộng đồng quốc tế nói chung và các nước khác tại Đông Á nói riêng cũng hiểu rõ rằng một cuộc xung đột vũ trang giữa Trung Quốc và Nhật sẽ tác động xấu lên nền kinh tế thế giới và có thể đẩy đưa không chỉ Đông Á mà cả thế giới vào một cuộc chiến. Do đó, không ai muốn chuyện đó xảy ra và sẽ tìm cách ngăn ngừa nó.

Không loại trừ hoàn toàn xung đột

Nói thế không có nghĩa là loại trừ hoàn toàn khả năng xung đột quân sự tại Đông Á. Chẳng hạn, trong một bài viết được đăng trên Tạp chí Foreign Policy hôm 04/10/2012, Michael Auslin nhắc lại rằng vào năm 1909, Norman Angell – một chính trị gia người Anh và cũng là một nhà báo – quả quyết rằng vì phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, các nước châu Âu không thể đánh chiếm lẫn nhau. Nhưng chỉ năm năm sau đó, chiến tranh bùng nổ tại châu lục này.
Một bài viết của Michael Crowley trên tạp chí Time ngày 02/12/2013 cho rằng vì những hiềm khích quá khứ và đối đầu hiện tại giữa Trung Quốc và Nhật Bản một cuộc chiến có thể xảy ra.
"Khác hẳn với châu Âu và thậm chí cả châu Phi, châu Á không có một cơ chế nào có thể giúp giải quyết ổn thỏa tranh chấp, xung đột giữa các nước"
John Everard, cựu Đại sứ Anh ở Bắc Hàn
Dù không nghĩ những căng thẳng, tranh chấp hiện tại sẽ biến thành một cuộc đối đầu quân sự, John Everard nhận định rằng những tranh chấp ấy cũng không thể giải quyết một cách hòa bình trong tương lai ngắn và như vậy căng thẳng, đối đầu sẽ tiếp diễn. Một lý do ông đưa ra là khác hẳn với châu Âu và thậm chí cả châu Phi, châu Á không có một cơ chế nào có thể giúp giải quyết ổn thỏa tranh chấp, xung đột giữa các nước.
Nhận định ấy ít hay nhiều có cơ sở vì đến giờ các cơ chế như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) hay Hội nghị bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) – ba diễn đàn quy tụ 10 nước ASEAN, Mỹ, Nga và các nước lớn trong khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc – được các nước ASEAN khởi xướng để đối thoại về các vấn đề an ninh khu vực không làm giảm hay giải quyết được các tranh chấp, căng thẳng ở Đông Á.
Vì vậy, dù xung đột vũ trang khó hay không xảy ra – như Michael Auslin đã từng dự đoán cách đây gần hai năm – những căng thẳng, đối đầu hiện tại có thể đây đưa châu Á vào ‘một cuộc chiến tranh lạnh’ trong những năm hay thậm chí những thập niên tới. Và điều này cũng có nghĩa là khu vực này vẫn phải luôn đối diện với nhiều nguy cơ xung đột, bất ổn.
Bài viết phản ánh quan điểm riêng và lối hành văn của tác giả, một người đang làm nghiên cứu tại Global Policy Institute, London.

Nga xuất khẩu 'báu vật quốc gia' Iskander


Hãng tin ARMS-TASS dẫn lời Tổng Giám đốc Văn pòng thiết kế kỹ thuật Kolomna (KBM), ông Valery Kashin cho biết, Nga đã sẵn sàng xuất khẩu tổ hợp tên lửa chiến thuật - chiến dịch tối tân nhất Iskander.
Theo ông Kashin, trong những năm gần đây, khi số lượng các đơn đặt hàng quốc phòng nhà nước đối với tên lửa Iskander là không nhiều, KBM đã không ngừng thúc đẩy các hoạt động tiếp thị xuất khẩu tổ hợp tên lửa Iskander ra nước ngoài thông qua Tập đoàn xuất khẩu vũ khí Rosoboronexport. Tuy nhiên, vì các lý do chính trị nên các hợp đồng xuất khẩu này đã không được ký kết.
Tổ hợp tên lửa Iskander
Tổ hợp tên lửa Iskander
Tuy nhiên, theo giải thích của ông Kashin thì KBM saud đó đã dừng các hoạt động tiếp thị xuất khẩu tên lửa Iskander do nhận được một hợp đồng cung cấp trong dài hạn cho Quân đội Nga, hiệu suất sản xuất loại tên lửa này đã tăng lên 4-5 lần.
Ông Kashin nói rằng, các khách hàng nước ngoài quan tâm đến tổ hợp tên lửa chiến thuật - chiến dịch Iskander có thể được Nga đáp ứng sau năm 2015.
"Hiện nay, chúng tôi đang thực hiện sản xuất tên lửa Iskander theo đơn đặt hàng nhà nước, đồng thời tiếp thị ra nước ngoài thông qua Rosoboronexport. Tôi nhấn mạnh rằng, đã có nhiều nỗ lực mới để xuất khẩu các tổ hợp tên lửa Iskander ra nước ngoài", ông Kashin nói.
9K720 Iskander (NATO định danh SS-26 Stone) là một loại tên lửa đạn đạo chiến dịch - chiến thuật di động. Nó được thiết kế để tiêu diệt các mục tiêu có giá trị cao nhằm vô hiệu hóa khả năng chiến đấu của đối phương.
Iskander được trang bị động cơ nhiên liệu rắn 2 giai đoạn. Động cơ được trang bị khả năng kiểm soát vector lực đẩy giúp tên lửa cơ động hơn.
Phạm Thái
 (Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu)

Ý kiến phản hồi 
Sắp xếp theo 
  • Việt nam cần nhanh chóng đàm phán mua loại tên lửa này để răn đe và góp phần bảo vệ vững chắc biên giới đất liền tổ quốc ,tạo hậu phương vững mạnh cho các lực lượng vũ trang đang n... 
    nguyen hung - gửi lúc 3:36 phút trước đó

    +0
  • lái súng không bán thì còn gì là lái súng
    123456The - gửi lúc 3:27 phút trước đó

    +0
  • Việt Nam mình mà có được loại tên lủa này thì hay biết mấy nhỉ! Việt Nam muôn năm

Hoa Kỳ ra tuyên bố về UPR Việt Nam


Cập nhật: 12:22 GMT - thứ sáu, 7 tháng 2, 2014

Kiểm định định kỳ phổ quát và nhân quyền lần thứ 18
Đoàn Việt Nam tham gia Kiểm định định kỳ phổ quát về nhân quyền của LHQ tại Geneva.
Đại Sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam đã ra tuyên bố về sự kiện Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) của Việt Nam tại Geneva, hôm 05/2/2014 từ Hà Nội.
Tòa Đại sứ tại Hà Nội hôm thứ Tư đưa phát biểu của Đại biện Lâm thời, Phái bộ Hoa Kỳ, ông Peter Mulrean cho hay Hoa Kỳ hoan nghênh Việt Nam tham gia công ước quốc tế về chống tra tấn và cảm ơn chính quyền Hà Nội đã có bài thuyết trình tại cuộc Kiểm định UPR lần thứ 18. hòa hơn'
Tuy nhiên theo Hoa Kỳ, chính quyền Việt Nam vẫn còn có những hành vi đáng 'quan ngại' và 'thất vọng' khi xâm phạm các quyền phổ quát về con người, trong đó có xâm phạm các quyền tự do ngôn luận, lập hội, hạn chế tôn giáo, ngăn cản xã hội dân sự v.v...
Bản tuyên bố của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ hôm thứ Tư nói:
"Hoa Kỳ cảm ơn đoàn Việt Nam về bài thuyết trình của đoàn,
"Chúng tôi hoan nghênh việc Việt Nam ký Công ước Chống Tra tấn, tiến bộ về bảo vệ quyền của người đồng tính/song tính/chuyển giới, và số lượng đăng ký nhà thờ tăng lên.
"Tuy nhiên, Việt Nam vẫn sách nhiễu và bắt giữ những người thực hiện các quyền hạn và các quyền tự do phổ quát, như tự do ngôn luận và lập hội. Việt Nam cũng hạn chế tự do tôn giáo, và việc sách nhiễu các nhà thờ không đăng ký vẫn diễn ra.
"Chúng tôi quan ngại về sự hạn chế đối với việc thành lập nghiệp đoàn độc lập, về việc sử dụng lao động trẻ em và lao động cưỡng bức, và việc chính phủ sử dụng lao động bắt buộc.
"Chúng tôi cũng thất vọng về việc Việt Nam ngăn cản xã hội dân sự tham gia vào toàn bộ quá trình UPR."

'Đề xuất của Hoa Kỳ'

Biểu tình ở Việt Nam
Các phong trào xuống đường của người dân Việt Nam đã phát triển mạnh trong những năm gần đây.
Bản tuyên bố của Hoa Kỳ đưa ra ba điểm để xuất với Việt Nam như sau:
"Sửa đổi luật an ninh quốc gia mơ hồ được sử dụng để đàn áp các quyền phổ quát, và thả vô điều kiện tất cả các tù nhân chính trị, như Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, Lê Quốc Quân, Điếu Cày và Trần Huỳnh Duy Thức;
"Bảo vệ các quyền của người lao động được quốc tế công nhận và tăng cường thực thi luật cấm lao động cưỡng bức; và
"Chúng tôi cũng thất vọng về việc Việt Nam ngăn cản xã hội dân sự tham gia vào toàn bộ quá trình UPR"
Đại sứ quán Hoa Kỳ tại VN
"Nhanh chóng phê chuẩn và thực thi Công ước Chống Tra tấn."
Tại cuộc Kiểm định định kỳ phổ quát về nhân quyền lần thứ 18, một số quốc gia và tổ chức cho rằng Việt Nam đã có một số chuyển biến nhất định trong vấn đề nhân quyền, trong đó có việc vận động trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn nhiều điểm phải cải thiện về nhân quyền trong đó Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ, nghiêm túc nhiều điểm trong 96 khuyến cáo mà Việt Nam đã chấp nhận trong lần kiểm định UPR bốn năm về trước.
Đại diện của Thái Lan tại UPR 18 kêu gọi Việt Nam thành lập một định chế về nhân quyền ở cấp độ quốc gia. Trong khi, Hungary khuyến nghị Việt Nam cần thúc đẩy tự do trên mạng.
UPR
Việt Nam tham dự UPR lần này với tư cách mới là thành viên của Hội đồng Nhân quyền của LHQ.
Việt Nam đang chịu nhiều sức ép hơn trong tư cách mới là một thành viên của Hội đồng Nhân quyền của LHQ.
Một số tổ chức Phi chính phủ Quốc tế như, UN Watch, cho hay vào ngày 25/2 này, một loạt các tổ chức NGO sẽ nhóm họp ở Geneva và đề nghị khai trừ Việt Nam khỏi Hội đồng Nhân quyền vì theo các tổ chức này "Việt Nam không đảm bảo các quyền tự do cho người dân ở mức cao nhất, tương xứng với tư cách thành viên."

'Luôn tôn trọng nhân quyền'

Sự kiện kiểm định định kỳ về nhân quyền tại Geneva lần này đã thu hút được sự chú ý của nhiều giới ở trong và ngoài nước.
"Tôi nghĩ rằng chắc chắn nó sẽ có tác động gây áp lực lên nhà cầm quyền Việt Nam. Nhưng những áp lực đấy có thực sự hữu hiệu để khiến nhà cầm quyền phải thay đổi chính sách liên quan đến nhân quyền thì tôi e rằng tính hiệu quả của nó là không nhiều"
TS Nguyễn Quang A
Đoàn đại biểu của chính phủ Việt Nam gồm nhiều bộ ngành tham gia UPR năm 2014 tại Geneva về cơ bản đã khẳng định nhà nước và chính phủ Việt Nam luôn luôn tôn trọng và thực thi nghiêm túc tất cả các điều luật, công ước quốc tế về nhân quyền và quyền công dân, cho rằng Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ đáng ghi nhận kể từ lần kiểm định trước hồi năm 2009.
Đại diện Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Ban Tôn Giáo Chính phủ của Việt Nam có mặt tại Geneva đều khẳng định trong các lĩnh vực cụ thể, Việt Nam đều tôn trọng các quyền của công dân, quyền con người, với chính phủ không kiểm duyệt báo chí, mạng internet, đảm bảo các quyền tự do về ngôn luận, tôn giáo, tín ngưỡng, hoặc không có tôn giáo, tín ngưỡng, tôn trọng các điều khoản đã ký của công ước quốc tế về chống tra tấn hoặc đối xử tàn nhẫn v.v...
Trong dịp này, tại Geneva, nhiều tổ chức nhân quyền, phi chính phủ và các nhà hoạt động vì dân chủ và nhân quyền của Việt Nam đã tham gia nhiều sự kiện liên quan, một số nhóm vận động từ các đảng phái như Việt Tân, The Voice, các cộng đoàn Việt Nam ở hải ngoại đã có các hoạt động gây áp lực lên chính quyền Việt Nam qua các diễn đàn quốc tế xung quanh sự kiện kiểm định.
UPR
Nhiều tổ chức, cá nhân đấu tranh cho nhân quyền ở hải ngoại tiếp tục gây áp lực với chính quyền VN.
Còn từ trong nước, một số giới quan sát cũng đã có những đánh giá về nhân quyền Việt Nam, cũng như dự kiến tác động của cuộc kiểm định UPR.
Hôm thứ Tư, 05/2, chuyên gia về nhân quyền luật hiến pháp của Việt Nam từ Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo sư Nguyễn Đăng Dung nói cho rằng cả sự kiện kiểm định UPR năm 2014 và việc Việt Nam dành ghế nhân quyền đều là những dấu hiệu có tác động 'tích cực và tiến bộ' đối với Việt Nam.
"Trước đây không có được nói và quốc tế cũng không hiểu gì, và đây là nơi để nói và người ta còn có sự kiểm định bằng các đoàn phi chính phủ đến để nói trước các cơ quan nhân quyền quốc tế, thì tôi thấy đấy là một sự tiến bộ," chuyên gia về luật nhân quyền và luật hiến pháp nói với BBC hôm 05/2/2014.

'Không kỳ vọng hiệu quả'

Tuy nhiên, TS Nguyễn Quang A không kỳ vọng kỳ kiểm định UPR sẽ có hiệu quả chuyển đội thực sự về chính sách với chính quyền Việt Nam. Ông nói:
"Tôi nghĩ rằng chắc chắn nó sẽ có tác động gây áp lực lên nhà cầm quyền Việt Nam", ông nói với BBC trong cuộc phỏng vấn hôm 5/2.
"Kể từ cuộc Kiểm điểm Thường kỳ Phổ quát lần thứ nhất trước đây, Việt Nam hứa hẹn thực thi nhân quyền. Nhưng trái lại, Việt Nam tung chiến dịch leo thang đàn áp như chưa từng các nhà bất đống chính kiến, và những ai phê phán chính quyền"
Hòa Thượng Thích Quảng Độ
"Nhưng những áp lực đấy có thực sự hữu hiệu để khiến nhà cầm quyền phải thay đổi chính sách liên quan đến nhân quyền thì tôi e rằng tính hiệu quả của nó là không nhiều."
Trước đó, hôm 04/2, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, qua diễn đàn cuộc Hội luận “Những tiếng nói của Xã hội dân sự bị cấm đoán" do Ủy ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam và Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền với sự hậu thuẫn của Ân Xá Quốc tế và Human Rights Watch tổ chức, nêu quan điểm:
"Kể từ cuộc Kiểm điểm Thường kỳ Phổ quát lần thứ nhất trước đây, Việt Nam hứa hẹn thực thi nhân quyền. Nhưng trái lại, Việt Nam tung chiến dịch leo thang đàn áp như chưa từng các nhà bất đống chính kiến, và những ai phê phán chính quyền. Các bloggers trẻ, nhà báo, những người đấu tranh bảo vệ quyền công nhân, quyền phụ nữ và thiếu nhi đã không ngừng bị sách nhiễu hay bị giam cầm chưa từng thấy xưa nay.
UPR
Một số tổ chức NGO và theo dõi nhân quyền yêu sách thu hồi ghế thành viên hội đồng nhân quyền LHQ của VN.
“Cuộc đàn áp cũng nhắm vào các cộng đồng tôn giáo. Bất cứ ở đâu trên thế giới này, tự do tôn giáo đều quan trọng – được ghi rõ tại điều 18 trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, cũng như trong Hiến Pháp Việt Nam. Là quyền không thể chối bỏ, ngay cả trong thời chiến. Trong hoàn cảnh không hiện hữu những đảng phái chính trị đối lập, các công đoàn tự do hay các tổ chức phi chính phủ độc lập, các tôn giáo là những tiếng nói trọng yếu cho xã hội dân sự, nói lên nỗi bất bình của nhân dân và áp lực cho sự cải cách," lá thư của Hòa thượng Quảng Độ gửi Hội luận từ Việt Nam viết.

'Hy vọng đạt đồng thuận'

Từ một góc nhìn riêng, hôm thứ Tư, Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Đại biểu Quốc hội Việt Nam, cũng khẳng định với BBC 'nhận thức' về nhân quyền ở Việt Nam, trong đó ở giới chức chính quyền thời gian gần đây đều đã được cải thiện.
Còn hôm thứ Năm, nguyên Phó Chủ nhiệm thường trực Văn phòng Quốc hội Việt Nam, luật sư Trần Quốc Thuận cũng thừa nhận 'không khí tự do, nhân quyền' ở Việt Nam thời gian gần đây đã 'dễ thở hơn'.
Tuy nhiên, luật sư Thuận cũng nói thêm nhận thức và thực thi nhân quyền của Việt Nam, hay là khoảng cách giữa 'nói và làm' trên thực tế vẫn còn có khác biệt lớn.
"Pháp luật, chỉ vô hình thức, thì nhìn đâu cũng thấy có, nhưng mà rõ ràng khi áp dụng thì tùy tiện, pháp luật mù mờ và chưa có một điều luật bảo vệ quyền, nhân quyền của người công dân một cách thực sự"
Luật sư Trần Quốc Thuận
Ông nói: "Pháp luật, chỉ vô hình thức, thì nhìn đâu cũng thấy có, nhưng mà rõ ràng khi áp dụng thì tùy tiện, pháp luật mù mờ và chưa có một điều luật bảo vệ quyền, nhân quyền của người công dân một cách thực sự."
Cũng nhân dịp này, hôm thứ Tư, ông Phạm Khắc Lãm, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Người VN ở Nước ngoài, cựu Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam, nêu quan điểm kỳ vọng giữa chính phủ Việt Nam và các lực lượng tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền người Việt Nam ở trong nước và hải ngoại sẽ đạt được một 'đồng thuận' trong vấn đề này.
“Giải pháp... là hai bên nhân nhượng nhau để đạt đến một sự đồng thuận. Có thể sự đồng thuận đó có khó khăn nhưng tôi tin rằng nếu có sự thiện chí của các bên thì chắc chắn một sự đồng thuận là có thể kiếm được,” ông nói với BBC.
Theo bbc

6 tháng 2, 2014

TQ dụ Nga đối phó với Nhật

(TNO) NGA ĐÃ BÁC BỎ ĐỀ XUẤT HỢP TÁC CỦA TRUNG QUỐC ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LÃNH THỔ VỚI NHẬT BẢN NGAY TRƯỚC THỜI ĐIỂM THỦ TƯỚNG NHẬT BẢN SHINZO ABE ĐỊNH GẶP GỠ TỔNG THỐNG NGA VLADIMIR PUTIN TẠI SOCHI (NGA).


Tổng thống Nga Vladimir Putin (trái) chào đón Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tại hội nghị thượng đỉnh G20 ở thành phố Saint Petersburg hồi tháng 9.2013 - Ảnh: AFP
Bắc Kinh đề xuất sẽ hậu thuẫn Moscow trong tranh chấp lãnh thổ với Tokyo; đổi lại, Moscow phải ủng hộ Bắc Kinh trong tranh chấp chủ quyền quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, AFP dẫn bản tin của tờ Mainichi Shimbun (Nhật Bản) đăng tải ngày 6.2.
Được biết, đề xuất này đã liên tục được Trung Quốc đưa ra kể từ năm 2010, nhưng luôn bị phía Nga bác bỏ, Mainichi Shimbun dẫn nguồn tin ngoại giao trong chính phủ Nga và Nhật tiết lộ.
Thông tin nói trên được tờ báo Nhật đăng tải ngay trước thời điểm ông Abe dự định tham gia buổi lễ khai mạc sự kiện Olympic mùa đông tại thành phố Sochi và có một cuộc họp với ông Putin sau đó.
Hai nguyên thủ được cho là sẽ bàn về nhóm đảo mà hai nước cùng tuyên bố chủ quyền, theo AFP.
Bất chấp hai nước có quan hệ chặt chẽ về thương mại, với sự gia tăng về mua bán nhiên liệu hóa thạch, giữa Tokyo và Moscow vẫn đang tồn tại tranh chấp chủ quyền quần đảo nằm ở phía bắc đảo Hokkaido của Nhật. Tokyo gọi quần đảo này là Vùng Lãnh thổ Phương Bắc, còn Moscow gọi là quần đảo Kuril.
Mặc dù khó có khả năng tranh chấp nói trên được giải quyết trong tương lai gần, nhưng giới quan sát nhận định mối quan hệ ngày càng gắn kết giữa Thủ tướng Nhật Abe và Tổng thống Nga Putin đem lại hi vọng cho tiến trình giải quyết mâu thuẫn giữa hai nước.
Hoàng Uy

Việt Nam bỏ lỡ một cơ hội cải cách


Cuối năm 1997, chúng tôi cũng lập luận rằng khủng hoảng tài chính trong khu vực có ảnh hưởng đến Việt Nam ít thôi.  Theo chúng tôi, các nhà đầu tư nước ngoài ngừng ở Thái Lan, hoặc các nước ASEAN khác, Việt Nam vẫn còn là điểm đến để họ chuyển đầu tư sang, nhưng người ta lại sợ và chủ động ngưng lại.
Lỡ một cơ hội
Bà Phạm Chi Lan nói: "Về đối ngoại của Việt Nam, kể cả kinh tế đối ngoại, phải nói rằng bước bỏ cấm vận đó là bước quan trọng để góp phần thúc đẩy vào việc năm 1995 chúng ta tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), ký hiệp định hợp tác kinh tế khung với EU, và bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Cả ba sự kiện này đều diễn ra trong tháng 7."
Vậy gỡ bỏ cấm vận là bước đi then chốt để Việt Nam  có mối quan hệ thực sự, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, với không chỉ Mỹ, mà toàn thế giới?
Đúng thế. Hiệp định kinh tế khung với EU chẳng hạn, có lẽ khó đạt được nếu Mỹ còn giữ cấm vận. Sau hiệp định khung này chúng ta mới thúc đẩy con đường xuất khẩu hàng may mặc sang EU, và nhận được viện trợ phát triển từ khu vực này.
Hơn nữa, sau khi Mỹ bỏ cấm vận, các công ty lớn của tất cả các nước trên thế giới mới có thể vào Việt Nam. Nhờ  xuất khẩu tăng vọt và đầu tư nước ngoài dồn dập vào Việt Nam, tốc độ kinh tế của Việt Nam tăng trưởng kỷ lục vào hai năm 1995 và 1996 với mức 9,5-9,6%/năm.
Rất tiếc là đến cuối năm 1997, khu vực lại rơi vào khủng hoảng tài chính, bắt đầu từ Thái Lan. Đồng tiền Thái Lan mất giá rất nhanh, và Việt Nam cũng ở trong khu vực khủng hoảng nên cũng chịu hiện tượng hệt như 10 năm sau, khi khủng hoảng kinh tế thế giới nổ ra cuối năm 2007. Chẳng, hạn một số dự án FDI cam kết đến năm 1997 rất cao, nhưng sau đó họ ngừng không làm nữa, thậm chí là nhà đầu tư rút ra.
Đà suy giảm tiếp tục đến năm 2001, và tăng trở lại vào năm 2002, nhờ có việc thực thi Hiệp định Thương mại song phương Mỹ -Việt. Nhưng đó cũng là nhờ năm 2001 trở đi có cái Luật Doanh nghiệp ra đời và có sự bù đắp của doanh nghiệp tư nhân, ra đời nhờ luật doanh nghiệp, cho sự hụt hẫng của doanh nghiệp FDI.
Phạm Chi Lan, cơ hội, đầu tư, Việt Nam, Thái Lan
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan (Ảnh Hoàng Ngọc)
Nhiều chuyên gia trong nước, và đặc biệt là nước ngoài, nói rằng Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội cải cách khi châu Á xảy ra khủng hoảng?
Đúng là Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội đó. Cũng may là sau đó Việt Nam vớt lại được bằng cách đưa ra luật doanh nghiệp.
Tôi nhớ rất rõ hồi cuối năm 1997, hay rõ nhất là năm 1998, khi nhà đầu tư không vào nữa, thậm chí rút ra, chúng tôi cũng lập luận rằng khủng hoảng tài chính trong khu vực có ảnh hưởng đến Việt Nam ít thôi, bởi vì Việt Nam cũng chưa quan hệ bao nhiêu với ASEAN, đồng tiền Việt Nam là đồng tiền không chuyển đổi được. Vì vậy, theo chúng tôi, các nhà đầu tư nước ngoài ngừng ở Thái Lan, hoặc các nước ASEAN khác, Việt Nam vẫn còn là điểm đến để họ chuyển đầu tư sang, nhưng người ta lại sợ và chủ động ngưng lại.
Biểu hiện của sự ngưng lại như thế nào?
Chúng ta đã sợ nước ngoài họ đầu tư vào nhiều, rồi đến lúc họ rút ra như Thái Lan, nền kinh tế sập.
Hay, trong khi đó các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam không chỉ muốn đầu tư trực tiếp mà cả gián tiếp nữa, và một số quỹ đầu tư hình thành ở nước ngoài rất muốn vào Việt Nam. Có điều, vì bầu không khí trong khu vực không mấy thuận lợi, chúng tôi không thể nào thuyết phục được nhà nước cho phép đầu tư gián tiếp.
Hoặc, lúc đó, các ngân hàng nước ngoài đang muốn đẩy tới việc lập chi nhánh để họ có thể tài trợ cho các dự án FDI, đổ vào Việt Nam rất nhiều vào những năm 1996-1997.
Hơn nữa, các lãnh đạo và quan chức lại cho rằng đấy là cái may mắn của Việt Nam khi chưa mở cửa về thị trường đầu tư gián tiếp, hay duy trì quản lý ngoại hối chặt chẽ, và không mở cửa đối với khu vực dịch vụ ngân hàng, và, vì vậy, Việt Nam đã không bị dính khủng hoảng như Thái Lan (!)
Nhà nước còn tự hào vì tư nhân Thái Lan bị khủng hoảng như vậy, nên Việt Nam phải để cho quốc doanh giữ phần chính trong nền kinh tế. Rất may là, lúc đó, ý tưởng với tư nhân trong nước không bị quá nặng nề do tư nhân Việt Nam quá nhỏ bé, lại bị hạn chế bởi hai luật cũ (Luật Doanh nghiệp Tư nhân và Luật Công ty), "chỉ được kinh doanh những cái nhà nước cho phép" với bao thủ tục o ép, cho đến khi Luật Doanh nghiệp được thông qua vào năm 1999.
Cơ hội đến từ hai mặt
Tóm lại, những giai đoạn tăng trưởng cao của Việt Nam đều gắn với những tác động từ bên ngoài, như bỏ cấm vận năm 1994, BTA cuối năm 2001?
Điều đó được giải thích như sau: Việc bỏ cấm vận tạo thời cơ cho dòng đầu tư từ Mỹ và các nước khác trên thế giới vào Việt Nam, và mở rộng cơ hội thị trường nước ngoài cho chính các công ty đó, và cả các công ty Việt Nam nữa. Tất cả những cái đó giúp cho kinh tế của Việt Nam tăng trưởng cao.
Hai động lực đổi mới của Việt Nam trong giai đoạn đầu đổi mới là xuất khẩu và luồng vốn FDI. Việt Nam chưa có động lực thứ ba là sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân, như với kinh nghiệm "cỗ xe tam mã" của các nước đi trước khác.
Sau đó, BTA, khi được thực thi, đã giúp kéo đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, và thúc đẩy xuất khẩu sang Mỹ với thuế quan giảm đáng kể.
Có thể nói thế này: Việt Nam, nhờ có cải cách ở trong nước để chuyển sang kinh tế thị trường là một lý do khiến Mỹ bỏ cấm vận. Với BTA được thực thi đã thúc đẩy cơ hội thị trường cho các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam, được ra đời hàng loạt do Luật Doanh nghiệp.
Hơn nữa, cơ hội thị trường của BTA không chỉ dành cho các doanh nghiệp Việt Nam và Mỹ, mà còn dành cho nhiều nước khác, miễn là sản xuất và lắp ráp hàng hóa tại Việt Nam. Đài Loan, Hồng Công, hay Hàn Quốc đưa rất mạnh những doanh nghiệp của họ vào Việt Nam.
Vả lại, khi thị trường Mỹ được đẩy lên rồi, các thị trường khác cũng không muốn bị thua thiệt so với Mỹ, và vì thế cũng phát triển theo, như EU hay Nhật Bản chẳng hạn.
Phạm Chi Lan, cơ hội, đầu tư, Việt Nam, Thái Lan
Cựu ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton thăm Việt Nam lần đầu lànăm 2000, với tư cách là phu nhân Tổng thống Bill Clinton cùng con gái Chelsea. Chuyến đi đánh dấu sự kiện Mỹ dỡ bỏ cấm vận kinh tế Việt Nam. Ảnh: Infonet
Kinh tế Việt Nam đang trong đà khó khăn bởi những hệ lụy từ nhiều phía của khủng hoảng toàn cầu. Liệu với khả năng ký hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) Việt Nam có thể hy vọng một chu kỳ tăng trưởng cao mới?
Tôi cho rằng cơ hội đến với Việt Nam nằm ở hai mặt: cải cách trong nước phải là tiền đề, bởi không có cải cách thì không có bỏ cấm vận, không có BTA được. Chúng ta phải xác định Việt Nam muốn giành được cái gì thì tự mình phải cố trước đã, còn yếu tố bên ngoài như gỡ bỏ cấm vận, BTA, hay sắp tới là TPP, chính là thời cơ để Việt Nam tận dụng ngoại lực, nhất là trong cái thế giới toàn cầu hóa như thế này.
Trong chuyện này, còn phải tính thêm cái hiệp định thương mại tự do với EU, có khả năng ký kết vào tháng 10 năm nay, khi Thủ tướng đi thăm EU. Phải nói lãnh đạo Việt Nam rất tỉnh táo, và khôn ngoan khi đẩy cả TPP và FTA với EU cùng một lúc.
Nhưng muốn tận dụng được TPP và FTA với EU, chúng ta phải tự đổi mới, tức là phải tái cơ cấu lại nền kinh tế, cải cách thể chế ở Việt Nam. Gỡ bỏ cấm vận, BTA, hay TPP/FTA với EU chỉ là thời cơ, và nếu Việt Nam không cải cách đúng mức cần thiết, sẽ không tận dụng được thời cơ, thậm chí còn gặp bất lợi hơn như khi gia nhập WTO.
Xin bà cho biết một cách ngắn gọn là bất lợi lớn nhất mà Việt Nam gặp phải sau khi gia nhập WTO là gì?
Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam gần như không thúc đẩy được cải cách, thậm chí mấy năm sau này còn thụt lùi. Trong nhiều lĩnh vực, Việt Nam đã quay trở lại những công cụ hành chính, chứ không phải công cụ thị trường...
Chẳng hạn?
Đối với doanh nghiệp nhà nước là lĩnh vực rõ nhất, khi những biệt đãi dành cho họ không bị thu hẹp lại, như cam kết khi gia nhập WTO, mà còn tăng lên. Và Việt Nam đã mượn cái cớ khủng hoảng toàn cầu làm lý do, nhưng đã xử lý rất sai lầm. Các nước khác đều coi khủng hoảng là cơ hội để thay đổi theo hướng tiến bộ hơn, vững chắc hơn, mà chúng ta lại quay trở lại những cái cũ kỹ, lạc hậu, và quan trọng nhất đã chịu thất bại ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
Xin cám ơn bà.
Huỳnh Phan (Thực hiện)

Bài cùng tác giả:
Nợ của DNNN cũng chưa có giải pháp đủ mạnh để giải quyết thực sự. Ví dụ, Vinashin giải thể và thành lập SBIC, thì khoản nợ to tướng của Vinashin ai sẽ trả?
Những chuyện giật mình ở "dân tộc thông minh"
"Có một lời nguyền của Chúa Jesus đối với Judas, tông đồ người Do Thái đã phản ông ấy, rằng nếu dân tộc Do Thái tụ tập lại ở một nơi, thì thế giới sẽ diệt vong.

'UPR và chiếc ghế nhân quyền là tích cực'

Cập nhật: 14:44 GMT - thứ tư, 5 tháng 2, 2014
Giáo sư Nguyễn Đăng Dung
Giáo sư Nguyễn Đăng Dung cho rằng nhà nước cũng phải nhận thức được người dân có những quyền gì
Báo cáo kiểm định định kỳ phổ quát về nhân quyền (UPR) lần này từ phía Việt Nam sau khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hội đồng Nhân quyền LHQ là là một hướng tích cực, tiến bộ, theo đánh giá của một chuyên gia luật nhân quyền từ Đại học Quốc gia Hà Nội.
Việc phát huy tích cực này thể hiện ở việc lần đầu tiên có một diễn đàn quốc tế cao cấp và phổ quát mà tại đó cả mặt tích cực, lẫn tiêu cực trong các vấn đề thuộc lĩnh vực nhân quyền được phát biểu công khai, theo Giáo sư Nguyễn Đăng Dung, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân.
"Trước đây không có được nói và quốc tế cũng không hiểu gì, và đây là nơi để nói và người ta còn có sự kiểm định bằng các đoàn phi chính phủ đến để nói trước các cơ quan nhân quyền quốc tế, thì tôi thấy đấy là một sự tiến bộ," chuyên gia về luật nhân quyền và luật hiến pháp nói với BBC hôm 05/2/2014.
Theo đánh giá của Giáo sư Dung, vấn đề nhân quyền ở Việt Nam trong những năm gần đây và hiện nay đã đạt được một số tiến bộ nhất định, đặc biệt trong nhận thức của người dân, các giới, trong đó có các quan chức, chính quyền.

'Từ nhận thức tới thực tế'

"Thứ nhất là người dân, cũng như mỗi con người, phải nhận biết được mình có quyền gì, và về phía nhà nước cũng thế, cũng phải nhận thức được người dân họ có những quyền gì, ở bên cạnh đó, nhà nước phải có trách nhiệm gì"
Ông nói:"Về vấn đề quyền con người, cần khẳng định rằng càng ngày, nhận thức của người dân, trong nhận thức của học giả, trong cán bộ chính quyền, kể cả Đảng, nhà nước, cũng như nhân dân càng ngày càng thấy thể hiện rõ, trước hết về mặt nhận thức.
"Và người ta cảm nhận thấy trước hết là quyền của con người là gì, và về phía chính quyền, phía nhà nước cũng đã thúc đẩy quyền con người trong hiến pháp mới. Trước hết về mặt nhận thức, chúng tôi thấy đã có sự động chạm đến vấn đề này, không như trước đây, trước đây nói đến nhân quyền, không ai dám nói cả."
Theo Giáo sư Dung, có hai vấn đề cần lưu ý hiện nay đối với Việt Nam nói chung và chính quyền nói riêng trong việc đưa các nhận thức, cam kết về vấn đề nhân quyền vào thực thi trên thực tế.
Ông nói: "Có hai vấn đề tôi thấy cần phải làm, cái thứ nhất là người dân, cũng như mỗi con người, phải nhận biết được mình có quyền gì, và về phía nhà nước cũng thế, cũng phải nhận thức được người dân họ có những quyền gì, ở bên cạnh đó, nhà nước phải có trách nhiệm gì."
Về vai trò của một số phong trào xã hội dân sự và công dân của Việt Nam ở trong nước gần đây liên quan tới vận động cho cải tổ dân chủ, xã hội và nhân quyền, nhà nghiên cứu bình luận:
"Đúng là những tháng gần đây, những năm gần đây, vấn đề các hiệp hội xã hội dân sự cũng như những hoạt động của những tổ chức này ít nhiều cũng có tác dụng, người ta cũng nhận thấy quyền của các tổ chức này và phía nhà nước cũng đã ít nhiều, đỡ hơn trước đây, khi có những cản trở những tổ chức này hoạt động."
Theo bbc

Thích hay không thích?

Cập nhật: 08:40 GMT - thứ năm, 6 tháng 2, 2014


Việt Nam có trên 700 tờ báo
Một tờ báo ở Việt Nam phải gỡ bỏ bình luận ca ngợi bài báo về Đảng sau khi bình luận này bị độc giả chê quá nhiều.
Báo Thanh Niên Online ngày 2/2 đăng lại bài viết của GSTS Hoàng Chí Bảo (Hội đồng Lý luận Trung ương) nhân ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bài viết có tựa đề "BấmĐảng ta, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân" trước đó đã đăng trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ với nội dung ca ngợi Đảng đã làm nên "những bước ngoặt lớn, những kỳ tích, làm thay đổi số phận của cả một dân tộc, mở ra triển vọng tốt đẹp cho cuộc sống của nhân dân".
Bài viết của Giáo sư Bảo nhận được hai bình luận (comments) của độc giả, cách nhau 34 tiếng đồng hồ.
Bình luận thứ nhất ca ngợi bài viết là "rất hay, rất sâu sắc và toàn diện". Bình luận thứ hai ngắn gọn: "Cũ mòn và giả dối". Các comments trên báo này đều đi kèm nút 'Thích' và 'Không thích' để độc giả phản hồi.
Ban biên tập báo Thanh Niên đã gỡ bỏ cả hai bình luận sau khi bình luận chê được gần 1.000 người bấm nút 'Thích' trong khi bình luận khen 'sâu sắc toàn diện' nhận gần 3.000 'Không thích'.
Đây có lẽ là lần đầu tiên các nút khen chê của báo mạng thu hút chú ý lớn như vậy của độc giả, vốn trước kia không có nhiều cách để bày tỏ thái độ của mình về các bài báo trong khi các bình luận bị ban biên tập kiểm duyệt.
Tương tự, báo VietnamNet hôm 5/2 đăng bài "BấmViệt Nam báo cáo LHQ về nhân quyền" cũng có hai nút 'Thích' và 'Không thích' cho độc giả bầu chọn.
Tới thời điểm 15:30 chiều thứ Năm 6/2, số người thích là 66 và số người không thích là 3.329.
Đến 17:50 chiều cùng ngày, số người thích tăng lên 82, và không thích lên 3892.
Trong trào lưu báo điện tử phát triển mạnh mẽ những năm gần đây, các báo ở Việt Nam đã cố gắng đưa vào các ứng dụng kỹ thuật mới hỗ trợ người đọc.
Theo bbc