Trang

6 tháng 6, 2014

Bất thường: Trung Quốc dồn dập mua gạo Việt Nam


Đăng Bởi  - 
Ảnh TL (minh họa)
Ảnh TL (minh họa)
Hầu hết các mặt hàng nông sản xuất khẩu sang Trung Quốc đều đang gặp vấn đề ở mậu biên lẫn chính ngạch, ngoại trừ gạo.
Ông Trương Thanh Phong, cố vấn Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), cho biết do lo ngại tình hình căng thẳng trên biển đông, nên thương nhân Trung Quốc đang đẩy mạnh nhập khẩu gạo của Việt Nam. Điều này khiến giá gạo nội địa tăng mạnh chỉ trong vài tuần gần đây.
Gom gạo quyết liệt
Những ngày này, tại các tỉnh ĐBSCL, nhất là khu vực cảng Cần Thơ, thường xuyên có hơn 30 tàu vào bốc gạo vận chuyển ra biên giới bán sang Trung Quốc. Giá gạo nội địa ngay lập tức tăng liền 200 đồng, lên trung bình 8.300 đồng/kg đối với loại 5% tấm. Cố vấn VFA đánh giá đây là hiện tượng rất khó hiểu. 
Còn cộng đồng doanh nghiệp thì đồn đoán “thương nhân Trung Quốc tranh thủ mua gạo dự trữ vì sợ tình hình căng thẳng trên biển Đông có thể ảnh hưởng đến việc mua bán gạo thời gian tới”.
Nguyên nhân vì sao chưa rõ, chỉ biết con số thống kê từ VFA cho thấy 5 tháng đầu năm nay, lượng gạo xuất khẩu tiểu ngạch lên đến 600.000 tấn, tăng hơn 50% so với cùng kỳ.
“Vài ngày gần đây giá lúa gạo nội địa vọt lên rất nhanh và có khả năng tăng nữa do các tàu đang vào lấy gạo cấp tập”, ông Phong thông tin thêm.
Nếu nhìn vào xuất khẩu gạo Việt Nam trong 4 tháng đầu năm nay sụt giảm cả về lượng lẫn giá trị tính trên mỗi chỉ số gần 20%, thì việc thị trường Trung Quốc gia tăng nhập gạo là tín hiệu đáng mừng. Nếu gạo vẫn được chuyển qua biên giới đều đặn, vụ hè thu tới đây nông dân sẽ không phải lo đầu ra như các năm trước. Tuy nhiên, chưa ai dự báo được những rủi ro rất lớn nếu thị trường này đột ngột dừng mua gạo Việt Nam.
Trung Quốc trở thành thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam cách nay 1 năm. Năm 2013, Việt Nam bán xấp xỉ 2,2 triệu tấn gạo chính ngạch, chiếm tới 33% trong tổng số 6,6 triệu tấn sang nước láng giềng có dân số 1,4 tỉ miệng ăn này.
Nếu cộng thêm khoảng 1,4 triệu tấn đi qua đường biên giới thì Trung Quốc trở thành thị trường nhập gạo số 1 của Việt Nam, với gần 50% sản lượng.
Còn 4 tháng đầu 2014, hợp đồng ký với Trung Quốc tăng 10%, trong đó đã giao 50% sản lượng với khoảng 1,2 triệu tấn (750.000 tấn chính ngạch, 450.000 tấn tiểu ngạch), chiếm 60% lượng gạo xuất khẩu.
Trung Quốc đang đẩy mạnh mua khiến giá lúa gạo nội địa tăng mạnh chỉ trong vài tuần gần đây - Ảnh minh họa
VFA dự báo nếu không bị ảnh hưởng bởi tình hình căng thẳng trên biển Đông, xuất khẩu gạo tiểu ngạch sang Trung Quốc năm nay dự kiến còn vượt xa con số 1,4 triệu tấn năm ngoái, tức khoảng 1,7-1,8 triệu tấn. Còn xuất khẩu chính ngạch cũng tăng cao hơn con số 2,2 triệu tấn năm 2013 do nhu cầu năm nay của Trung Quốc lớn hơn.
Mất gần hết thị trường tập trung
Sự sụt giảm xuất khẩu gạo đã không nằm ngoài dự đoán mà các chuyên gia đưa ra từ đầu năm, bởi lý do nhiều thị trường xuất khẩu tập trung và châu Phi của chúng ta rơi vào tay các đối thủ cạnh tranh trực tiếp.
Thị trường tập trung những năm gần đây, nhất là năm 2013 biến động dữ dội, xuất phát từ sau khủng hoảng 2008, các nước phụ thuộc đầu tư tăng sản xuất tại chỗ, giảm nhập khẩu, có nước giảm hẳn nhập như Indonesia. Năm 2012-2013, từ chỗ luôn nhập ổn định mỗi năm trên dưới 1,2-1,4 triệu tấn gạo của Việt Nam, Indonesia đã chính thức công bố không mua nữa.
Bên cạnh đó, Philippines mỗi năm nhập 2 triệu tấn gạo, nhưng năm nay cũng chỉ công bố mua tối đa 500.000 đến 1,2 triệu tấn, trong đó nhiều hợp đồng đã dành cho Thái Lan.
Trường hợp của Malaysia lại đặc biệt hơn. Dù 2 nước chưa thiết lập quan hệ cấp Chính phủ về mua bán gạo, nhưng những năm trước, nước này vẫn dành riêng một khoản quota nhập gạo với sản lượng 400.000-650.000 tấn dành cho Việt Nam.
Tuy nhiên, năm 2014 do nội bộ chính trị thay đổi, nên Malaysia thay đổi phương thức mua bán gạo, chuyển từ hợp đồng tập trung sang mua thương mại và Thái Lan trúng thầu gần hết lượng gạo mà nước này cần nhập khẩu.
Như vậy, hầu hết các thị trường tập trung ở châu Á, kể cả thị trường châu Phi vốn là truyền thống của Việt Nam đã bị mất hoặc rơi vào tay các đối thủ cạnh tranh trực tiếp, do gạo Việt Nam mất dần lợi thế về giá lẫn chất lượng.
Thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam đang thu hẹp dần
Thậm chí còn do doanh nghiệp Việt Nam không đủ năng lực đàm phán. Nên nay, doanh nghiệp chỉ còn trông chờ vào thị trường Trung Quốc như là “bà đỡ” để bán gạo cũng là điều dễ hiểu.
Minh Khoa

TQ xây đảo nhân tạo để lập vùng phòng không trên Biển Đông

Động thái của Trung Quốc nhằm xây dựng một hòn đảo nhân tạo tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam đã chứng tỏ sự thay đổi của Bắc Kinh từ phòng thủ sang tấn công. Đây cũng được xem là bước đi tiến tới thiết lập vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông. 

 >>  Trung Quốc nhăm nhe xây đảo nhân tạo gần bãi đá Gạc Ma 
 >> Philippines tính phản đối Trung Quốc thay đổi nguyên trạng Biển Đông

Trung Quốc xây đảo nhân tạo để lập vùng phòng không trên Biển Đông
Một công trình do Trung Quốc xây dựng trái phép trên bãi đá Gạc Ma (tên quốc tế là Johnson South) của Việt Nam.
Trung Quốc đang xem xét việc mở rộng cơ sở lớn nhất của mình tại Bãi Chữ Thập thành một hòn đảo nhân tạo, với cả đường băng và hải cảng, để thúc đẩy mạnh mẽ sức mạnh quân sự ở Biển Đông, một học giả và một chuyên gia hải quân Trung Quốc cho hay.
Bãi Chữ Thập (tên tiếng Anh là Fiery Cross Reef), thuộc quần đảo Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam), bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép kể từ năm 1988.
Theo giới phân tích, kế hoạch mở rộng Bãi Chữ Thập, nếu được phê chuẩn, sẽ là một dấu hiệu nữa cho thấy sự thay đổi về chiến lược của Trung Quốc nhằm giải quyết các tranh chấp chủ quyền kéo dài từ vị thế phòng thủ sang tấn công. Đây cũng được xem là một bước đi tiến tới việc thiết lập vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông.
Philippines hồi tháng trước đã phản đối các hoạt động cải tạo của Trung Quốc tại bãi đá Gạc Ma (tên quốc tế là Johnson South) gần đó.
Trong bối cảnh các diễn biến gần đây ở Biển Đông đang thu hút sự chú ý của thế giới đối với Trung Quốc, các nhà phân tích đã cảnh báo rằng việc cải tạo Bãi Chữ Thập có thể làm gia tăng căng thẳng trong quan hệ giữa Bắc Kinh và các quốc gia láng giềng.
Kế hoạch đã được trình lên chính phủ trung ương
 
Jin Canrong, một giáo sư về quan hệ quốc tế tại Đại học Renmin ở Bắc Kinh, cho biết đề xuất xây dựng một hòn đảo nhân tạo tại Bãi Chữ Thập đã được trình lên chính phủ trung ương. Hòn đảo nhân tạo sẽ rộng ít nhất gấp đôi căn cứ quân sự Mỹ Diego Garcia - một đảo san hô rộng 44 km2 ở giữa Ấn Độ Dương.
Trung Quốc gần đây đã xây dựng các cơ sở trên Bãi Chữ Thập, trong đó có một trạm quan sát.
Li Jie, một chuyên gia hải quân từ Viện nghiên cứu hải quân Trung Quốc, cho hay hòn đảo nhân tạo sẽ bao gồm một đường băng và một cảng. Sau khi mở rộng, hòn đảo sẽ tiếp tục là nơi đặt trạm quan sát và để cung cấp hỗ trợ và tiếp tế quân sự.
Một quan chức cấp cao đã nghỉ hưu giấu tên của quân đội Trung Quốc tiết lộ rằng việc xây dựng một đường băng tại Bãi Chữ Thập có thể cho phép Trung Quốc chuẩn bị tốt hơn cho việc thiết lập một vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông.
Tuyến bố của Bắc Kinh về một dùng như vậy trên Hoa Đông hồi tháng 12 năm ngoái đã gây ra những lo ngại đối với các quốc gia Đông Nam Á rằng một ADIZ tương tự sẽ được áp đặt ở Biển Đông.
Bãi Chữ Thập nằm gần các tuyến đường biển và có thể trở thành một điểm đỗ hải quân chiến lược, Alexander Neill, một trong những đại biểu tham dự Đối thoại Shangri-La 13 tại Singapore mới đây, cho biết.
Ông Jin cho hay việc cân nhắc có hay không và làm cách nào để thực hiện kế hoạch đảo nhân tạo tại Bãi Chữ Thập có thể phụ thuộc vào tiến triển công việc cải tạo tại bãi đá Gạc Ma.
"Đó là một dự án xây dựng trên biển rất phức tạp, vì vậy chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm từ bãi đá Gạc Ma", ông Jin nói.
Âm mưu xây dựng từ nhiều năm trước
Trung Quốc đã âm mưu các tham vọng hải quân từ nhiều năm trước.
Trung Quốc đã âm mưu các tham vọng hải quân từ nhiều năm trước.
 
Từ cuối tháng trước, các thông tin về kế hoạch xây dựng đảo nhân tạo đã lan truyền trên báo chí Trung Quốc. Trích dẫn một báo cáo được đăng tải trên trang web của Viện nghiên cứu và thiết kế đóng tàu số 9 Trung Quốc (NDRI) tại Thượng Hải, tờ Thời báo Hoàn cầu cho hay kế hoạch đảo nhân tạo - vốn chưa rõ ràng - có thể bao gồm một đường băng và một bến tàu.
Zhang Jie, một chuyên gia về an ninh khu vực tại Học viện khoa học Trung Quốc, cho biết Trung Quốc từ lâu đã nghiên cứu cải tạo đảo. Các viện nghiên cứu và các công ty đã phác thảo các thiết kế khác nhau trong thập niên qua. Chuyên gia này nói thêm rằng bà đã tham dự cuộc thảo luận về một đề xuất nhiều năm trước.
"Chúng tôi đã có khả năng xây dựng các đảo nhân tạo nhiều năm trước, nhưng chúng tôi phải kiềm chế vì chúng tôi không muốn gây quá nhiều tranh cãi", bà Zhang nói.
Tuy nhiên, năm nay đã chướng kiến một "bước ngoặt" khi Bắc Kinh liên tiếp tiến hành các hành động khiêu khích trong khu vực, trong đó có việc triển khai một giàn khoan dầu trái phép trong lãnh hải Việt nam.
"Chắc chắn rằng việc xây dựng một hòn đảo nhân tạo có thể trợ giúp tiếp tế cho các tàu và các giàn khoan gần đó, nhưng điều này cũng gây những ảnh hưởng rất tiêu cực trong khu vực", bà Zhang nhận định.
Theo bà Zhang, những động thái như vậy có thể làm gia tăng sự ngờ vực giữa các láng giềng của Trung Quốc và gây mất ổn định trong khu vực.
Bộ quốc phòng và bộ ngoại giao Trung Quốc hiện chưa có bình luận gì về các thông tin trên.
An BìnhTheo SCMP, Wantchinatimes

Vẫn giữ 3 mức đánh giá tín nhiệm

TTO - Sáng nay 6-6, Quốc hội đã nghe các báo cáo về việc sửa đổi, bổ sung nghị quyết 35 của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn.

Bà Nguyễn Thị Nương - Ảnh: TTO

Bà Nguyễn Thị Nương, Trưởng Ban công tác đại biểu của ủy ban thường vụ Quốc hội, cho biết ủy ban thường vụ Quốc hội đã thảo luận, cân nhắc nhiều mặt và đề nghị chọn phương án mỗi nhiệm kỳ của Quốc hội, HĐND tiến hành lấy phiếu một lần vào giữa nhiệm kỳ (năm thứ 3).
Ưu điểm của phương án này là gắn kết quả lấy phiếu tín nhiệm với việc xem xét, đánh giá cán bộ giữa nhiệm kỳ; đồng thời tạo được cơ chế giúp người được lấy phiếu tín nhiệm có thời gian, điều kiện để khắc phục hạn chế, thiếu sót trong công tác; tạo sự đồng bộ với quy định về thời hạn và thời điểm tổ chức lấy phiếu tín nhiệm trong cả hệ thống chính trị theo tinh thần kết luận tại Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI).
Riêng đối với thời gian còn lại của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII và nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân 2011-2016, Quốc hội và Hội đồng nhân dân tiếp tục tổ chức lấy phiếu tín nhiệm vào kỳ họp cuối năm 2014.
Theo bà Nguyễn Thị Nương, về mức đánh giá tín nhiệm trong việc lấy phiếu tín nhiệm, nhiều ý kiến đề nghị phiếu tín nhiệm vẫn nên để ở 3 mức “tín nhiệm cao”, “tín nhiệm”, “tín nhiệm thấp” như quy định của nghị quyết số 35. Một số ý kiến đề nghị phiếu tín nhiệm chỉ nên để ở hai mức là “tín nhiệm” và “không tín nhiệm”.
Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy nghị quyết số 35 đã xác định mục đích của việc lấy phiếu tín nhiệm là bước thăm dò mức độ tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn, giúp người đó tiếp tục phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, thiếu sót. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm cũng là một căn cứ làm cơ sở cho việc bỏ phiếu tín nhiệm và giúp cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ.
Vì vậy, việc xác định 3 mức tín nhiệm như quy định của nghị quyết số 35 là phù hợp, bảo đảm sự thận trọng trong xem xét, đánh giá cán bộ. Nếu chỉ quy định 2 mức là “tín nhiệm” và “không tín nhiệm” thì trùng với mức phiếu ở bước bỏ phiếu tín nhiệm khi xem xét trách nhiệm cán bộ. Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị giữ 3 mức đánh giá tín nhiệm trong việc lấy phiếu tín nhiệm như quy định của nghị quyết số 35.
Chủ nhiệm ủy ban Pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý nói đa số ý kiến trong ủy ban pháp luật nhất trí với việc tiếp tục quy định 3 mức độ đánh giá tín nhiệm đối với việc lấy phiếu tín nhiệm như đã quy định trong nghị quyết số 35 là “tín nhiệm cao”, “tín nhiệm”, “tín nhiệm thấp”. Việc xác định 3 mức này là bảo đảm tính thận trọng trong công tác cán bộ và phù hợp với đặc điểm công tác cán bộ ở nước ta, bởi lẽ người đang giữ chức vụ do Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn trước hết phải là những người đã được đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐN tin tưởng, tín nhiệm lựa chọn khi bỏ phiếu bầu hoặc phê chuẩn.
Tuy nhiên, tùy theo kết quả công tác, hoàn thành nhiệm vụ và phẩm chất đạo đức, lối sống của mỗi người mà mức độ tín nhiệm ở từng thời điểm có thể khác nhau. Do đó, việc lấy phiếu tín nhiệm có thể coi như bước kiểm tra lại mức độ tín nhiệm mà đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND dành cho người giữ chức vụ.
Trường hợp người giữ chức vụ do Quốc hội, HĐND bầu, phê chuẩn có sai lầm, khuyết điểm, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức, lối sống, làm mai một sự tín nhiệm của đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND thì đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND hoặc các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác có quyền kiến nghị Quốc hội, HĐND bỏ phiếu tín nhiệm để xem xét trách nhiệm của những người này.
Do đó, trong bước bỏ phiếu tín nhiệm, đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND phải thể hiện rõ thái độ “tín nhiệm” hay “không tín nhiệm” đối với người giữ chức vụ mà Quốc hội, Hội đồng nhân dân đã bầu hoặc phê chuẩn. Đây chính là điểm khác biệt giữa quy trình lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội, HĐND.
Chiều nay Quốc hội sẽ thảo luận tại tổ về các nội dung  nêu trên.
V.V.THÀNH

“Vua lúa” cũng bỏ cây lúa

TT - Không chỉ những nông dân ít đất từ giã cây lúa, ngay cả người từng được suy tôn là “vua lúa” tại miền Tây Nam bộ - ông Nguyễn Lợi Đức (xã Lương An Trà, Tri Tôn, An Giang), cũng vừa quyết định từ bỏ cây lúa do thu nhập thấp và bấp bênh.


Ông Nguyễn Lợi Đức với khu trang trại nuôi bò vừa mới hình thành trên 71ha đất vốn chuyên canh lúa - Ảnh: Đ.Vịnh
Sau vụ đông xuân, tiểu vùng chuyên canh lúa rộng 71ha của ông Đức ở Vĩnh Gia không được gieo sạ lại mùa vụ mới, thay vào đó là đàn bò đang gặm cỏ, cạnh đấy là khu nhà ở cho nhân công và những trại chăn nuôi vừa mới xây dựng xong. “Tuy lúa của tiểu vùng này cho năng suất rất cao nhưng tôi vẫn quyết định chuyển thành trang trại nuôi bò” - ông Đức nói.
* Vậy là ông... từ bỏ cây lúa?
- Đúng hơn là tôi đang tìm cách thoát cây lúa, chuyển 71ha trồng lúa ba vụ ở Vĩnh Gia này thành khu nuôi bò tập trung, dự kiến có đến hàng ngàn con. Trên đó lập 22 trại chăn nuôi, trồng cỏ xen lẫn trồng cây phân tán tạo bóng mát để làm nơi chăn thả, đồng thời trồng cỏ diện tích lớn cung cấp thức ăn cho bò. Riêng 120ha bên Lương An Trà vẫn còn trồng lúa, nếu thấy chăn nuôi phát triển thuận lợi, tôi sẽ tiếp tục mở rộng quy mô, rồi cũng cho chuyển toàn bộ đất lúa qua trồng cỏ cung ứng nguồn thức ăn tươi cho đàn bò.
* Vì sao ông đi đến quyết định như vậy?
- Sản xuất lúa đang gặp nhiều bất lợi, dù Nhà nước có chính sách hỗ trợ nhưng nông dân vẫn bị cuốn trong vòng luẩn quẩn rớt giá - thua lỗ. Hơn nữa, Việt Nam tuy là nước có lượng gạo hàng đầu thế giới nhưng thị trường xuất khẩu không ổn định, một số thị trường truyền thống đang teo tóp lại, phụ thuộc vào xuất tiểu ngạch qua Trung Quốc. Nguyên do xuất khẩu gạo đang bị cạnh tranh bởi Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan... Chưa kể Myanmar và Campuchia cũng đang đẩy mạnh phát triển trồng lúa để tăng xuất khẩu. Nếu không sớm tìm cách lo liệu để tự cứu mình, chắc chắn thời gian tới sẽ còn gặp nhiều khó khăn hơn.
* Với diện tích lên tới hàng trăm hecta, ông sản xuất lúa có nhiều lợi thế hơn các nông dân khác chứ?
- Với diện tích lớn, được đầu tư thủy lợi hoàn chỉnh, sử dụng cả máy laser san bằng mặt ruộng, cơ giới từ khâu làm đất, gieo cấy... đến khâu cắt gặt, vận chuyển nên chi phí đầu vào thấp. Sản lượng lúa thu hoạch nhiều, lại có sẵn kho chứa, muốn bán lúc nào thì bán, có đầu mối tiêu thụ không qua trung gian nên luôn đạt lợi nhuận cao hơn nhiều nông dân khác. Tuy nhiên các chi phí sản xuất, thu hoạch, bảo quản cứ tiếp tục tăng, gặp những lúc khó tiêu thụ, lúa rớt giá thì khoản thu lợi cũng chẳng đáng kể so với công sức, vốn liếng mình đầu tư.
Tôi cũng đã chuyển qua làm giống và cung ứng giống lúa. Dù đầu tư đầy đủ trang thiết bị, máy tách hạt, kho trữ, có đăng ký kiểm định chất lượng đàng hoàng, nhưng thời gian đầu còn tiêu thụ tốt, càng về sau lượng tiêu thụ càng sụt giảm nên cũng không có ăn.
* Phải chăng cây lúa không còn giữ được nông dân?
- Chưa nói đến chuyện cạnh tranh hay chi phí tăng, sản xuất còn gặp nạn thiếu nhân công trong khi dù cơ giới tối đa thì canh tác lúa vẫn cần một lượng lao động đáng kể. Trồng lúa cứ mãi nghèo, những hộ ít ruộng gặp cảnh khốn khó phải bán đất, cầm cố hay cho thuê đất rồi lên các khu công nghiệp ở miền Đông kiếm sống. Tại nông thôn, những công việc làm thuê thu nhập thấp lại không ổn định, khiến thanh niên cũng bỏ đi tha phương mưu sinh dẫn tới thiếu lao động nghiêm trọng.
Điều đáng lo hơn là trồng lúa cao sản luân vụ qua nhiều năm làm đất ruộng dần bị chai đi, canh tác tốn khá nhiều phân thuốc, từ đó dẫn tới dịch bệnh thường xuyên lại càng phải tiếp tục dùng thêm nhiều phân hóa học, thuốc phòng trừ sâu bệnh. Cái vòng luẩn quẩn ấy khiến trồng lúa bây giờ phải sử dụng nhiều vật tư làm đội chi phí sản xuất lên, trong khi năng suất lại có chiều hướng giảm khiến nhiều nông dân, trong đó có tôi, phải tính toán chuyển hướng chứ không thể bám mãi cây lúa.
* Nhiều ý kiến cho rằng do nông dân sản xuất tự phát, thiếu liên kết nên dẫn tới hậu quả trên. Quan điểm của ông thế nào?
- Ngành nông nghiệp triển khai, khuyến cáo nên trồng lúa chất lượng cao, nông dân làm theo nhưng lắm lúc lại khó tiêu thụ. Nhiều vụ trước đây, do doanh nghiệp (DN) không mua nên thương lái cắm bảng trên ghe “không mua lúa jasmine, OM 4900”. Vụ đông xuân này cũng vậy, bà con trồng lúa jasmine, OM 4900 nhiều nên giá bán gần như lúa thường, trong khi giống IR50404 lại được giá. Nông dân không phải ham làm nông sản chất lượng kém mà bắt buộc phải chạy theo thị trường, chạy theo nhu cầu của DN.
Bà con mình nuôi trồng thứ gì cũng được, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu, tiêu chuẩn này nọ dù cao đến đâu. Chẳng hạn như Global Gap, VietGap đều áp dụng thành công dễ dàng, thế nhưng sau đó sản phẩm bí đầu ra do DN không đảm bảo tiêu thụ ổn định. Mình làm lúa sạch, lúa chất lượng cao đều được, tại sao lại không làm? Vấn đề là làm ra rồi bán cho ai? Điều đó cho thấy không phải lỗi của nông dân. Ở đây là do DN chưa có thị trường sản phẩm cấp cao, chưa xây dựng được thương hiệu.
Nông dân luôn muốn hợp tác với DN nhưng DN có chủ động liên kết đâu! Như bản thân tôi với diện tích gần 200ha, đầy đủ điều kiện và phương tiện canh tác mà có đơn vị nào đề cập chuyện làm ăn đâu. Phần lớn DN kinh doanh lương thực trong nước chưa đủ tiềm lực để tổ chức liên kết sản xuất. Mặt khác, mối liên kết đó có thật sự căn cơ, bền chặt chưa? Vụ đông xuân rồi nhiều DN hợp đồng liên kết sản xuất với nông dân, các hợp tác xã nhưng rồi bẻ kèo không thực hiện bao tiêu.
ĐỨC VỊNH thực hiện

Thế giới 24h: Lãnh đạo Nga, Ukraina bất ngờ gặp

 - Tổng thống Nga bất ngờ thảo luận với Tổng thống đắc cử của Ukraina; Tổng thống Nga, Mỹ có cuộc gặp không chính thức dài 10-15 phút... là các tin nóng.

TIN LIÊN QUAN
Nổi bật
Tổng thống Nga Vladimir Putin hôm 6/6 đã có cuộc gặp quan trọng với Tổng thống đắc cử Ukraina Petro Poroshenko, để thảo luận về lệnh ngừng bắn và các bước đi giúp xuống thang khủng hoảng giữa hai nước.
Đây là cuộc gặp đầu tiên giữa hai vị nguyên thủ của Nga và Ukraina, tính từ khi tỷ phú Petro Poroshenko, người được mệnh danh là "vua chocolate", đắc cử chức tổng thống của Ukraina vào hôm 25/5 vừa qua.
Nga, Ukraina, Putin, tổng thống, ngừng bắn
Thủ tướng Đức, Tổng thống Ukraina và Tổng thống Nga trò chuyện tại Pháp. (Ảnh: Reuters)
Hai nhà lãnh đạo cùng nhau thảo luận khoảng 15 phút, trong cuộc gặp do Tổng thống Pháp Francois Hollande chủ trì trước bữa trưa dành cho những lãnh đạo thế giới tham dự hoạt động kỷ niệm 70 năm D-Day.
"Họ có thể đã bắt đầu thảo luận về các biện pháp nhằm xuống thang (khủng hoảng), trong đó bao gồm việc Moscow công nhận ông Petro Poroshenko đắc cử", một trợ lý của Tổng thống Pháp Hollande cho hay.
Theo vị này, khả năng về một lệnh ngừng bắn ở đông Ukraina cũng sẽ được thảo luận trong những ngày tới. Đây là nơi xảy ra các cuộc xung đột giữa lực lượng an ninh chính phủ với những người ly khai thân Nga.
Giới quan sát quốc tế đánh giá hoạt động kỷ niệm 70 năm D-Day ở Normandy là một hội nghị không chính thức về tình hình khủng hoảng ở Ukraina, vì hầu như những cuộc gặp bên lề đều xoay quanh chủ đề này.
Tin vắn
- Ngày 6/6, chính quyền quân sự Thái Lan đã quyết định bãi bỏ lệnh giới nghiêm tại bốn khu vực, bao gồm Cha Am, Hua Hin, Krabi và Phang Nga.
- Khoảng 15 chính khách Thái Lan đang thành lập một phong trào ở nước ngoài để lãnh đạo chiến dịch chống lại chính quyền quân sự của nước này.
- Hãng tin Kyodo của Nhật Bản dẫn lời một nguồn tin ngoại giao cho hay, CHDCND Triều Tiên đã bắt một công dân Mỹ vào giữa tháng 5 vừa qua.
- Giới chức sân bay Hồng Kông nói nhận được cảnh báo từ nhà chức trách Đài Loan về nguy cơ đánh bom trên chuyến bay từ Trung Quốc đại lục.
- Một nguồn tin từ lực lượng ly khai nói, quân đội Ukraina lần đầu dùng xe tăng tấn công lực lượng tự vệ địa phương ở Slavyansk, phía đông Ukraina.
- Trong khi tin tức từ lực lượng vệ binh quốc gia Ukraina nói, các phần tử ly khai đã nã đạn cối vào quân chính phủ Ukraina tại thành phố Slavyansk.
- Tổng thống Mỹ Barack Obama cùng người đồng cấp Nga Vladimir Putin ngày 6/6 đã có một cuộc trao đổi ngắn, bên lề lễ kỷ niệm 70 năm D-Day.
- Ít nhất 3 người chết, nhiều người bị thương trong vụ nổ ở nhà máy nhiệt điện Kosovo A bên ngoài thủ phủ Pristina, tỉnh ly khai Kosovo thuộc Serbia.
- Bà Sumitra Mahajan, lãnh đạo đảng Nhân dân Ấn Độ (BJP), đảng cầm quyền hiện nay, đã được bầu làm Chủ tịch Hạ nghị viện khóa 16 của Ấn Độ.
- Chánh Văn phòng Nội các Nhật Bản Yoshihide Suga cho biết rằng, nước này hy vọng Trung Quốc sẽ minh bạch hơn trong chương trình quốc phòng.
Tin ảnh
Nga, Ukraina, Putin, tổng thống, ngừng bắn
Tái hiện hình ảnh quân đồng minh đổ bộ lên Normandy. (Ảnh: AP)
Phát ngôn
Tổng thống Nga Vladimir Putin trong một cuộc phỏng vấn mới đây đã mô tả cựu Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton là yếu kém, thiếu nhã nhặn trong các phát ngôn.
"Tốt hơn hết là không tranh luận với phụ nữ", Tổng thống Nga phát biểu. "Bà Clinton chưa bao giờ quá nhã nhặn trong những phát ngôn của mình", ông nói thêm.
Kỷ niệm
Ngày 7/6/2006, Abu Musab al-Zarqawi, thủ lĩnh mạng lưới khủng bố al-Qaeda ở Iraq, đã bị giết chết trong một vụ không kích của Không lực Mỹ.
Sau cuộc chiến Iraq 2003, Abu Musab al-Zarqawi là gương mặt hắc ám nhất với Mỹ. Mỹ từng treo giá 25 triệu USD cho người tìm ra al-Zarqawi.
Thanh Vân

Khô hạn kéo dài, hàng nghìn người Quảng Ngãi khát nước

Nắng nóng kéo dài khiến các giếng khô cạn, nhiễm mặn, hàng nghìn người dân Quảng Ngãi đang lâm vào cảnh thiếu nước trầm trọng. 
6-6-Anh-1-Kho-han-7127-1402050822.jpg
Cả tháng nay, người dân ở các huyện vùng cao Trà Bồng, Tây Trà (Quảng Ngãi) hàng ngày phải ra dòng suối cách nhà hơn 2 km gùi nước về nấu ăn.
7-6-Anh-3-Kho-han-4467-1402099891.jpg
Ở xã Trà Thủy, mọi người góp tiền mua ống nhựa đấu nối chằng chịt, thay phiên nhau tìm nguồn nước trên các khe núi cách nhà hơn 3 km dẫn về cho dân làng sử dụng.
 
 
7-6-Anh-2-Kho-han-2609-1402099891.jpg
Người dân tận dụng nhiều chai, can nhựa hứng dòng nước yếu ớt từ các ống nhựa đưa nước suối về làng. Ông Trương Ngọc Đông, Chủ tịch UBND xã Trà Phong, huyện Tây Trà lo lắng, khô hạn kéo dài hơn tháng qua khiến nguồn nước trên địa bàn xuống thấp trầm trọng. Hiện, bà con sử dụng nước chủ yếu từ các dòng suối. Nếu nắng nóng kéo dài thêm nữa thì không biết lấy nguồn nước đâu mà sinh hoạt.
7-6-Anh-1-Kho-han-8801-1402099891.jpg
Sông, suối ở các huyện vùng cao Quảng Ngãi trơ đáy. Thống kê của UBND huyện Trà Bồng, hiện 1.000 hộ dân với hơn 4.000 nhân khẩu trên địa bàn đang thiếu nước sinh hoạt. "Chưa bao giờ người dân thiếu nước nghiêm trọng như năm nay. Dù huyện đã lập phương án chống hạn nhưng tình trạng thiếu nguồn nước diễn ra khắp nơi nên phải chờ tỉnh hỗ trợ nguồn kinh phí mới có thể khắc phục dần",  ông Trần Anh Tuấn, Trưởng phòng Nông nghiệp huyện Trà Bồng cho biết.
6-6-Anh-6-Kho-han-3252-1402050822.jpg
Hàng loạt giếng nước trơ đáy. "Để có nước mà sống, chúng tôi phải thức khuya dậy sớm, tranh nhau vét nguồn nước giếng ít ỏi sử dụng cho cả ngày", bà Anh ở thị trấn Trà Xuân cho hay.
6-6-Anh-7-Kho-han-9558-1402050822.jpg
Khô hạn kéo dài không chỉ gây thiếu nước trầm trọng ở nhiều huyện vùng cao, mà còn khiến nhiều giếng tại huyện đảo Lý Sơn cạn kiệt và bị xâm nhập mặn. Hàng ngày, các thành viên trong từng gia đình phân công nhau mang can nhựa đến chờ chực ở giếng nước Só La, thôn Đông, xã An Vĩnh.
6-6-Anh-8-Kho-han-8551-1402050822.jpg
"Khí hậu ngày càng khắc nghiệt, giếng nước trên đảo ngày càng nhiễm mặn nghiêm trọng nên người dân trên đảo chỉ duy nhất trông chờ vào giếng nước ngọt Só La. Năm nào nắng nóng càng kéo dài thì cuộc sống người dân phải chịu cơ cực trăm bề", ông Trần Nên ở xã An Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn chia sẻ. 
6-6-Anh-9-Kho-han-3996-1402050822.jpg
Người đàn ông này làm nghề "phu nước" (thồ nước thuê) cho người dân huyện đảo Lý Sơn với giá 20.000 đồng đến 30.000 đồng mỗi can nhựa 20 lít, tùy quãng đường xa gần. Theo ông Nhâm Xuân Sỹ, Giám đốc Trung tâm Khí tượng thủy văn Quảng Ngãi, việc khô hạn này là do từ đầu tháng 5 đến nay áp thấp nóng phía Tây kết hợp gió mùa Tây Nam gây nắng nóng kéo dài từ 36 đến 39 độ C. Dự kiến, tình trạng này sẽ chấm dứt trong vài ngày tới. 
Trí Tín

Thoát Trung: VN chỉ có một con đường: THAY ĐỔI HAY LÀ CHẾT!

(Thời sự) - Gen yêu nước của chúng ta vẫn luôn khỏe mạnh và vượt trội để thoát ra khỏi cái bóng Trung Hoa đang đè lên mọi mặt cuộc sống hôm nay.


Phản đối Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép Hải Dương 981 trên Vùng biển Việt Nam
1. Lý do đặt vấn đề về Thoát Á, Thoát Hán hay Thoát Trung
- Một câu hỏi được đặt ra một cách tự nhiên khi người ta quan sát thực tiễn đó là các quốc gia Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…đạt được trình độ phát triển cao về mọi mặt như hiện nay dù mỗi nước theo cách riêng của mình nhưng đều đã lần lượt thoát ra khỏi mô thức phát triển tù túng, gò bó vốn tồn tại hàng ngàn năm trên lục địa này.
Ví dụ như Nhật Bản từ thời Minh Trị cách đây hơn 120 năm đã khởi xướng thành công quá trình “Thoát Á” mà về bản chất là quá trình rũ bỏ gông cùm của hệ tư tưởng phong kiến và lối sống tù túng, ngột ngạt kiểu Trung Hoa vốn đã giam hãm đất nước này trong lạc hậu, chậm tiến và yếu hèn. Những nội dung của trào lưu xã hội “Thoát Á” khi đó chúng ta có thể tìm đọc trong tiểu phẩm “Thoát Á luận” lừng danh của học giả Fukuzawa Yukichi. Cũng tại Nhật, gần như đồng thời với trào lưu “Thoát Á” là phong trào “Âu hóa” diễn ra sâu rộng dưới sự dẫn dắt của giới trí thức có tư tưởng cách tân và được chính quyền ủng hộ mạnh mẽ do giới lãnh đạo tinh hoa của Nhật đã nhìn thấy hiểm họa to lớn nếu đất nước tiếp tục “ngủ yên” trong mô thức Trung Hoa.
Tại Việt Nam, thời cụ Phan Châu Trinh cũng đã diễn ra trào lưu xã hội mang hơi hướng “Thoát Á” nhưng rất tiếc là giới trí thức Việt Nam lúc đó chưa đủ mạnh, chính quyền thực dân và triều đình phong kiến đã không vượt qua nổi tầm nhìn thiển cận và tham lam nên đã dập tắt phong trào đúng nghĩa là xã hội dân sự này.
- Vậy tại sao mô thức phát triển Trung Hoa lại bị các quốc gia lân bang phê phán và muốn từ bỏ?
Vì đó là mô hình xã hội toàn trị kiểu phong kiến, con người bị giam hãm trong mọi không gian: chính trị, kinh tế, văn hóa và riêng tư gia đình. Trong mô thức đó động lực cá nhân bị thui chột hoặc méo mó dẫn đến kết cục là cả xã hội bị trì trệ, khủng hoảng triền miên. Điều này giải thích vì sao phương Tây đã thắng thế trong cuộc chinh phục phương Đông trong hơn 100 năm qua và các quốc gia lạc hậu ở Châu Á đã nhận thức được rằng con đường đúng đắn phải là thoát Á (đồng nghĩa với thoát Trung Hoa) và học tập Tây phương. (các độc giả có thể tham khảo bài viết “Thoát Á mới có thể thoát thân” và “Quốc gia “tự nâng mình” theo chuẩn mực thế giới” của Phạm Gia Minh trên tuanvietnam).
2. Thế nào là thoát Trung đối với Việt Nam?
Câu trả lời có thể sẽ rất phong phú và đa dạng bởi lẽ nếu nói một cách văn hóa, nhẹ nhàng thì cái bóng của Trung Hoa đã từng phủ lên Việt Nam hàng ngàn năm nay trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội và nhân chủng. Một cách trực diện và sát thực tế hơn thì móng vuốt của con sói Trung Hoa luôn muốn ghì chặt đất nước và dân tộc Việt này trong vòng tay lông lá của nó trong suốt chiều dài lịch sử.
Vậy thì thoát Trung đối với Việt Nam ta phải vừa làm sao để móng vuốt của con sói không dám đụng vào lãnh thổ vừa làm sao vượt ra khỏi sự che phủ của Trung Hoa lên mọi mặt cuộc sống để dân tộc được hưởng ánh sáng mặt trời.
Những cuộc kháng chiến thắng lợi quét sạch quân xâm lược phương Bắc đã góp phần gìn giữ nền độc lập dân tộc cũng chính là hành động đánh đuổi con sói, thế nhưng để ra khỏi cái bóng đen lừng lững của Trung Hoa thì dân tộc ta đã làm được chưa? Tôi xin đặt câu hỏi với các bạn tại đây.
Theo thiển ý của cá nhân tôi thì dân tộc ta chưa bao giờ thoát ra khỏi cái bóng đó trừ một vài thời khắc ngắn ngủi trong lịch sử. Dẫn chứng cụ thể là các vị anh hùng áo vải Việt Nam được nhân dân yêu nước ủng hộ tiến hành kháng chiến thắng lợi nhưng khi đã nắm quyền thì lại chưa hề biết xây dựng lên MÔ HÌNH XÃ HỘI TIẾN BỘ HƠN TRUNG HOA VỀ CHẤT và kết cục là MÔ HÌNH CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN VIỆT NAM DƯỜNG NHƯ LÀ MÔ HÌNH PHONG KIẾN TRUNG HOA THU NHỎ.
Và ngày nay thì Trung Quốc và Việt Nam là tương đồng về mô thức phát triển và thể chế kinh tế – chính trị – xã hội.
Do vậy THOÁT TRUNG ngày nay chắc chắn phải lấy nội dung CẢI CÁCH THỂ CHẾ làm mục tiêu hàng đầu.
Tuy nhiên bên cạnh sự tương đồng đó Việt Nam ta còn có thêm một số điểm yếu khác do hoàn cảnh lịch sử để lại đó là căn bệnh quan liêu – bao cấp kiểu Liên Xô và lề thói tư duy, hành động tiểu nông. Những căn bệnh này chắc chắn sẽ tạo thêm khó khăn cho quá trình THOÁT TRUNG.
3. Những bước đi của cải cách thể chế
Theo cách hiểu chính thống hiện nay thì thể chế là tập hợp những quy tắc cùng các chế tài được viết thành văn (chẳng hạn như Hiến pháp, các bộ Luật, quy chế, nghị định…) và bất thành văn (ví dụ như các quy tắc đạo đức, ứng xử chịu ảnh hưởng của văn hóa và truyền thống…) do con người lập nên, được chia sẻ trong cộng đồng nhằm hướng hành vi con người theo những lộ trình tương đối dễ tiên đoán, qua đó tạo ra một mức độ trật tự nhất định.
Người ta phân chia ra thành hai loại thể chế đó là:
- Thể chế bên trong: là hệ thống các quy tắc hình thành bởi kinh nghiệm lâu dài và được số đông trong cộng đồng chấp nhận, tuân thủ và trở thành truyền thống. Văn hóa là một thành tố quan trọng của thể chế bên trong.
- Thể chế bên ngoài: là hệ thống các quy tắc được thiết kế, được định rõ trong các bộ Luật, các quy định, đồng thời được áp đặt chính thức bởi một cơ quan quyền lực như Chính phủ chẳng hạn.
Giữa hai loại hình thể chế có mối tương tác, thực tiễn cho thấy hiệu lực của thể chế bên ngoài phụ thuộc vào liệu chúng có phù hợp, bổ trợ cho các thể chế bên trong không.
Như vậy để THOÁT TRUNG và hội nhập với cộng đồng các quốc gia văn minh, dân chủ và thịnh vượng thiết nghĩ cần có những biện pháp cụ thể nhằm
1/. Cải cách thể chế bên ngoài: đó là xây dựng bản Hiến Pháp tiên tiến và các bộ Luật đáp ứng đòi hỏi hiện nay như Luật Trưng cầu Dân ý, Luật về Hội, Luật biểu tình, Luật tiếp cận thông tin, v.v.
Việc xây dựng những bộ quy tắc mới, sửa đổi để hoàn thiện các quy tắc, Luật, biện pháp chế tài hiện hành là việc có thể làm được ngay trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn nếu như các cơ quan công quyền có quyết tâm.
2/. Cải cách thể chế bên trong: quá trình này không thể có kết quả trong ngắn hạn vì nó chịu ảnh hưởng của tập quán, lối nghĩ và truyền thống văn hóa. Hơn thế nữa vai trò của các cơ quan công quyền trong việc tạo chuyển biến tích cực đối với lĩnh vực này sẽ rất hạn chế và đòi hỏi chi phí xã hội cao nếu như không biết kết hợp với các hoạt động phong phú của xã hội dân sự.
Người nông dân khi nhận thức được hiểm họa của việc đào gốc hồ tiêu, quế hay nuôi ốc bươu vàng, đỉa, v.v. đem bán cho thương lái Trung Quốc thì bằng những mạng lưới mang tính xã hội dân sự như cơ cấu dòng họ, đồng hương hay nhóm sinh hoạt tổ hưu, cựu chiến binh… sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của hệ thống truyền thông xã hội lên nhiều lần.
Rõ ràng hiện nay đang có tình trạng “xơ cứng” ở thể chế bên ngoài thể hiện qua việc chậm ban hành hoặc thiếu các quy định mang hơi thở cuộc sống và chế tài đủ mạnh để ngăn chặn hành động phá hoại kinh tế của các thương lái Trung Quốc, đặc biệt trong lĩnh vực buôn bán tiểu ngạch qua biên giới, khai thác khoáng sản và nông, lâm, ngư nghiệp.
Đối với thể chế bên trong thì tâm lý “chuộng hàng ngoại” trong một bộ phận không nhỏ người tiêu dùng đã và đang góp phần bóp chết sản xuất nội địa. Tật xấu thiếu tính hợp tác, nâng đỡ nhau trong giới doanh nhân Việt đã là nguyên nhân khiến hàng Việt khó trụ vững trên thương trường quốc tế. Và còn muôn vàn những ví dụ sinh động khác như tệ nạn đề đóm, cờ bạc, mê tín dị đoan, trọng hình thức mà coi nhẹ nội dung, trọng nam khinh nữ, thiếu tính kỷ luật, ăn cắp vặt, gây gổ, say rượu, v.v. cho thấy trong văn hóa truyền thống Việt Nam chúng ta còn có rất nhiều điểm hạn chế đang trở thành vật cản trên con đường THOÁT TRUNG để hội nhập với THẾ GIỚI VĂN MINH.
Thiết nghĩ để xây dựng thể chế bên trong tiến bộ, phù hợp với bản sắc dân tộc góp phần THOÁT TRUNG một cách thiết thực và căn cơ, bền vững rất cần tới những hoạt động tự nguyện của các tổ chức xã hội dân sự mang tính lan tỏa, có chiều sâu, kiên trì và huy động được trí tuệ cộng đồng. Hãy phát huy TÂM và TÀI trong DÂN để tránh căn bệnh xơ cứng, nặng về hình thức và thành tích mà bấy lâu nay các tổ chức xã hội dân sự do Nhà nước điều hành vẫn mắc phải.
4. Kết luận
Trong lịch sử các quốc gia Châu Á, quá trình “Thoát Á” hay “Thoát Hán”, “thoát Trung” thành công thường phải đi kèm các điều kiện “Thiên thời – Địa Lợi – Nhân hòa”.
Thiên thời tức là hoàn cảnh quốc tế bên ngoài đòi hỏi phải có sự thay đổi trong nước. Ngày nay Việt Nam đã gia nhập nhiều tổ chức và ký kết nhiều công ước quốc tế (ví dụ như Công ước về Nhân quyền, Công ước về chống tra tấn…) và đang đàm phán TPP khiến chúng ta phải tự nhìn lại mình để thực hiện những thay đổi phù hợp. Sức ép từ quốc tế lên quá trình phát triển và hội nhập của Việt Nam là rất lớn.
Mặt khác Trung Quốc đã đánh rơi chiếc mặt nạ “trỗi dậy hòa bình” và công khai xâm lược vùng biển Việt Nam, bắt đầu bằng vụ đưa giàn khoan Hải Dương 981 và sẽ tiếp tục gây sức ép mọi mặt lên Việt Nam. Trước áp lực từ phương Bắc chúng ta chỉ có hai lựa chọn: một là phải tự thay đổi, phải củng cố an ninh, quốc phòng, kinh tế và dựa vào DÂN, thực lòng xây dựng một thể chế văn minh, dân chủ để tranh thủ được sự ủng hộ Quốc tế, hoặc là quy phục đầu hàng để chịu ách Bắc thuộc lần thứ hai và mãi mãi đánh mất chính mình.
Trước sức ép ghê gớm từ cả hai phía trên bình diện thời cuộc quốc tế, Việt Nam ta chỉ có một con đường: THAY ĐỔI HAY LÀ CHẾT!
Địa lợi là yếu tố chưa bao giờ ủng hộ Việt Nam trong quá trình THOÁT TRUNG bởi lẽ Việt Nam luôn trong thế “núi liền núi, sông liền sông” với Trung Quốc. Tuy nhiên trong thế kỷ XXI này Trung Quốc không còn cái ưu thế cậy gần để một mình gây ảnh hưởng kinh tế, văn hóa và mang quân đi xâm lược như trước kia nữa.
Trong thế giới “phẳng” ngày nay, cự ly và khoảng cách do vậy cũng không có ý nghĩa to lớn như những thế kỷ trước. Việt Nam giao lưu kinh tế, văn hóa – xã hội với cả thế giới và nhân đây xin một lần nữa cảm ơn các bậc trí giả tiền nhân của chúng ta đã sáng suốt chấp nhận hệ thống ký tự Latinh làm cơ sở cho chữ quốc ngữ ngày nay. Người ta thường nói chữ viết là chiếc thuyền chở tư duy và tình cảm đến những bến bờ của nền văn hóa và nếu như vậy thì dân tộc Việt Nam từ hơn một thế kỷ nay (tính từ 1867) đã từ bỏ con thuyền nan Hán Nôm cũ kỹ để bước lên con tàu chạy động cơ lớn vượt đại dương.
Trong lĩnh vực văn hóa, nền tảng của thể chế bên trong, Việt Nam ta như vậy có ưu thế rất lớn để THOÁT TRUNG.
Khi đã xây dựng được thể chế bên ngoài tiến bộ trên cơ sở thể chế bên trong lành mạnh thì chúng ta sẽ tạo ra một môi trường thể chế có sức mạnh nội lực to lớn. Đó là sức mạnh sáng tạo của hơn 90 triệu người dân yêu nước được khuyến khích và động viên bởi bầu không khí dân chủ, tự do và khoa học. Đó còn là nguồn vốn đầu tư kinh doanh và nhân tài khắp bốn phương quy tụ về nơi mà thiên hạ vẫn gọi là “đất lành, chim đậu”.
Trong cuốn sách gây tiếng vang “Chiếc xe Lexus và cây Oliu”, nhà báo Mỹ Thomas Friedman lần đầu tiên đã đưa ra nhận định “thế giới ngày nay phẳng”. Đúng vậy, thế giới của chúng ta ngày một phẳng do không còn nhiều bức tường ngăn cản sự chuyển dịch dòng vốn và nhân lực. Tuy nhiên tôi xin thêm một nhận xét: “Thế giới ngày nay là một mặt phẳng nghiêng cho nên hiện tượng nước chảy chỗ trũng diễn ra mạnh mẽ và nhanh hơn trước”.
Khi Việt Nam chúng ta dám đột phá trong cải cách thể chế thì chắc chắn vốn đầu tư và nhân tài khắp nơi sẽ dồn về đây. Ngày nay các quốc gia đã qua thời cạnh tranh nhau bằng sản lượng mà đã chuyển sang cạnh tranh bằng THỂ CHẾ. Quy luật mới hình thành này có liên quan mật thiết tới đặc thù của nền kinh tế tri thức.
Cái cách mà Trung Quốc đang hung hăng khiêu khích và xâm lược lãnh thổ của các quốc gia láng giềng đã cho thấy lãnh đạo của đất nước 1,3 tỷ dân này vẫn chưa thoát ra khỏi lối tư duy Đại Hán đã rất lỗi thời mặc dù Trung Quốc đã soán ngôi nền kinh tế thứ hai thế giới của Nhật Bản về sản lượng. Và như vậy Trung Quốc chưa thể có môi trường thể chế lành mạnh chứ chưa nói tới mang tính cạnh tranh toàn cầu để thu hút các quốc gia khác. Trong bối cảnh đó, một môi trường thể chế dân chủ, tự do, thịnh vượng của Việt Nam sẽ làm nội bộ Trung Quốc phải nhìn lại chính mình.
Chúng ta không nên và không thể để thế giới nhìn Việt Nam và Trung Quốc là những chính thể đồng dạng hay “cá mè một lứa”. Việt Nam chỉ có thể được thế giới ủng hộ thực lòng khi chúng ta có thể chế lành mạnh.
Rõ ràng bài học “lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều, lấy chí nhân để thay cường bạo” của tổ tiên để lại nếu được áp dụng trong thế kỷ XXI chính là vấn đề về THỂ CHẾ.
Nhân hòa hay yếu tố lòng dân luôn có vị trí thường trực trong suốt chiều dài lịch sử với bao thăng trầm. Chúng ta quen với lối nghĩ rằng dân ta yêu nước chống ngoại xâm mà đôi khi vẫn quên rằng thời nhà Hồ, khi giặc Minh tràn sang dân đã quay lưng với triều đình khiến đất nước rơi vào tay ngoại xâm với hơn 20 năm bi thương. Chúng ta cũng quên rằng chỉ vài chục tên lính lê dương mà quân Pháp đã lấy cả vùng mấy tỉnh Bắc Bộ bởi lẽ… “quân Pháp đi đến đâu, thì nhân dân, nam cũng như nữ, già cũng như trẻ đều chạy theo đến đó, níu lấy áo xin được quân Pháp che chở cho khỏi bị bọn quan tham ô lại hà hiếp bóc lột” (Tâm lý người Việt nhìn từ nhiều góc độ. NXB Tp Hồ Chí Minh, 2000, trang 141).
Và có nhiều nhặn gì đâu những cái tên Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống hay Hoàng Văn Hoan đã đủ cho ta thấy thời nào cũng có bọn sẵn sàng bán nước cầu vinh hoặc quá hèn nhát trước cái thế trùng trùng binh mã của ngoại xâm phương Bắc.
Vì sao hiện có trên 90% các gói thầu những dự án quan trọng đều do Trung Quốc nắm?
Vì sao Trung Quốc thuê đất rừng đầu nguồn, mua ruộng của nông dân trên cả ba miền, thuê mặt nước “nuôi thủy sản” ngay sát đồn biên phòng Vũng Rô và đi lại trên đất Việt Nam như vào chốn không người, để đến khi bạo động ở Vũng Áng, Bình Dương làm lộ diện hàng chục ngàn người Trung Quốc “chui” thì các cơ quan chức năng mới biết?
Những bất cập hay “câu chuyện Mỵ Châu” thời nay có thể viết thành truyện 1001 đêm.
Và đó là điều rất có ảnh hưởng tới yếu tố nhân hòa.
Nhưng vượt lên trên tất cả sự nhu nhược, đớn hèn hay phản bội của số ít trong cộng đồng, lòng yêu nước của người Việt Nam cuối cùng vẫn chiến thắng. Phải chăng đó là mật mã của gen di truyền?
Nếu quả thực tồn tại gen yêu nước thì một khi gặp điều kiện môi trường thuận lợi nó sẽ phát triển vượt trội để tạo nên những đột biến. Phải chăng với môi trường “hòa nước sông chén rượu ngọt ngào” thời Trần Hưng Đạo mà sự đột biến đã khiến giặc Nguyên Mông phải dừng bước trước một Việt Nam bé nhỏ?
Theo ngôn ngữ khoa học chính trị ngày nay thì môi trường tạo ra những đột biến xã hội chính là THỂ CHẾ. Khi thể chế lành mạnh lòng dân sẽ quy tụ quanh lãnh đạo, mọi quyền lợi hay tranh chấp nhỏ nhặt sẽ được dễ dàng bỏ qua để chung sức chung lòng đạt mục tiêu lớn. Khi thể chế suy đồi, hà khắc thì những gì đã xảy ra thời nhà Hồ và cuối triều Nguyễn là điều dễ hiểu…
Hy vọng rằng gen yêu nước của chúng ta vẫn luôn khỏe mạnh và vượt trội để thoát ra khỏi cái bóng Trung Hoa đang đè lên mọi mặt cuộc sống hôm nay.
Phạm Gia Minh (Truongtansang.net)
Thoát Trung là thoát những gì?

Thoát Trung là thoát những gì?