Trang

10 tháng 6, 2016

Phát hiện chất cực độc trong cá nục đông lạnh tại Quảng Trị

10/06/2016 15:46 GMT+7
TTO - Mẫu cá nục lấy từ trong kho đông lạnh của một cơ sở thu mua hải sản ở Quảng Trị (lấy sau thời điểm cá chết hàng loạt) có chất phenol với hàm lượng 0,037mg/kg. Đây là chất cực độc và cấm dùng trong thực phẩm.
​Phát hiện chất cực độc trong cá nục đông lạnh tại Quảng Trị
Cá nục tại Quảng Trị bị phát hiện có chất cực độc - Ảnh: Quốc Nam
Mẫu cá nục lấy từ trong kho đông lạnh của một cơ sở thu mua hải sản tại huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị) vừa được cơ quan chuyên môn của Sở y tế tỉnh này phát hiện có chất phenol, là chất cực độc...   
Chiều 10-6, ông Trần Văn Thành, giám đốc Sở Y tế Quảng Trị, xác nhận vừa có báo cáo gửi UBND tỉnh Quảng Trị về việc phát hiện chất phenol trong mẫu cá nục đông lạnh lấy tại một cơ sở thu mua hải sản tại huyện Vĩnh Linh.
Theo báo cáo này, cơ quan chuyên môn của Sở Y tế Quảng Trị vừa có kết quả xét nghiệm 6 mẫu cá lấy tại kho đông lạnh của bà L.T.T. (trú thị trấn Cửa Tùng, huyện Vĩnh Linh).
Sáu mẫu này gồm một mẫu cá ngừ, một mẫu cá trích, một mẫu cá sòng, ba mẫu cá nục.
​Phát hiện chất cực độc trong cá nục đông lạnh tại Quảng Trị
Cá nục tại Quảng Trị bị phát hiện có chất cực độc - Ảnh: Quốc Nam
Trong ba mẫu cá nục thì có một mẫu được chủ cơ sở thu mua trước thời điểm xảy ra cá chết hàng loạt và hai mẫu được thu mua sau thời điểm cá chết hàng loạt tại Quảng Trị.
Kết quả, cơ quan chuyên môn xác định mẫu cá nục lấy sau thời điểm cá chết hàng loạt có chất phenol với hàm lượng 0,037mg/kg. Đây là chất cực độc và cấm dùng trong thực phẩm.
Ông Thành cho biết đã chỉ đạo lấy tiếp các mẫu cá đông lạnh ở các kho khác để kiểm nghiệm, đồng thời tiêu hủy số cá nục có chất phenol này.
Phenol có thể gây chết người
Trao đổi với Tuổi Trẻ chiều 10-6, ông Hồ Sĩ Biên - Chi cục trưởng Chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm Quảng Trị cho biết: phenol là chất hóa học cực độc thường chỉ dùng trong công nghiệp tẩy rửa, tuyệt đối cấm sử dụng trong thực phẩm, ngay cả trong việc sản xuất bao bì cũng không được sử dụng.
Cũng theo ông Biên, với hàm lượng 0,037mg/kg như trong mẫu cá nục này thì chưa đủ gây ngộ độc cấp nhưng nguy hiểm ở chỗ nếu tích lũy nhiều chất này thì có thể gây chết người.
QUỐC NAM

9 tháng 6, 2016

Tiền thuế của dân không nuôi nổi số người ăn lương

Bỏ biên chế để giảm gánh nặng 11 triệu người ăn lương nhà nước

“Hiện nay số người hưởng lương và mang tính chất lương đã lên tới 11 triệu. Không ngân sách nào nuôi nổi bộ máy ăn lương lớn như vậy. Đã đến lúc cần có một “khoán 10” trong việc giảm số người ăn lương nhà nước mới có nguồn để đầu tư phát triển đất nước”, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nói.
40 người nuôi một công chức, nuôi sao nổi
Bà Phạm Chi Lan nói: “Bộ máy nhà nước của chúng ta hiện nay có khoảng 2,8 triệu cán bộ, công chức (CBCC), viên chức. Nếu cộng cả đối tượng nghỉ hưu, các đối tượng khác hưởng lương, trợ cấp từ ngân sách nhà nước (NSNN), con số này lên tới 7,5 triệu người, chiếm 8,3% dân số cả nước. 
Còn nếu cộng toàn bộ số người hưởng lương và mang tính chất lương thì con số này lên tới 11 triệu người. Không ngân sách nào nuôi nổi bộ máy ăn lương lớn như vậy.
Phạm Chi Lan, bỏ biên chế, công chức
Chuyên gia Phạm Chi Lan
Nước Mỹ có diện tích lớn xấp xỉ 30 lần nước ta, dân số gần gấp 4 lần, nhưng đội ngũ công chức của họ chỉ có 2,1 triệu. Nhìn sang Trung Quốc thì chúng ta thấy đội ngũ công chức của họ cũng chỉ chiếm 2,8% dân số.
Như vậy, chúng ta thấy 160 người dân Mỹ chỉ nuôi một công chức, trong khi đó 40 người dân Việt Nam phải nuôi một công chức. Đó là chưa kể người dân chúng ta phải gánh chịu tình trạng quan liêu, sách nhiễu, vòi vĩnh, tham nhũng của một bộ phận không nhỏ trong số 2,8 triệu công chức này.
Hàng năm trung bình chi thường xuyên của Việt Nam ở mức 68-69% tổng chi ngân sách, có lúc lên đến 72% tổng chi ngân sách. Năm nay Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa ký phê duyệt chi thường xuyên có ít hơn đôi chút, nhưng vẫn ở con số 65%. Khoảng 30% dùng để trả nợ. Đầu tư cho phát triển năm nay chỉ vào khoảng 17%.
Đội ngũ công chức, viên chức của chúng ta đông như vậy, nhưng theo nhiều người thì chất lượng lại không cao. Ý kiến của bà về vấn đề này như thế nào?
Khi còn ở cương vị Phó thủ tướng ông Nguyễn Xuân Phúc nói: “Đội ngũ công chức của chúng ta hiện nay chỉ có khoảng 30% là đáp ứng được nhu cầu công việc”. 
Tôi bổ sung thêm là 30% nữa là “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”. Khi còn là Bộ trưởng TT&TT ông Lê Doãn Hợp còn thêm: “30% còn lại không chỉ không làm được việc mà còn vòi vĩnh, nhũng nhiễu, đòi hối lộ”.
Không giảm được thì bỏ hẳn biên chế đi
Vấn đề cải cách hành chính, giảm biên chế, giảm số người hưởng lương từ NSNN đã nhiều lần được nói tới. Tuy nhiên qua 4 lần cải cách, số CBCC không những không giảm mà còn phình to hơn. Chẳng lẽ chúng ta bó tay?
Tôi hỏi nhiều người là liệu có thể giảm biên chế được không, họ đều nói là không thể giảm được.
Chỉ có một cách thôi. Đó là bỏ hẳn biên chế đi. Chuyển sang chế độ hợp đồng lao động. Đây không phải là vấn đề gì mới mẻ. Trong vòng 20 năm trở lại đây các chuyên gia đã nói nhiều rồi. 
Công chức suốt đời sẽ là vật cản cho phát triển. Cần phải chuyển đổi hình thức biên chế, hợp đồng suốt đời trên cơ sở luật công chức mới. Thay vào “biên chế suốt đời” phải xác định vị trí, việc làm trên cơ sở đó đặt chuẩn cho người làm việc ở vị trí ấy.
Trong chế độ công chức hiện đại, công chức khi vào một vị trí nào đó, họ phù hợp với vị trí ấy về trình độ đào tạo, kinh nghiệm chuyên môn của họ. Chúng ta phải hướng tới một nền công vụ hiện đại như vậy. 
Nhiều nước người ta đã làm như vậy rồi. Ví dụ như từ những năm 2000, New Zealand đã thực hiện rồi. Họ chỉ có hợp đồng công chức chứ không có biên chế suốt đời. Thậm chí, từ cấp thứ trưởng trở xuống cũng chỉ hợp đồng thôi.
Một nền hành chính công vụ hiện đại, chuyên nghiệp phải bảo đảm được sự năng động, thay đổi, không phải “anh” vào công chức rồi thì cứ ung dung “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về” cũng chả ai làm gì được.
Nếu thực hiện được như bà nói thì quỹ lương sẽ được phân bổ như thế nào, theo bà?
Thực hiện chế độ khoán quỹ lương gắn với giao nhiệm vụ. Ví dụ: Bộ trưởng, Chủ tịch UBND tỉnh, Vụ trưởng, Cục trưởng cần bao nhiêu người thì ký hợp đồng bấy nhiêu, ai giỏi trả lương cao họ sẽ làm, không giỏi thì tự bỏ, hoàn thành nhiệm vụ mới trả lương, không thì không trả, như vậy chỉ có cán bộ giỏi, không có cán bộ yếu kém. 
Và như vậy thì cán bộ giỏi mới không bỏ cơ quan ra làm cho các công ty tư nhân hay  nước ngoài.
Thủ trưởng cơ quan toàn quyền quyết định việc lương cao hay lương thấp. Nếu nhiệm vụ giao không hoàn thành thì xuất toán. Như thế thì con ông cháu cha, hay ê kíp này nọ cũng không quan trọng nữa, miễn là cạnh tranh lành mạnh, thi nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Cán bộ đoàn vì nước, vì dân phải biết hy sinh quyền lợi của mình
Thưa bà, ai cũng biết các tổ chức chính trị, tổ chức đoàn thể, hội, hiệp hội cũng đang là “gánh nặng” cho NSNN, nhưng không phải ai cũng hiểu tường tận “gánh nặng” đó như thế nào. Bà có thể cho biết khái quát được không?
Theo Dự toán chi ngân sách Trung ương năm 2016 được Bộ Tài chính công khai trên website của bộ này thì, tổng chi cho các cơ quan trung ương của 6 tổ chức chính trị - xã hội tới 1.503,740 tỉ đồng, gồm Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (92,435 tỉ đồng); Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (551,505 tỉ đồng); Trung ương Hội LHPN Việt Nam (158,685 tỉ đồng); Hội Nông dân Việt Nam (346,515 tỉ đồng); Hội CCB Việt Nam (80,830 tỉ đồng); Tổng LĐLĐ Việt Nam (273,770 tỉ đồng). Nếu tính luôn cả dự toán ngân sách cho Liên minh Hợp tác xã Việt Nam thì tổng chi lên đến 1.615,710 tỉ đồng.
Tuy nhiên, đây mới là phần thông tin chi cho các hội, đoàn thể được công khai. Còn rất nhiều hội đặc thù, ở cả Trung ương và địa phương cũng được ngân sách tài trợ một phần, nhưng chưa được công khai trong dữ liệu của Bộ Tài chính, từ Liên đoàn Bóng đá Việt Nam đến Hội Đông y, Hội Khuyến học, Hội Người cao tuổi, Hội Người mù và rất nhiều hội đoàn khác.
Một trong những nghiên cứu hiếm hoi về ngân sách cho các hội, đoàn thể của Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), ngân sách (ước tính) chi khoảng 14.000 tỉ đồng cho toàn bộ khối này, tức là lớn hơn dự toán ngân sách năm 2016 của Bộ NN&PTNT (khoảng 11.000 tỉ đồng), một bộ được coi là siêu bộ, gần gấp đôi ngân sách của Bộ Giáo dục và Bộ Y tế, chỉ thua Bộ LĐTB&XH, và Bộ Tài Chính.
Nghiên cứu này cũng ước tính, nếu tính đủ cả chi phí kinh tế - xã hội, tức là gồm cả đất đai, nhà cửa, xe cộ và các tài sản khác, chi phí toàn hệ thống của các tổ chức hội đoàn này hàng năm dao động từ 45.600 - 68.100 tỷ đồng, tương đương 1-1,7% GDP. 
Hầu hết các hệ thống hội đoàn, trong đó đặc biệt là các tổ chức chính trị- xã hội, được tổ chức theo mô hình hành chính, có biên chế, nhà cửa, trụ sở, xe cộ, với hệ thống tổ chức và mô hình hoạt động hầu như không thay đổi từ thời bao cấp đến nay.
Để giảm gánh nặng cho NSNN, đồng thời cũng “trả lại” vai trò thực chất của các tổ chức đoàn thể, hội, hiệp hội như thời kỳ ban đầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương là “Hội đoàn thể thành lập trên cơ sở tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kinh phí hoạt động”. Theo bà, phải chăng đã đến lúc phải nghiêm túc thực hiện chủ trương này?
Từ nhiều năm nay các chuyên gia, các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách đã đặt ra những yêu cầu xác đáng về chuyển các hội đoàn thành những tổ chức tự nguyện, phục vụ nhu cầu của các nhóm cộng đồng. 
Hội đoàn phải tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kinh phí hoạt động, bằng cách gây quỹ từ cộng đồng, tìm tài trợ, hội phí. 
Nhà nước có thể tài trợ một phần kinh phí hoạt động, nhưng là tài trợ dựa trên các tiêu chí rõ ràng và minh bạch, trên cơ sở cạnh tranh và xét đến hiệu quả hoạt động của từng hội đoàn cụ thể.
Ở nhiều quốc gia khác các tổ chức chính trị có thể phải khai thuế và nộp nghĩa vụ đóng góp cho ngân sách, hoặc phải dựa vào nguồn thu được cung cấp từ khu vực xã hội dân sự.
Đã đến lúc chúng ta phải quyết tâm thực hiện cho được vấn đề này, nhất là trong bối cảnh nợ công đang ngày càng gia tăng, nguồn thu lại eo hẹp, hết sức khó khăn, chi thường xuyên lại ngày một gia tăng.
Nếu thực hiện điều này thì sẽ có hàng triệu cán bộ của các khối đoàn thể, hội, hiệp hội mất việc làm. Liệu đây có là “áp lực chính trị” đối với xã hội không, thưa bà?
Cán bộ khối đoàn thể cũng giống như những CBCC ở các tổ chức nhà nước khác thôi. Tại sao CBCC thì giảm biên chế được mà cán bộ của khối đoàn thể thì không? Nếu họ thực sự là vì Đảng, vì dân, vì đất nước thì họ phải biết hy sinh quyền lợi của mình như những công dân khác. 
Còn đương nhiên, khi chuyển sang chế độ tự chủ như vậy phải có lộ trình để các tổ chức này thích nghi dần với việc không còn được bấu víu vào “bầu sữa” NSNN nữa. 
Để thực hiện được vấn đề này phải có một quyết tâm chính trị rất cao của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là vai trò lãnh đạo của Đảng.
Cần "Khoán 10"
Ở thời điểm cực kỳ khó khăn về lương thực thì ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp (thường gọi là khoán 10) đã làm nên bước đột phá trong nông nghiệp nước nhà, từ chỗ thiếu ăn Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn. Có thể nói hiện nay chúng ta cũng đang ở thực trạng của những năm 80 về thu, chi NSNN. Liệu chúng ta có cần một “Khoán 10” trong giảm bộ máy hưởng lương từ NSNN?
Ngày 17/4/2015, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 39-NQ/TW về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đã nhận được quan tâm đặc biệt của dư luận cả nước.
Bộ Chính trị, Trung ương đã đánh giá một cách toàn diện và thực chất vấn đề về đội ngũ CBCC, viên chức của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta cần đẩy mạnh, đẩy nhanh hơn nữa cuộc cải cách này. Nợ công tăng cao, nguồn thu đang gặp rất nhiều khó khăn, đầu tư thì thất thoát lớn… 
Tuy nhiên đây cũng là cơ hội để Đảng và Nhà nước ta tiến hành cải cách một cách triệt để công cuộc CCHC và giảm số người hưởng lương từ NSNN và có nguồn từ NSNN. Và rất có thể, cần một “Khoán 10” như đã nói.
Theo VietTimes

6 tháng 6, 2016

Thụy Sĩ chỉ cách CNCS một bước chân

Dân Thụy Sỹ từ chối đề xuất 'ở không, lãnh lương nghìn đô suốt đời'

Dân Thụy Sỹ từ chối đề xuất 'ở không, lãnh lương nghìn đô suốt đời'
Người dân bỏ phiếu tại một trường học ở thành phố Bern hôm nay 5/6. Ảnh: Reuters

(VNF) - Khoảng 78% cử tri Thụy Sĩ vừa bỏ phiếu bác bỏ đề xuất về việc áp dụng trợ cấp thu nhập cơ bản và vô điều kiện cho toàn dân trong suốt cuộc đời.

Ngày 5/6, người Thụy Sĩ đi bỏ phiếu để quyết định việc Nhà nước sẽ chu cấp hàng tháng cho mỗi công dân, từ khi sinh ra đến khi qua đời, một khoản tiền đủ sống mà không kèm theo bất cứ điều kiện nào.
Theo Reuters, cứ 5 người Thụy Sĩ thì có 4 người nói không với đề xuất phát vô điều kiện 2.500 franc Thụy Sĩ, tương đương 2.563 USD/tháng cho từng người trưởng thành. Với trẻ em dưới 18 tuổi, số tiền vô điều kiện được nhận là 625 franc.
Trong khi đó, đài truyền hình Thụy Sĩ SRF đưa tin rằng chính phủ nước này đứng về phía bác bỏ đề xuất trên, vì hoạt động này sẽ làm tốn nhiều chi phí và suy yếu nền kinh tế. Đợt kiểm phiếu đầu tiên cho thấy khoảng 78% cử tri cũng đồng ý với chính phủ.
Thụy Sỹ là nước đầu tiên trên thế giới tổ chức trưng cầu dân ý về đề xuất thu nhập cơ bản, vô điều kiện. Hiện một nước Bắc Âu khác là Phần Lan cũng đang xem xét ý tưởng tương tự.
Ý tưởng về Khoản thu nhập cơ bản vô điều kiện (UBI) do một nhóm công dân độc lập đề xuất, cho rằng việc cấp một khoản thu nhập như vậy sẽ giúp chống đói nghèo và bất bình đẳng, trong xã hội hiện nay đang tồn tại nhiều bất hợp lý trong các vấn đề như việc làm, trình độ nghiệp vụ, đào tạo, trong đó khoảng cách về tiền lương tiếp tục nới rộng.
UBI đủ để mọi công dân chi trả cho những nhu cầu cơ bản của bản thân, qua đó có thể xóa bỏ tình trạng phụ thuộc vào trợ cấp xã hội của những người không đủ phương tiện sinh kế, cho phép mỗi người lựa chọn một công việc hài lòng, khuyến khích sáng tạo và sự tận tâm trong công việc, đồng thời tăng giải pháp về việc trông giữ trẻ em và chăm sóc người già hoặc người bệnh.
TRƯỜNG ANH

31 tháng 5, 2016

KỂ CHO BÁC NGHE... CHUYỆN ĐẤT NƯỚC MÌNH

(Thêm một cô giáo Lam nữa. Xin chia sẻ bài viết của Bảo Trang)
Biết hôm nay... là ngày sinh của Bác
Dân đang buồn... không thể hát Bác nghe !
Biển đang đau... nên rì rào khe khẽ
Không dạt dào như trước nữa Bác ơi !
Biển quê mình du khách chẳng dám bơi
Ngành du lịch sắp trong thời đóng cửa
Biển chết đi... kéo thêm nhiều thứ nữa
Thiếu muối, dầu... vật giá sẽ leo thang
Nghĩ trong lòng con cảm thấy hoang mang
Ở Miền Trung... ngàn người đang thất nghiệp
Những đứa trẻ cần phải đi học tiếp
Nhưng lấy gì để tiếp bước tương lai ?
Bút giấy thừa họ vẽ vượn, vẽ nai
Tăng vốn gấp hai... những công trình lạ
Những dự án treo... khi nào hiệu quả ?
Mặc dân nghèo... nhịn đói để trôi qua
Nghèo đứng đầu là thuộc tỉnh Sơn La
Bỏ nghìn "ha" xây tượng đài nghìn tỷ
Trong khi đó... trẻ em nghèo vốn dĩ
Bước tới trường... giống như khỉ đu dây
Riêng con thấy như vậy là lãng phí
Bởi sinh thời... Bác giản dị, đơn sơ
Yêu trẻ thơ, yêu đồng bào cơ nhỡ
Bác sẽ buồn... khi thấy họ khó khăn
Bác biết không có một nỗi bâng khuâng ?
Những thức ăn của dân mình Bác ạ !
Nào thịt, cá, rau, tôm... đầy chất lạ
Họ giết mình bằng hóa chất khắp nơi
Cá bây giờ chết trắng ở ngoài khơi
Con sợ nay mai dân mình cũng thế !
Bởi giặc ngoài đề phòng thì rất dễ
Riêng giặc trong nhà đâu thể đấu tranh
Họ dùng tiền để thăng chức, mua danh
Nên xung quanh luôn có người bao bọc
Lời Bác dạy: " nên lấy dân làm gốc"
Họ bây giờ... chẳng nhớ gốc Bác ơi !
Bác linh thiêng đang ngự ở trên trời
Mách bảo chúng con những lời công lý
Giúp cho dân có cùng thêm ý chí
Đánh đuổi giặc ngoài giữ lấy biển Đông
Để xứng với danh "con Lạc cháu Hồng"
Cứu lấy non sông như thời Vua lập
Loại bỏ những sâu đang còn ẩn nấp
Đất nước mình lại tràn ngập niềm vui..!!!
Bảo Trang 19.05.16
Thích
Bình luận
Bình luận
Hải Phạm Movie Một bài thơ hay, có ý nghĩa, có giá trị nội dung cao.

26 tháng 5, 2016

Sài Gòn yêu Obama vì khao khát tự do



Người Sài Gòn xuống đường đón Obama đông như trẩy hội.

Báo Tuổi Trẻ tự tin chống Trung Quốc sau chuyến thăm Việt Nam của TT Obama.

Kiện Trung Quốc, "chúng ta sẽ đập nát sự tự tin của họ"

26/05/2014 10:44 GMT+7
TT - Là nhà nghiên cứu sâu về luật quốc tế, GS-TS Nguyễn Vân Nam rất nặng lòng với thời sự nóng bỏng ở biển Đông. Theo ông, cần phải kiện ra tòa án quốc tế để Trung Quốc phải thay đổi chiến lược.
Kiện Trung Quốc, "chúng ta sẽ đập nát sự tự tin của họ" Phóng to
Tàu kiểm ngư bị hư hỏng nặng - Ảnh: Hữu Khá
k9WA849m.jpg
GS-TS Nguyễn Vân Nam
Ông Nam nhấn mạnh:
- Trung Quốc chỉ muốn giải quyết tranh chấp song phương, không chịu đa phương. Nhưng thỏa thuận song phương với Trung Quốc rất nguy hiểm.
Họ có thể dùng nó để loại trừ các nghĩa vụ quốc tế của mình. Bởi nguyên tắc tối cao của công pháp quốc tế là tôn trọng chủ quyền quốc gia, tôn trọng sự thỏa thuận giữa các nước, nên những thỏa thuận song phương như vậy có khả năng và hiệu lực loại trừ nghĩa vụ quốc tế mà một trong hai nước đã ký kết.
Tức là với một thỏa thuận song phương, Trung Quốc có thể loại trừ được những điều mà họ muốn loại trừ, nhưng không thể hoặc chưa kịp loại trừ khi ký kết các thỏa thuận quốc tế.
Ngoài ra, họ còn có thể ép chúng ta thực hiện những điều cam kết song phương với họ. Nhưng chính họ lại có thể không thực hiện, bởi trong quan hệ giữa ta và Trung Quốc có những loại thỏa thuận song phương không có hiệu lực quốc tế, và vì vậy họ không sợ bị phán xử.
Điều này cực kỳ nguy hiểm. Chính vì vậy, việc cần làm ngay là phải đưa Trung Quốc vào cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương trong công pháp quốc tế.
4 cách khởi kiện Trung Quốc
"Với việc khởi kiện, chúng ta sẽ đập nát sự tự tin của họ, buộc họ phải bị động thay đổi chiến lược chứ không thể hoàn toàn hành động ngang ngược, trâng tráo theo ý mình"
GS-TS NGUYỄN VÂN NAM
* Trung Quốc luôn khăng khăng không chấp nhận thẩm quyền tài phán của tòa án quốc tế. Với trường hợp kiện của Philippines cho thấy Trung Quốc không đồng ý ra tòa mà còn gia tăng áp lực song phương.
- Điều 287 khoản 1 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) quy định khi tranh chấp, các nước thành viên có thể chọn bốn khả năng: thứ nhất là tòa án quốc tế ở Hà Lan, thứ hai là Tòa án quốc tế về luật biển ở Đức, thứ ba là tòa trọng tài theo phụ lục 7 của UNCLOS, thứ tư là tòa trọng tài theo phụ lục 8 cho những tranh chấp đặc biệt.
Mới nghe thì rất dễ, nhưng không đơn giản. Ví dụ tòa án quốc tế ở Hà Lan có quy định tòa chỉ có thẩm quyền xét xử nếu được cả hai bên cùng công nhận thẩm quyền.
Về nguyên tắc, các nước ký UNCLOS đều chịu phán quyết của tòa án biển quốc tế, nhưng mỗi nước khi ký đều có quyền tuyên bố bảo lưu, không chấp nhận thẩm quyền phán xử của tòa án quốc tế trong lĩnh vực nào.
Trung Quốc đã có tuyên bố hợp lệ loại trừ quyền tài phán của tòa án biển quốc tế đối với toàn bộ tranh chấp về chủ quyền liên quan đến đảo.
* Ngày 25-8-2006, Trung Quốc gửi Liên Hiệp Quốc các tuyên bố bảo lưu theo điều 298 của UNCLOS, sau đó đẩy căng thẳng biển Đông lên cấp độ ngày càng nóng hơn. Theo ông, chúng ta nên chọn giải pháp nào để đấu tranh hiệu quả trên mặt trận pháp lý với Trung Quốc?
- Tôi thấy có gì đó rất nguy hiểm. Tại sao Trung Quốc lại đưa giàn khoan vào đúng lúc mọi người bất ngờ nhất? Theo tôi, nó là phép thử đầu tiên xem phản ứng của Việt Nam và công luận quốc tế để họ thu thập và đánh giá đầy đủ thông tin cần thiết cho những bước nghiêm trọng hơn.
Cho nên mục tiêu của chúng ta không thể chỉ là đuổi giàn khoan xâm phạm chủ quyền vùng biển Việt Nam. Đây là cơ hội để ta đạt được các mục tiêu lớn hơn, buộc Trung Quốc vào một cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương.
Đó là mục tiêu quan trọng đầu tiên. Mục tiêu thứ hai là bẻ gãy sự tự tin ngạo mạn kiểu Trung Quốc, khiến họ phải thay đổi chiến lược ở biển Đông.
Mục tiêu thứ ba là phòng vệ chủ động: khi Trung Quốc bị buộc phải tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp của tòa án quốc tế, họ sẽ không thể nào dùng vũ lực được nữa.
Theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc và UNCLOS, trong khi tòa án giải quyết các tranh chấp như thế, các bên có nghĩa vụ không được làm tình hình nghiêm trọng hơn.
Nghĩa là với đơn kiện như vậy, Trung Quốc bị buộc không được dùng vũ lực hoặc các mưu mô khác có khả năng làm hiện trạng tồi tệ thêm.
Có thể khởi kiện Trung Quốc sử dụng vũ lực
* Giới luật gia quốc tế cho rằng Trung Quốc tính già hóa non trên biển Đông. Họ cũng đang lộ ra nhiều điểm sai trái và kẽ hở?
- Trung Quốc đã rào trước đón sau rất kỹ. Kế sách của họ đưa ra tuyên bố bảo lưu theo điều 298 của UNCLOS loại trừ cả bốn cách quốc tế giải quyết tranh chấp theo luật biển, đặc biệt là tòa án quốc tế giải quyết tranh chấp liên quan đến chủ quyền đảo...
Chúng ta phải nghĩ ra toàn bộ hướng khởi kiện, nghiên cứu sâu các hướng đó để đánh giá hướng nào có khả năng nhất.
Vì vậy, trước tiên đơn kiện của chúng ta phải không lọt vào vùng loại trừ của Trung Quốc. Thứ hai, đơn kiện này phải được một cơ quan tài phán quốc tế chấp nhận.
Đây là cái khó, nhưng có giải pháp. Chúng ta kiện vào cái mà Trung Quốc buộc phải thực thi, một nghĩa vụ căn bản của thành viên Liên Hiệp Quốc mà Trung Quốc không thể loại trừ.
Đó chính là khoản 3 điều 2 Hiến chương Liên Hiệp Quốc và điều 279 UNCLOS đều quy định các nước thành viên có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa bình, không được sử dụng vũ lực, và nghĩa vụ này không bị loại trừ bởi bất kỳ tuyên bố nào.
Thế nào là sử dụng vũ lực thì có thể còn tranh cãi. Và bởi vì còn tranh cãi nên cần phải có cơ quan tài phán độc lập. Đó chính là thuận lợi cho mình.
Các hành vi sử dụng vũ lực này là dùng tàu hải giám, hải cảnh, tuần ngư... thuộc sở hữu nhà nước Trung Quốc phá hỏng tàu Việt Nam. Nghiêm trọng hơn là tàu của nhà nước Trung Quốc đã có gây thương tích cho người Việt Nam.
Như vậy, chúng ta có thể khởi kiện Trung Quốc sử dụng vũ lực vi phạm khoản 3 điều 2 Hiến chương Liên Hiệp Quốc và điều 279 UNCLOS ra Tòa án quốc tế về luật biển. Nội dung kiện này không nằm trong vùng loại trừ của Trung Quốc. Họ có thể không đồng ý.
Nhưng theo quy định của UNCLOS, nếu một bên không đồng ý thì phải chuyển qua tòa trọng tài theo phụ lục 7. Tòa trọng tài này sẽ không thể tuyên là việc sử dụng vũ lực không thuộc thẩm quyền, bởi đó là nghĩa vụ căn bản mà Trung Quốc không thể loại trừ.
* Ngoài hướng kiện này, chúng ta còn có thể kiện theo nội dung nào khác?
- Ngoài kiện kết tội, chúng ta có thể khởi kiện yêu cầu xác định hành vi. Đó là yêu cầu Tòa án quốc tế về luật biển khẳng định hành vi tàu Trung Quốc đâm vào làm hư hỏng tàu Việt Nam, gây thương tích người Việt Nam là hành vi sử dụng vũ lực.
Trong đó, đặc biệt là yếu tố gây tổn thương đến con người. Đây là trường hợp Tòa án quốc tế về luật biển có thẩm quyền lý giải và áp dụng UNCLOS. Ở nước ngoài, kiểu kiện yêu cầu tòa án khẳng định một sự việc này rất phổ biến (kiện không có bị đơn).
Để giải quyết, tòa sẽ phải mời Trung Quốc nhưng không phải trong tư cách bị đơn. Và như thế, họ vẫn bị buộc phải tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương.
Đây là giải pháp khởi kiện tốt vì khả năng thắng lợi rất cao. Sau khi tòa ra phán quyết hành vi vũ lực của Trung Quốc, chúng ta có thể sẽ tiếp tục kiện kết tội họ.
* Liệu có khả năng dù tòa phán quyết thế nào, Trung Quốc vẫn cậy thế nước lớn, không chấp nhận và cứ làm theo ý chí của mình?
- Đó là thực tế. Nhưng với việc khởi kiện, chúng ta sẽ đập nát sự tự tin của họ, buộc họ phải bị động thay đổi chiến lược chứ không thể hoàn toàn hành động ngang ngược, trâng tráo theo ý mình.
Trung Quốc khó có thể còn lu loa nói càn như “rất ngạc nhiên, sửng sốt”. Họ sẽ chùn tay trong hành động làm tình hình tồi tệ thêm.
Ngư dân có thể kiện
* Ngoài hướng kiện của Nhà nước Việt Nam đối với nhà nước Trung Quốc, ông có cho rằng chính ngư dân chúng ta cũng có thể tìm công lý từ luật pháp quốc tế, mà cụ thể là UNCLOS?
- UNCLOS bảo vệ rất chặt chẽ quyền đánh cá. Khoản 2 điều 20 quy chế Tòa án quốc tế về luật biển ghi rõ đây là tòa án quốc tế duy nhất cho phép các chủ thể không phải là nhà nước có thể khởi kiện đối với các tranh chấp liên quan đến cách hiểu và áp dụng UNCLOS.
Một thuận lợi lớn mà chúng ta chưa vận dụng. Chính các thành viên Tòa án quốc tế về luật biển cũng khuyến khích hướng kiện này từ người dân.
* Với sự “phòng thủ” kín kẽ luật pháp của Trung Quốc, ngư dân Việt Nam có thể kiện theo hướng nào để có thể thực thi mà không bị rơi vào vùng loại trừ trong tuyên bố bảo lưu của Trung Quốc?
- Trung Quốc đang cản trở tự do đánh bắt, gây thiệt hại đến tài sản và tính mạng ngư dân. Nếu dựa vào UNCLOS thì Trung Quốc có rất nhiều vi phạm.
Nhưng điều chủ yếu ở đây phải xem xét kỹ là với những hành vi sử dụng vũ lực đó, ngư dân Việt Nam đã có thể khởi kiện được Trung Quốc chưa? Cá nhân ngư dân hoặc qua các hiệp hội, tổ chức nghề cá đều có thể khởi kiện được.
Tuy nhiên, dù là cá nhân hay tổ chức nghề cá thì khi ra Tòa án quốc tế về luật biển họ cũng như là một nhà nước khởi kiện. Họ cũng gặp nhiều khó khăn lẫn thuận lợi như nhà nước tiến hành kiện. Nhưng nếu biết lập luận, có thể họ sẽ không rơi vào những trường hợp tuyên bố loại trừ của Trung Quốc.
* Ngư dân cần được hỗ trợ, chuẩn bị những gì để tự tin bước vào mặt trận tìm kiếm công lý quốc tế?
- Theo tôi, khó khăn lớn nhất ở đây với ngư dân là quá trình thu thập chứng cứ. Ngư dân đi đánh cá bị tàu Trung Quốc đâm hư hỏng, phun vòi rồng nước, bắn cháy, cướp tài sản và hải sản... thì phải thu thập được chứng cứ. Đặc biệt, những chứng cứ đó phải được lấy theo chuẩn mực quốc tế như chụp ảnh, quay phim...
Nhà nước, các hội đoàn và nhân dân cả nước có thể hỗ trợ ngư dân bằng kinh phí, trang bị máy móc đủ điều kiện để thu thập chứng cứ, bản thân ngư dân rất khó tự thân xoay xở.
Chính Trung Quốc cũng hiểu rõ điều này. Ngoài các tàu nhà nước, nhiều lần họ sử dụng tàu ngụy trang tàu cá để che đậy hành động tấn công ngư dân Việt Nam.
Hỗ trợ ngư dân kiện
Bản thân ngư dân hay tổ chức nghề cá rất khó làm hồ sơ kiện ra Tòa án quốc tế về luật biển. Họ cần được giúp đỡ, cần có người hướng dẫn cụ thể trình tự lấy chứng cứ như thế nào, cách lấy, và mỗi loại chứng cứ thì điểm gì là điểm không thể không có. Có nhiều loại chứng cứ như quay phim, chụp ảnh, nhân chứng. Ví dụ, tàu ngư dân bị tàu Trung Quốc đâm va thì người trên tàu rất khó ghi hình để thấy rõ toàn cảnh tàu bị hại, tàu tấn công, số tàu, kinh độ vĩ độ, ngày giờ, hành vi... Có hai loại nhân chứng và chứng cứ, nhưng chứng cứ khách quan tại hiện trường thì tốt hơn nhiều. Vì vậy, nên cần có hai, ba tàu phối hợp để tàu bị tấn công, tàu khác có thể ghi lại chứng cứ rõ ràng. Sau khi ngư dân thu nhập xong chứng cứ nên gửi đến luật sư để đánh giá. Nếu đủ sẽ phát đơn khởi kiện. Và họ có thể ủy quyền cho luật sư nhân danh họ khởi kiện đến Tòa án quốc tế về luật biển.
QUỐC VIỆT thực hiện