Trang

16 tháng 4, 2015

Năm 2015: Việt Nam 'đi ngược' thế giới

Từ nước xuất khẩu, từ năm 2015 VN phải nhập khẩu than. Thế giới chuyển sang phát triển năng lượng tái tạo, từ bỏ nhiệt điện than, điện nguyên tử, thì VN lại thúc đẩy.

Tuần Việt Nam giới thiệu phần cuối toạ đàm: "Tận thu tài nguyên đất nước" cùng ông Đào Trọng Tứ, GĐ Trung tâm Phát triển bền vững Tài nguyên nước và thích nghi biến đổi khí hậu; bà Ngụy Thị Khanh, GĐTrung tâm Sáng tạo Phát triển xanh Green ID và ông Nguyễn Minh Thuyết, nguyên là ĐBQH khoá XI, XII.
Chi phí thấp nhất chưa chắc tiết kiệm nhất
Hoàng Hường:  Như phần trước chúng ta đang thảo luận, cách khai thác tận thu tài nguyên đã khiến đầu vào của nhiều ngành kinh tế đang bị suy giảm. Tôi được biết, ý tưởng năng lượng bền vững đã được nhiều  nước tiên tiến áp dụng, điều gì đang cản trở chúng ta nhập khẩu những công nghệ tương tự về?  
Bà Ngụy Thị Khanh: Vì còn liên quan nhiều đến chính sách, thể chế và các rào cản kỹ thuật. Ta thiếu quy hoạch năng lượng tổng thể.
Mời độc giả tham gia ý kiến xây dựng Luật Ban hành Văn bản Quy phạm Pháp luật TẠI ĐÂY
Vừa rồi Chính phủ ra quyết định phải xây dựng quy hoạch năng lượng tổng thể  quốc gia, được kì vọng điều hoà lại việc sử dụng nguồn tài nguyên cho các mục tiêu sản xuất năng lượng. 
Một số tồn tại ở cấp quản lý. Thứ nhất, quy hoạch theo dự báo nhu cầu rất là cao, tăng 8% GDP. Nhưng trên thực tế chỉ được có 5%. Việc đáp ứng nhu cầu của GDP từ 5% đến 8% rất khác nhau, mà quan điểm về việc phải đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng để đạt được GDP cũng lạc hậu. Quan điểm: “tôi sản xuất ra cùng 1 đồng đôla GDP mà tôi tiêu dùng ít năng lượng hơn thì có nghĩa là tôi sẽ có hiệu quả nhiều hơn”, hoặc lý lẽ khác là “để làm ra một đồng GDP thì tôi lại phải tăng nhu cầu sử dụng năng lượng lên”. 
Nhìn ra các nước, những năm 70 Đan Mạch khủng hoảng dầu. Lúc đó họ có một sự đột biến trong chính sách là tập trung đầu tư nghiên cứu và sử dụng biện pháp hiệu quả và tiết kiệm, giám phụ thuộc vào bên ngoài, và họ phát triển điện gió. Từ một nước nhập khẩu và có nguy cơ bị phụ thuộc thì họ trở thành một nước xuất khẩu công nghiệp về năng lượng. 
Ở đây, rào cản về mặt chính sách của ta chưa được gỡ bỏ vì chưa có những đột phá trong việc cách nhìn. Giải pháp hiện nay thì tập trung vào least-cost (chi phí thấp nhất). Thực ra chỉ là chi phí tài chính thấp nhất. Nhưng khi tính toán về mặt chi phí giá thành thì những tổn thất về môi trường, xã hội lại chưa được tính vào giá thành.
tọa đàm, nhiên liệu, kinh tế, nhập khẩu, xuất khẩu, Ngụy Thị Khanh, Đào Trọng Tứ, Nguyễn Minh Thuyết
Bà Ngụy Thị Khanh
Hoàng Hường:  Tôi có một câu chuyện cá nhân. Nhà tôi thì ở gần tòa nhà khu Lotte, Hà Nội. Một hôm tôi có một suy nghĩ nếu thay bằng những tấm kính trên cả tòa nhà Lotte bằng những tấm thu năng lượng mặt trời thì họ vừa tự sản xuất được điện dùng, vừa thân thiện với môi trường. Tôi muốn tham khảo hai chuyên gia, có thể làm được như vậy hay không? 
Bà Ngụy Thị Khanh: Về mặt công nghệ thì ý tưởng của chị Hường sẽ không có vấn đề gì nhưng chi phí của năng lượng mặt trời là mối băn khoăn của các nhà đầu tư. Đầu tư ban đầu sẽ đắt, nhưng về lâu dài sẽ không tốn bằng chi phí nhiên liệu và đất nếu các tấm pin được gắn theo hệ thống ống kính.  
Ngoài chi phí đầu tư hệ thống sẽ phải có chi phí vận hành và nhiên liệu, thì phải tính chi phí cả vòng đời. Cũng như chi phí của nhiệt điện và thuỷ điện có những tác động tới của môi trường - xã hội, tức là tiền chữa bệnh, bảo hiểm sức khoẻ chưa được tính đến. 
Ông Đào Trọng Tứ: Một trong những rào cản chính là tư duy. Chúng ta nói rằng đưa năng lượng gió hay mặt trời vào đầu tư đắt đỏ. Ví dụ đầu tư điện gió đắt gấp 2,5 lần thuỷ điện và 3 - 4 lần nhiệt điện. Liệu ta có chịu nổi không? 
Quay lại câu chuyện Đức tại sao họ phát triển năng lượng bền vững được như thế vì họ có bước ngoặt chính sách. Người ta thay đổi tư duy từ sử dụng các năng lượng hoá thạch truyền thống sang năng lượng tái tạo, năng lượng mới. Tất nhiên trong bước chuyển ấy không phải tất cả mọi thứ đều được suôn sẻ, không phải năng lượng mặt trời cũng được mọi người đồng ý.  
Tuy nhiên, trong một thế giới phát triển thì sự gọi là bền vững trong đầu tư môi trường là rất thật. Tất nhiên, cũng phải nói một rào cản nữa đó là muốn làm anh sẽ động tới rất nhiều bên; nhiều nhóm lợi ích khác nhau. Giống như ở thế kỷ thứ XIX, khi người ta muốn có năng lượng thuỷ điện thay thế năng lượng than đã bị chống đối ngay vì lúc đó những người khai thác than, những cơ sở sản xuất than sẽ bị mất lợi ích.  
Hiện nay có những người nói chuyện với tôi rằng người ta phát hiện ra cách phát điện rất đơn giản, nhưng nếu mà đưa ra là... toi!
tọa đàm, nhiên liệu, kinh tế, nhập khẩu, xuất khẩu, Ngụy Thị Khanh, Đào Trọng Tứ, Nguyễn Minh Thuyết
Ông Đào Trọng Tứ
Hoàng Hường: Khi nói đến các ngành năng lượng đó là cơ chế độc quyền trong khai thác tài nguyên đất nước. Theo các khách mời, chuyện cạn kiệt tài nguyên, dao động nguồn cung về than, về điện… có  liên quan gì đến cơ chế độc quyền lâu nay không?  
Ông Nguyễn Minh Thuyết: Người phương Tây có câu “Mọi con đường đều dẫn tới thành Rome”. Chúng ta bàn đến rất nhiều chuyện. Tất cả các chuyện đều dẫn về cái cơ chế, cơ chế độc quyền trong quyết định, độc quyền trong kinh doanh, thì tôi nghĩ thật sự là làm ăn rất khó. Việc cải thiện thể chế này thì thật sự ra CP và NN nói chung thì nhìn thấy lâu rồi, và cũng đặt ra quyết tâm nhiều lắm rồi. Chỉ có điều là nhận thức ở nước ta nó đi nhanh hơn bước chân của mình. Nhiều khi mình đi chậm cũng không phải sức mình yếu mà vì có nhiều dây cản quá. 
Ông Đào Trọng Tứ: Chuyện chống độc quyền rất dài hơi. Hiện nay đầu tư thuỷ điện không phải chỉ NN, mà rất nhiều DN tư nhân cũng làm thuỷ điện vừa và nhỏ và rất khốn khổ về chuyện “ai mua điện? lúc nào được bán? lúc nào không được bán?” 
Bà Ngụy Thị Khanh: Chúng ta đang đi ngược với thế giới rất nhiều vấn đề. Ví dụ Hà Lan mua đất của nông dân để người ta trả lại cái dòng chảy uốn lượn của con sông, thì bây giờ mình lại đi kè sông, đi bó lại. Thế giới chuyển sang phát triển năng lượng tái tạo, từ bỏ nhiệt điện than, điện nguyên tử, thì bây giờ mình lại đi thúc đẩy các lĩnh vực này. Mà, theo quy hoạch mới là nhiệt điện than sẽ chiếm 50% trong tổng nhu cầu năng lượng của Việt Nam trong vòng 10 năm tới cơ đấy. Như thế là đi ngược. 
tọa đàm, nhiên liệu, kinh tế, nhập khẩu, xuất khẩu, Ngụy Thị Khanh, Đào Trọng Tứ, Nguyễn Minh Thuyết
Ông Nguyễn Minh Thuyết (giữa)
An ninh năng lượng sẽ là câu hỏi khó
Hoàng Hường: Một câu hỏi cuối cùng: từ một đất nước xuất khẩu, sắp tới ta sẽ thành nước nhập khẩu nguyên liệu, cụ thể là than. Trong tầm nhìn ngắn độ khoảng 10, 20 năm sắp tới thì sự thay đổi đó sẽ tác động thế nào đến nền kinh tế nói chung cũng như ngành năng lượng nói riêng? 
Bà Ngụy Thị Khanh: Thứ nhất, nếu không thay đổi trong quy hoạch điện hiện tại, tức là vẫn tăng tỉ lệ nhập khẩu than để sản xuất điện, thì đó là một rủi ro rất lớn cho môi trường, cho sinh thái, cho con người và cho cả sự phát triển kinh tế xã hội.  
Những tác động của nhiệt điện than thì thế giới đã để lại bài học rồi và Việt Nam chúng ta cũng đang có những trải nghiệm. Những màu đen hoặc là những tỉ lệ của người mắc bệnh ung thư phổi, rồi ung thư  vòm họng… xuất hiện tại những khu vực có nhà máy sản xuất nhiệt điện trong thời gian gần đây cũng là những minh chứng để cho thấy những tác hại.  
Hệ số phát thải theo tính toán của  quy hoạch điện cũ mà hiện nay họ đang điều chỉnh thì chi phí cho phát thải khoảng độ 1 tỉ đô-la. Mà nếu cứ theo quy hoạch này thì gia tăng phát thải từ nhiệt điện than chiếm khoảng 90% trong số mà phát thải CO2 của Việt Nam. Ngược lại với xu thế, với chiến lược tăng trưởng xanh mà quốc gia vừa ban hành và đang lỗ lực để thực hiện ở các cấp. 
Thứ hai, liên quan đến an ninh năng lượng. Một nước phải nhập khẩu nhiên liệu, chúng ta sẽ bị phụ thuộc vào nước ngoài về mặt giá, về thị trường thay đổi. Và theo các chuyên gia của ngành than, nói rằng là “không dễ gì để Việt Nam có thể nhập được lượng than lớn như thế!” Như Nhật Bản hoặc là một số nước muốn nhập khẩu được than thì họ phải đưa tiền để sang mua, khai mỏ để đưa về. Để nhập được than về, đặc biệt là về đồng bằng sông Cửu Long có rất nhiều vấn đề liên quan đến việc vận chuyển như hệ thống cảng biển, kho, bãi. Mà hiện nay tất cả các cơ sở hạ tầng ấy đều chưa có.  
Thứ ba, chúng tôi rất lo lắng bởi vì khi phát triển nhiệt điện than thì sẽ liên quan đến sử dụng tài nguyên nước, và những tác động về tài nguyên nước đối với đồng bằng sông Cửu Long. Hiện các vựa lúa đang phải đổi mặt cới các thách thức từ phát triển thượng nguồn,  tác động của biển. Sắp tới lại sẽ gia tăng thêm áp lực. Rồi những hậu quả về mặt sức khoẻ, những chi trả cho chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe của người dân.  
Ông Đào Trọng Tứ: Theo tổng số trước đây chưa có điều chỉnh, đến năm 2020 chúng ta cần 80 triệu tấn than, hiện ta phải nhập khoảng một nửa. Thứ hai đến năm 2030, dự toán là chúng ta cần 150 triệu tấn than để sản xuất điện. Đây là một con số khủng khiếp! 
Lấy đâu ra trong khoảng 50 năm nữa để có thể có được 80 triệu tấn than để sản xuất điện, rất là khó!  
Tôi nghĩ là câu chuyện về năng lượng, hiện nay gọi là chân kiềng: an ninh nước là đầu tiên, an ninh lương thực và an ninh năng lượng là ba chân kiềng cho một phát triển của thế giới bền vững “phải đi với nhau như thế nào?”  là câu hỏi mà những nhà kĩ thuật như tôi nói ra không biết có tạo được niềm tin không, nhưng vẫn cần phải nói. 
Xin cảm ơn ba vị khách mời đưa về những phân tích chuyên môn và về góc độ quản lý NN sâu sắc. Cảm ơn quý vị độc giả của VietNamNet đã theo dõi buổi toạ đàm! 
Tuần Việt Nam
Ảnh: Lê Anh Dũng
Quay phim: Đức Yên, Xuân Quý
Dựng phim: Huy Phúc 

14 tháng 4, 2015

10 tháng, 9.017 văn bản pháp luật vi hiến, trái luật


15/01/2015 21:10 GMT+7
TTO - Chỉ trong vòng 10 tháng của năm 2014, đã có hơn 9.000 văn bản pháp luật có dấu hiệu vi hiến, trái luật được các bộ ngành, cơ quan địa phương kiểm tra phát hiện.
Bộ trưởng Bộ tư pháp Hà Hùng Cường: ”Sai luật thì phải tuýt còi” - Ảnh: T.L
Văn bản trái pháp luật vẫn gia tăng, nợ đọng văn bản có dấu hiệu quay trở lại, nhiều thủ tục hành chính rườm rà gây tốn kém cho người dân… là những vấn đề được các đại biểu thẳng thắn nêu ra tại hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và triển khai nhiệm vụ năm 2015.
Hội nghị do Bộ Tư pháp tổ chức sáng 15-1.
10 tháng: hơn 9.000 văn bản vi phạm
Báo cáo của Bộ Tư pháp cho thấy trong năm 2014, số lượng văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái pháp luật vẫn gia tăng.
Trong 10 tháng đầu năm 2014, các Bộ, cơ quan, địa phương đã kiểm tra và phát hiện 9.017 văn bản có dấu hiệu vi phạm các điều kiện về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản (chiếm tỷ lệ 22%). Trong số đó có hơn 1.500 VBQPPL có dấu hiệu vi phạm về thẩm quyền ban hành, nội dung văn bản.
Năm 2014, Bộ Tư pháp cũng đã phát hiện 885 văn bản có dấu hiệu vi phạm các điều kiện về tính hợp hiến, hợp pháp.
Đùn đẩy trách nhiệm bồi thường nhà nước
Về công tác bồi thường Nhà nước, thứ trưởng Đinh Trung Tụng cho biết việc giải quyết bồi thường nhà nước ở bộ ngành và địa phương còn lúng túng, thậm chí còn tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, dẫn đến việc chậm bồi thường, gây bức xúc cho người bị thiệt hại và dư luận xã hội.
Theo Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đinh Trung Tụng, một số văn bản có dấu hiệu trái pháp luật chưa được phát hiện kịp thời, có trường hợp các cơ quan không phát hiện được mà do báo chí phát hiện, nêu vấn đề trước.
Ông Đinh Trung Tụng cho rằng công tác tự kiểm tra của tổ chức pháp chế còn chưa thực sự hiệu quả. Việc rà soát, hệ thống hoá, hợp nhất VBQPPL còn mang tính hình thức, vẫn còn có sự dè dặt, nể nang trong kiểm tra, xử lý văn bản vi phạm.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đã thẳng thắn nói: “Hiện nay chưa có cơ chế tiền kiểm hiệu quả đối với thông tư, thông tư liên tịch. Nếu không có đóng góp của nhân dân, không có sự đóng góp của cán bộ địa phương thì vẫn còn tình trạng pháp luật trên trời”.
Sai luật phải tuýt còi
Thừa nhận những gì ngành tư pháp đạt được trong năm qua chưa xứng đáng với kỳ vọng của nhân dân, bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cho biết nhiều quy định của Hiến Pháp trong luật chưa được hiểu một cách thống nhất, có nguy cơ để lại hậu quả lâu dài trong hệ thống pháp luật.
Chất lượng văn bản QPPL nhất là các thông tư và thông tư liên tịch còn bị báo chí phản ánh sai nhiều, nợ đọng văn bản vẫn còn. Nếu không tập trung quyết liệt thì tới đây tình hình nợ đọng văn bản sẽ quay trở lại.
"Như chủ tịch Quốc Hội đã nói, nợ đọng nhiều thứ mà nợ đọng văn bản còn nguy hiểm hơn so với các thứ nợ khác” - Bộ trưởng Hà Hùng Cường nhấn mạnh.
Ông Cường cũng thừa nhận hiện nay thủ tục hành chính còn rườm rà, gây khó khăn tốn kém cho người dân.
Bộ trưởng quyết liệt: "Tôi chỉ nhắc chúng ta phải đổi mới mạnh mẽ tư duy quản lý. Hơn ai hết, người làm công tác tư pháp phải tham mưu cho địa phương, bộ ngành thực hiện đúng pháp luật. Luật ban hành đúng, phải thực hiện đúng luật, sai luật thì nhất định phải thổi còi”.
Phát biểu tại hội nghị, Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng lưu ý năm 2015, ngành Tư pháp cần tiếp tục thực hiện tốt vai trò đầu mối trong triển khai thi hành Hiến pháp, tiếp tục rà soát toàn bộ hệ thống pháp luật để kịp thời đề xuất sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới văn bản cho phù hợp với Hiến pháp. 
 Chưa có cơ chế cho người thi hành án tù kết hôn
Trước ý kiến của một số địa phương về quyền kết hôn của người đang thi hành án phạt tù và các tử tù chờ thi hành án, ông Nguyễn Công Khanh Cục trưởng Cục Hộ tịch quốc tịch và chứng thực Bộ Tư pháp cho biết quy định hiện không cấm người thi hành án tù và chuẩn bị thi hành tử hình được kết hôn.
Tuy nhiên, những người bị giam, giữ thực hiện quyền kết hôn vẫn rất khó khăn.
"Chúng tôi đã có văn bản trao đổi nhưng Bộ Công an trả lời hiện chưa có cơ chế trích xuất cho người đang thi hành án phạt tù được ra ngoài đăng ký kết hôn. Chúng tôi ghi nhận và sẽ báo cáo Bộ trưởng Bộ tư pháp để bàn phương án tháo gỡ", ông Khanh nói.
TÂM LỤA

11 tháng 4, 2015

Trạm thu phí “bao vây” doanh nghiệp

10/04/2015 10:05 GMT+7
TT - Trạm thu phí đang ngày càng mọc lên dày đặc khiến các doanh nghiệp phải kêu trời.
                        
 
Hàng trăm xe tải và ôtô chen nhau qua trạm thu phí cầu Đồng Nai chiều 9-4 - Ảnh: Hữu Khoa
Sau khi trạm thu phí cầu Đồng Nai đưa vào hoạt động gây kẹt xe hôm 8-4, nhiều nhà xe tiếp tục than phiền “ra ngõ gặp trạm”, trạm thu phí đang “bao vây” các doanh nghiệp vận tải. Chủ các nhà xe cho hay không tăng giá cước lợi nhuận sẽ giảm, còn tăng được giá cước thì hành khách thiệt thòi.
Ngày 9-4, phóng viên Tuổi Trẻ đã theo một xe tải 3 trục (tải trọng 10 tấn đến dưới 18 tấn) đi từ Khu công nghiệp Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An (Bình Dương) chở hàng về huyện Nhơn Trạch, Đồng Nai.
Tài xế Hải lái xe dừng lại trạm thu phí ngã tư Bình Thung mua vé 20.000 đồng/lượt rồi chạy vài cây số đến tiếp trạm thu phí Bình Thắng (đều thuộc thị xã Dĩ An) trả tiền thêm 10.000 đồng/lượt để qua trạm. Anh Hải chạy tiếp ra ngã ba Tân Vạn qua cầu Đồng Nai ghé vào trạm thu phí mua vé với mức 60.000 đồng/lượt rồi hướng về quốc lộ 51.
Đến trạm thu phí T1 (xã Tam Phước, TP Biên Hòa), anh Hải lấy thêm 80.000 đồng trả tiền vé để qua trạm này. Tổng cộng anh Hải đã trả phí hết 170.000 đồng cho một chiều đi với cung đường chưa đầy 30km, qua bốn trạm thu phí! Chúng tôi hỏi cùng một loại xe nhưng sao mỗi trạm thu giá khác nhau, anh Hải nói: “Chẳng thể hiểu nổi. Mấy bữa trước có ba trạm đã ngộp, nay thêm trạm thu phí ở cầu Đồng Nai mới ngán”.
Trạm như... mạng nhện!
Tìm gặp nhiều tài xế thường chạy xe tải từ TP.HCM về địa bàn Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước hỏi chuyện trạm thu phí ai cũng lắc đầu ngao ngán. Anh Dũng, một tài xế thường chở nhôm từ TP.HCM cung cấp cho các điểm ở Biên Hòa, kể: “Giao hàng ngoài quốc lộ 1 đã gặp trạm, vào ra trung tâm Biên Hòa giao hàng không gặp trạm ở đường Đồng Khởi, đường Bùi Hữu Nghĩa thì gặp trạm ở quốc lộ 1K”. Anh Dũng bức xúc chỉ trong một năm đã có hai trạm thu phí ngay trên quốc lộ 1 thuộc địa bàn tỉnh Đồng Nai “bao vây” xe cộ đi qua.
“Trạm thu phí ở huyện Trảng Bom rồi nay thêm trạm ở cầu Đồng Nai. Nếu đi từ TP.HCM về giao hàng ở ngã tư Dầu Giây phải qua ít nhất ba trạm. Toàn tuyến đi khoảng 60km phải trả phí cả lượt đi lượt về cho các trạm thì nhà xe chỉ có... khóc” - anh Dũng buông lời.
Theo ghi nhận của Tuổi Trẻ, các tuyến đường nối các tỉnh tại khu vực Bình Dương - Đồng Nai - Bình Phước thì không có tuyến đường nào có dưới hai trạm thu phí. Tuyến đường ĐT743 nối Thủ Dầu Một (Bình Dương) tới cầu Hóa An (Đồng Nai) có tới ba trạm thu phí. Cũng tuyến đường ĐT743 nhánh nối ra quốc lộ 1 hay nhánh nối ra quốc lộ 1K cũng đều có trạm thu phí. Tuyến đường ĐT741 từ Bình Dương tới Bình Phước có tới ba dự án BOT với bốn trạm thu phí, trong đó tại Bình Dương có một trạm và Bình Phước tới ba trạm.
Ông Trần Thanh Bảo - trưởng phòng điều hành Công ty TNHH dịch vụ vận tải Thiên Phú, đơn vị có xe đò hoạt động ở bến xe Miền Đông (TP.HCM) - cho biết từ bến xe Miền Đông đến Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ hơn 110km mà xe phải “bò” qua đến bốn trạm thu phí gồm: trạm cầu Bình Triệu, trạm cầu Đồng Nai, trạm thu phí ngã ba Thái Lan (quốc lộ 51, Đồng Nai) và trạm Lam Sơn (quốc lộ 51, Bà Rịa - Vũng Tàu).
Ông Trần Bình - một chủ xe - cho biết nếu đi từ trạm thu phí Rạch Chiếc - xa lộ Hà Nội (TP.HCM) qua cầu Đồng Nai đến Trảng Bom (Đồng Nai) khoảng 40km phải qua ba trạm thu phí, trong khi Nhà nước quy định trên một trục đường khoảng cách giữa hai trạm thu phí là 70km.
Các trạm thu phí mọc lên bao quanh khu vực cửa ngõ TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu - Nguồn: Hà Mi - Đồ họa: N.Khanh
Đường xấu, phí cao
“Mạng nhện” trạm thu phí ở các tuyến đường nối TP.HCM - Bình Dương - Bình Phước, Bình Dương - Đồng Nai trở thành nỗi lo của nhà xe, tài xế. Nhưng họ còn ám ảnh hơn khi ở không ít nơi trạm thu phí mọc lên, đường cứ xấu và giá vẫn tăng. Cụ thể tại Bình Phước, đoạn quốc lộ 13 chưa đầy 70km nhưng được “chẻ” tới hai dự án BOT: Tham Rớt (giáp Bình Dương) - Bình Long và An Lộc (Bình Long) - Chiu Riu (huyện Lộc Ninh).
Trong đó, dự án An Lộc - Chiu Riu đang thi công bầy hầy nhưng đã được Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải đồng ý cho đặt trạm thu phí tại km 105+700 thuộc xã Thanh Phú, thị xã Bình Long, cách trạm thu phí đã có tại km 90+300 của dự án Tham Rớt - Bình Long chưa đầy 30km. Không những vậy, sau khi dự án An Lộc - Chiu Riu hoàn thành, chủ đầu tư còn có thể được đặt thêm một trạm thu phí ở cuối dự án (dù dự án này chỉ dài hơn 32km).
Cũng tại Bình Phước, nếu như trước đây ôtô dưới 12 chỗ ngồi, xe tải dưới 2 tấn qua mỗi trạm thu phí của dự án quốc lộ 13 Chơn Thành - Bình Long chỉ phải đóng 10.000 đồng/trạm thì đầu năm 2015 đã tăng lên tới 20.000 đồng/trạm. Việc tăng giá được HĐND tỉnh Bình Phước ra nghị quyết. Không chỉ vậy, HĐND tỉnh Bình Phước cũng đã thông qua nghị quyết cho phép tăng phí dự án đường ĐT741 (Đồng Xoài - Phước Long).
Mức tăng phí của các dự án này đều từ 50%, cá biệt dự án quốc lộ 13 Chơn Thành - Bình Long tăng tới 100% trong lúc nhiều đoạn đường còn rất xấu. Cùng trên quốc lộ 13 nhưng mức thu phí của Bình Phước cao hơn dự án BOT thuộc địa bàn tỉnh Bình Dương (thu 15.000 đồng/trạm).
Tăng vé xe do qua nhiều trạm thu phí
Theo ông Trần Thanh Bảo, trong vòng hai tháng qua doanh nghiệp này đã ba lần giảm giá vé xe đò tuyến bến xe Miền Đông đến Bà Rịa - Vũng Tàu (từ 100.000 đồng/vé còn 85.000 đồng/vé/hành khách). Với mức phí cầu Đồng Nai là 690.000 đồng/xe 16 chỗ/tháng, sắp tới doanh nghiệp này phải tăng giá vé xe đò để bù đắp chi phí phát sinh.
Còn ông Bùi Văn Quản, chủ tịch Hiệp hội Vận tải hàng hóa TP.HCM, nói việc phát sinh trạm thu phí cầu Đồng Nai buộc các doanh nghiệp vận tải yêu cầu các chủ hàng điều chỉnh giá cước vận tải hàng để bù đắp chi phí, việc tăng cước phí vận tải hàng hóa đồng nghĩa với tăng giá thành sản phẩm. Trong khi đó, các hãng taxi ở TP.HCM cho rằng việc có thêm trạm thu phí sẽ ảnh hưởng đến hành khách vì khách đi qua trạm thu phí nào thì phải trả thêm tiền qua trạm thu phí đó (ngoài tiền cước taxi).
Trước tình hình kẹt xe ở trạm thu phí cầu Đồng Nai trong ngày đầu thu phí (8-4), ông Thượng Thanh Hải - phó giám đốc bến xe Miền Đông - cho biết nếu để tái diễn kẹt xe như vậy vào dịp lễ 30-4 sắp tới thì sẽ khó giải tỏa khách ùn ứ ở bến xe Miền Đông, vì nếu để xảy ra kẹt xe tại trạm thu phí trên thì xe từ Bà Rịa - Vũng Tàu, Phan Thiết, Nha Trang không kịp quay đầu xe vào bến xe Miền Đông rước khách.
Theo luật sư Thái Văn Chung - phó chủ tịch Hiệp hội Vận tải hàng hóa TP.HCM, trạm thu phí cầu Đồng Nai chính là cửa ngõ của TP.HCM nên có mật độ xe lưu thông rất lớn. Để kẹt xe ở đây không chỉ ảnh hưởng đến vận chuyển hành khách mà còn khiến chậm giao nhận hàng về các cảng biển xuất nhập khẩu, trong khi trạm thu phí này lại không có làn thu phí tự động.
Khoảng cách đặt trạm quá gần
Theo luật sư Thái Văn Chung, khoảng cách trạm thu phí Rạch Chiếc - xa lộ Hà Nội đến trạm thu phí cầu Đồng Nai quá gần, chỉ mười mấy kilômet là bất hợp lý. Nhiều doanh nghiệp phản ảnh với hiệp hội việc có quá nhiều trạm thu phí dày đặc ở cửa ngõ TP đang làm cước vận tải tăng. Ông Chung cho rằng cơ quan chức năng cần xem lại quy hoạch đặt trạm thu phí tại TP.HCM và các địa phương lân cận bố trí phù hợp để việc thu phí không trở thành một gánh nặng cho doanh nghiệp.
Thông tư 159 của Bộ Tài chính về hướng dẫn chế độ thu, nộp quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ hoàn vốn đầu tư xây dựng đường bộ quy định khoảng cách giữa hai trạm thu phí trên cùng một tuyến đường là 70km. Trong trường hợp không đảm bảo tối thiểu 70km thì trước khi xây dựng trạm thu phí, Bộ Giao thông vận tải thống nhất với UBND cấp tỉnh và Bộ Tài chính quyết định (đối với quốc lộ).
Trong khi đó, trạm thu phí Rạch Chiếc trên xa lộ Hà Nội (Q.9, TP.HCM) nằm trên trục đường nối liền với quốc lộ 1 và chỉ cách trạm thu phí cầu Đồng Nai đặt tại quốc lộ 1 khoảng 15km, còn từ trạm thu phí cầu Đồng Nai đến trạm thu phí An Sương - An Lạc (cũng trên quốc lộ 1) chỉ hơn 30km.
Trước đó, ngay khi khởi công xây dựng cầu Đồng Nai mới (ngày 7-6-2008), chủ đầu tư dự án là Tổng công ty Xây dựng số 1 đã tổ chức thu phí cầu Đồng Nai tại trạm thu phí Sông Phan, tỉnh Bình Thuận.
Trong bài trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ ngày 16-7-2008, ông Huỳnh Tấn Trí - tổng giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư và xây dựng cầu Đồng Nai (nay là phó tổng giám đốc Tổng công ty Xây dựng số 1) - cho biết lý do không đặt trạm thu phí tại cầu Đồng Nai vì quá gần trạm thu phí Rạch Chiếc - xa lộ Hà Nội, chỉ mười mấy cây số và cách trạm thu phí tuyến tránh Biên Hòa khoảng 40km. Thế nhưng đến nay, dù biết có bất cập về khoảng cách trạm thu phí, chủ đầu tư dự án xây cầu Đồng Nai vẫn đặt trạm thu phí tại cầu Đồng Nai.
Đảm bảo bài toán hoàn vốn cho nhà đầu tư
Trả lời về việc trạm thu phí đường bộ theo hình thức BOT hình thành thời gian qua có khoảng cách gần nhau, ông Nguyễn Văn Huyện - tổng cục trưởng Tổng cục Đường bộ (Bộ Giao thông vận tải) - cho biết khoảng cách giữa các trạm thu phí cách nhau 70 km/trạm không còn phù hợp nữa.
Ông Huyện cho biết hiện nay các dự án đường bộ có quy mô đầu tư lớn, đầu tư bằng hình thức xã hội hóa thì một số dự án không thể đạt khoảng cách đặt trạm thu phí như vậy nữa. Với dự án mở rộng quốc lộ 1, để đảm bảo bài toán hoàn vốn cho nhà đầu tư khi đặt trạm thu phí cự ly cách nhau 70km thì phải dùng vốn ngân sách hỗ trợ nhà đầu tư làm 20-30km của dự án.
“Sắp tới Tổng cục Đường bộ sẽ kiến nghị Bộ Giao thông vận tải đề nghị Bộ Tài chính bỏ quy định khoảng cách tối thiểu 70km giữa hai trạm thu phí trên một tuyến đường. Bây giờ đầu tư đường bằng hình thức BOT, không có ngân sách hỗ trợ thì một số trạm không thể đạt được khoảng cách đấy” - ông Huyện cho biết.
Chiều 9-4, Bộ Tài chính cho biết ngân sách nhà nước khó khăn nên tỉ trọng vốn ngân sách đầu tư cho dự án cơ sở hạ tầng eo hẹp. Do đó để giao thông thuận tiện, phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội thì dự án xây dựng cầu, đường cao tốc... không thể chỉ trông chờ vốn từ ngân sách.
Để thu hút vốn tư nhân tham gia xây dựng các dự án cầu, đường cao tốc thì phải đảm bảo khả năng hoàn vốn và lợi nhuận hợp lý cho chủ đầu tư. Thông thường, thời gian hoàn vốn dự án BOT ngành giao thông dao động 18-25 năm. Nếu trên 30 năm mới hoàn vốn thì rất khó thu hút được nhà đầu tư.
T.PHÙNG - L.THANH