Trang

7 tháng 4, 2015

"Việt Nam tụt hậu 1-2 thế kỷ"


(GDVN) - Trong thế kỷ 21 này, ngành nào cũng có biến đổi và biến đổi nhanh chóng, nhưng có một ngành mãi vẫn lạc hậu và không thay đổi gì hết, đó là sư phạm.
GS.TSKH Hồ Ngọc Đại - người đã từng từ chối làm Thứ trưởng để dạy tiểu học đã bình luận như vậy khi nói về vai trò của người thầy - yếu tố thiên cốt tạo nên sức sống của nền giáo dục.
"Ai cũng dạy được, thất cơ lỡ vận có chữ là dạy được"
GS Hồ Ngọc Đại nhận định: "Ngay từ những năm 60 của thế kỷ trước, khi chúng ta bắt đầu chuẩn bị cuộc cải cách giáo dục với nhiều ảo tưởng, Thủ tướng Phạm Văn Đồng hỏi về tôi cuộc cải cách giáo dục như thế nào? Tôi trả lời ngay: "Sẽ thất bại, vì chiến lược về nền giáo dục hiện đại dông dài, ly kỳ, khó hiểu. Cho đến bây giờ, Việt Nam chúng ta nếu nhìn về mặt triết học thì ngang bằng lịch sử, nhưng thực chất là đang tụt lùi 1-2 thế kỷ”.
GS.TSKH Hồ Ngọc Đại: Trong thế kỷ 21 ngành nào cũng có biến đổi và biến đổi nhanh chóng, nhưng có một ngành mãi vẫn lạc hậu và không thay đổi gì hết (kể cả nguyên tắc lý thuyết) đó là sư phạm. Ảnh: Ngọc Quang.
Nếu đặt ra câu hỏi: Trước quá nhiều chuyện xấu xí của nền giáo dục, chúng ta phải chọn vấn đề gì cần phải làm trước để mở đường cho một cuộc cải cách? Hẳn bất cứ ai có hiểu biết về giáo dục đề sẽ trả lời: Cái lõi của sự đổi mới, không gì hơn được, đó chính là người thầy. Nếu người thầy năng lực không tốt, không mẫn cán mà nói vui là không chịu được áp lực "lái tàu cao tốc" thì hệ lụy là sẽ làm hỏng nhiều thế hệ học sinh. Nhưng dường như ngành giáo dục chưa có một kế hoạch đủ mạnh để thay đổi vai trò của người thầy. Do đó, GS Hồ Ngọc Đại đánh giá rằng, trong thế kỷ 21 này, ngành nào cũng có biến đổi và biến đổi nhanh chóng, nhưng có một ngành mãi vẫn lạc hậu và không thay đổi gì hết (kể cả nguyên tắc lý thuyết) đó là sư phạm.
“Đi đến đâu tôi cũng kể lại câu chuyện ông bố Kennedy mở lớp dạy cho trẻ con và nói rằng, dòng họ Kennedy sẽ làm tổng thống nước Mỹ. Nếu không làm Tổng thống nước Mỹ mà làm bất cứ nghề gì, kể cả đó là nghề móc cống thì cũng là người móc cống giỏi nhất nước Mỹ. Điều đó có nghĩa là xã hội đòi hỏi sự chuyên nghiệp hóa, nhưng chúng ta hiện nay không có tính chuyên nghiệp gì cả.
Khi nghiên cứu về tâm lý học, tôi thấy rất tự ái về nghề, vì rằng ai cũng làm giáo viên được cả, kể cả thất cơ lỡ vận có chữ là dạy được. Do đó, tôi muốn biến cái nghiệp vụ sư phạm thành công việc chỉ có thầy giáo mới làm được, ngoài ra không ai làm được”, GS Đại chia sẻ.
Đào tạo giáo viên dư thừa quá lớn
Song song với yêu cầu nâng cao chất lượng đời sống cho người thầy thì công tác tuyển sinh ngành sư phạm cũng phải siết thật chặt, không nên để điểm đầu vào quá thấp như mấy năm qua. Nói cách khác, những ai không xứng đáng thì cũng đừng đứng vào hàng ngũ người thầy.
PGS.TS Nguyễn Thám – Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Huế cho hay: “Tôi thống kê hiện nay có 43 trường sư phạm, hoặc các trường không sư phạm nhưng lại có khoa sư phạm đào tạo giáo viên, thậm chí có những trường không có khoa sư phạm cũng đào tạo giáo viên. Năm trước, chỉ tiêu đào tạo giáo viên của Bộ Giáo dục là 16 nghìn có ngân sách nhưng các trường ở địa phương thì tăng lên 25.500 chỉ tiêu. Dù chủ trương của Bộ Giáo dục là giảm chỉ tiêu đào tạo giáo viên, nhưng năm nay vẫn có tới 25.250 chỉ tiêu đào tạo ở tất cả các trường trên cả nước. Như vậy là quá dư thừa".
PGS.TS Nguyễn Thám - Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Huế đề nghị ngăn chặn sự phát triển ồ ạt đào tạo giáo viên. Ảnh: Ngọc Quang.
Trước thực trạng trên, PGS Nguyễn Thám đề nghị Chính phủ và Bộ Giáo dục cần phải ngăn chặn được sự phát triển ồ ạt vượt quá hệ thống các trường đào tạo giáo viên.
"Nếu không kiên quyết điều chỉnh lại hệ thống các trường đào tạo giáo viên, không kiên quyết giảm chỉ tiêu của các trường đào tạo giáo viên thì đừng nói đến chuyện. Tôi biết rằng chuyện này khó, nhưng phải kiên quyết làm cho được, đây là câu chuyện mang tầm quốc gia và nếu chỉ có riêng Bộ Giáo dục thì không thể làm được", PGS Thám nói.
Chia sẻ về những lo lắng này với PV Báo Giáo dục Việt Nam, GS Nguyễn Minh Thuyết - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng nhận định rằng "đào tạo vẫn rất nhiều và tuyển dễ dãi dẫn tới vàng thau lẫn lộn".
GS Thuyết đánh giá, chương trình - SGK hay trang thiết bị dạy học rất quan trọng, nhưng vai trò của nhà giáo luôn luôn là số một. Chính vì vậy, trong lần đổi mới này, chúng ta cần đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, nếu không đổi mới được trước thì ít nhất cũng phải song song với đổi mới chương trình - SGK.
"Trước hết, cần đổi mới ở khâu tuyển sinh. Lâu nay, biện pháp miễn học phí cho sinh viên, học viên sư phạm đã tỏ ra hết hiệu lực, không hấp dẫn được học sinh giỏi như trước nữa; bởi vì được miễn vài triệu đồng học phí, lúc ra trường phải chạy hàng trăm triệu đồng mới có một chỗ dạy học thì thầy cô lương ba cọc ba đồng lấy tiền đâu để bù vào khoản “tiêu cực phí” ấy? Chi bằng họ chọn nghề khác, tuy lúc ra trường vẫn phải “chạy việc” nhưng khả năng kiếm thêm, bù lại vẫn nhiều hơn. Để hấp dẫn người giỏi vào ngành sư phạm, theo tôi, Nhà nước cần xác định được tương đối chính xác nhu cầu giáo viên để không đào tạo tràn lan và đảm bảo công ăn việc làm cho giáo sinh lúc ra trường. Xác định điều này hoàn toàn không khó khi đã có số liệu về trường, lớp, môn học, số trẻ sinh ra mỗi năm…
Sau khâu tuyển sinh là phương thức đào tạo. Công tác đào tạo ở các trường sư phạm phải gắn với đơn vị sử dụng lao động. Giáo sinh chỉ nên dành tối đa 60% thời gian học ở trường sư phạm, còn 40% thời gian học ở trường phổ thông. Có như vậy thì đào tạo mới gắn liền với thực tế, giáo viên mới giỏi được", GS Thuyết chia sẻ.

5 tháng 4, 2015

Chẳng có cấp chính quyền nào nhận mình sai

Sự việc sông Đồng Nai cho thấy, trong khi các nhà chuyên môn thường thể hiện tính chính quy trong phán xét sự việc thì cấp chính quyền nào cũng vậy, chẳng mấy khi nhận sai trái về phần mình. Thế rồi, chuyện phải đến đã đến, đó là lúc các bộ, ngành và cơ quan chức năng trung ương vào cuộc.

Dự án “Cải tạo cảnh quan và phát triển đô thị ven sông Đồng Nai” sau hơn hai tuần lễ gây nhiều tranh cãi giữa địa phương và giới chuyên môn ở trung ương được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm, đã phải tạm dừng theo đề nghị của nhà đầu tư.
Thông báo của UBND tỉnh Đồng Nai hôm 27-3 nói rõ lý do là “để tiếp thu, lắng nghe ý kiến của các bộ Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng để làm rõ tác động của dự án” mà đơn vị này đang thi công. Đây là một kịch bản gần như đã trở thành “kinh điển” đối với các dự án lớn “có vấn đề” mà gần đây nhất là dự án thay thế cây xanh ở Hà Nội và xa hơn là dự án khai thác bauxite ở Dăk Nông đến nay không chỉ là nỗi nhức nhối về tác hại môi trường.
Với dự án cải tạo trên sông Đồng Nai, khi mà những tranh cãi liên quan đến tác hại môi trường nổ ra gay gắt, tràn ngập trên các kênh truyền thông thì sự kiện này nhanh chóng trở thành dòng thời sự chủ lưu mấy tuần qua.
Các nhà khoa học, chuyên viên thuộc nhiều cơ quan chức năng với một bồ kiến thức chuyên sâu đã đưa ra nhiều luận điểm đầy thuyết phục, phân tích rõ những tác hại do thay đổi dòng chảy sông Đồng Nai, chế độ thủy văn và xói lở ảnh hưởng đến 11 tỉnh trong khu vực được xem là vùng kinh tế năng động.
Lấp sông Đồng Nai, Môi trường, nhà báo Trần Trọng Thức
Một nhánh sông Đồng Nai.
Đồng Nai phản ứng chống chế không thuyết phục rằng dự án này nằm trong quy hoạch của tỉnh, sau khi các sở ngành liên quan có ý kiến thì UBND tỉnh đã có quyết định chấp thuận cho Công ty Toàn Thịnh Phát đầu tư dự án. Việc lấn sông không ảnh hưởng bao nhiêu đến dòng chảy và môi trường. Tỉnh mạnh dạn hơn khi quả quyết việc cấp phép là đúng chức năng, không cần xin ý kiến của Bộ Xây dựng hay của tỉnh, thành nào khác vì đây là dự án của địa phương không nằm trong đề án sông Đồng Nai.
Cũng dễ hiểu sự khác biệt này. Trong khi các nhà chuyên môn thường thể hiện tính chính quy trong phán xét sự việc thì cấp chính quyền nào cũng vậy, chẳng mấy khi nhận sai trái về phần mình. Thế rồi, chuyện phải đến đã đến, đó là lúc các bộ, ngành và cơ quan chức năng trung ương vào cuộc.
Trước tiên là Bộ Tài nguyên và Môi trường nói rằng, địa phương chưa hề xin ý kiến của bộ là cơ quan có thẩm quyền trong việc xem xét dự án và đã yêu cầu các đơn vị của bộ kiểm tra, báo cáo tình hình. Người phụ trách trực tiếp lĩnh vực tài nguyên nước nói vấn đề chi phối của dự án này không hẳn là môi trường mà là sự chi phối của Luật Tài nguyên nước, liên quan đến chỉnh trị dòng sông.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì sao? Người đứng đầu Tổng cục Thủy lợi nói: Vụ Đê điều, Vụ Phòng chống bão lụt, rồi Cục Thiên tai, chẳng có nơi nào thấy tỉnh Đồng Nai, chủ đầu tư xin phép, xin ý kiến gì về việc “lấn sông” này cả. Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông Vận tải cũng có ý kiến về dự án.
Đoàn công tác của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội tuần qua đã đến Đồng Nai tìm hiểu tình hình. Và trong một buổi họp mới đây, Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đã giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng, Giao thông Vận tải, UBND tỉnh Đồng Nai làm rõ về dự án lấn sông, báo cáo Thủ tướng chậm nhất là trong tháng 5-2015.
Quá nhiều các cơ quan quyền lực vào cuộc đã khiến “Dự án cải tạo cảnh quan và phát triển đô thị ven sông Đồng Nai” vượt khỏi tầm tay của địa phương lẫn nhà đầu tư là Công ty Toàn Thịnh Phát, một doanh nghiệp lớn, có thế lực trong lĩnh vực xây dựng tại Đồng Nai và Bình Dương.
Kịch bản sẽ đến hồi thứ hai với một cuộc chạy tìm thuốc chữa để dự án có thể vượt qua cơn bĩ cực. Vận động viên không chỉ địa phương mà cả nhà đầu tư đã bỏ vào một khoản tiền lớn cho dự án đang được thi công và không muốn nửa đường phải đứt gánh. Danh sách nơi phải đến càng dài thì đó là một cuộc chạy marathon trải qua nhiều trạm, hao tốn nhiều sức lực lẫn thời gian. Bộ máy hành chính lâu nay cố vùng vẫy mà chưa thoát khỏi tệ nạn quan liêu vẫn còn đó quá nhiều cục, nhiều vụ sẵn sàng thể hiện quyền hành. Thế là lại ban phát, lại xin - cho, lại phong bì và những giải pháp khắc phục.
Vất vả này trước tiên thuộc về địa phương bởi về nguyên tắc nhà đầu tư có thể đổ hết trách nhiệm: anh cấp phép cho tôi thì tôi tin cậy hoàn toàn vào anh, giữa đường có chuyện gì thì anh phải lo giải quyết, tôi vi phạm thì anh xử thế nào tôi cũng chịu mọi thiệt hại về mình. Nhưng về thực tế thì lại khác: anh có thế, tôi có lực, cùng tìm cách hóa giải khó khăn vì tinh thần cộng sinh, vì uy tín của anh để người ta không chê là làm ăn bất nhất và vì quyền lợi của tôi, đã phóng lao thì phải theo lao.
Giải pháp là gì đây? Hoặc rút giấy phép vì dự án này tác hại đến mức không thể chấp nhận được và sẵn sàng cấp đất cho một dự án khác. Thế là phát sinh thêm vấn đề ai phải bỏ tiền ra đền bù cho những thiệt hại của nhà đầu tư? Hoặc trước sự đã rồi nên phải đi vào lối mòn “khắc phục” những hạn chế của dự án theo yêu cầu của các bộ, ngành như giảm bớt một số hạng mục, cam kết bảo vệ môi trường, đền bù thiệt hại cho các bên liên quan...
Cũng rất có thể giải pháp thứ hai mang tính thỏa hiệp được chọn lựa với lý do đơn giản là dễ thực hiện và ít gây thiệt hại hơn cả cho đôi bên. Và nếu không gặp phản ứng gay gắt của xã hội thì sẽ trở thành “chuyện để lâu cứt trâu hóa bùn” như người đời xưa thường nói và người đời nay thường làm. Thế là kết thúc một vòng chạy thuốc sau khi tiếp thu và lắng nghe những ý kiến sáng giá và đầy trách nhiệm giữa bao nhiêu quy định không rõ ràng của pháp luật và sự toan tính của địa phương lẫn doanh nghiệp.
Trần Trọng Thức(theo TBKTSG)

4 tháng 4, 2015

Thiệt hại nặng về kinh tế, sao vẫn cho nghỉ lễ dài ngày?

Video đang được xem nhiều
Đoàn tàu ngư dân tiễn ông Nguyễn Bá Thanh về đất mẹ
 
BẠN ĐỌC PHẢN HỒI - COMMENT (85) 
Võ Tuấn - Đồng Tháp - 03/04/2015
Tác giả bài viết là người sáng cấp ô đi, tối cấp ô về ăn cơm với vợ, chơi đùa với con... Còn tụi em dân xa xứ làm ăn mong có ngày nghỉ dài dài tí để về thăm vợ thăm con.. Dù rằng nghỉ thì không có lương nhưng tình cảm gia đình là trên hết. Nói dại miệng chứ cấm đầu cấm cổ là như tác giả bài viết lở... xem tiếp
Hoàng Thanh - 03/04/2015
ủng hộ bác, ở Nhật một năm có 3 kì nghỉ dài, vào tháng 1, tháng 5, tháng 8, dân được nghỉ từ 4 ngày tới 1 tuần tùy theo kì nghỉ, và một năm tổng số ngày nghỉ vào khoảng 90 đến 105 ngày .. nhưng dân Nhật vẫn giàu, nên ông viết bài này chẳng có hiểu gì cả. hơn nhau là năng suất lao động chứ không phải... xem tiếp
Hai Lúa - 04/04/2015
Mới nghỉ 9 ngày vào Tết Nguyên đán chưa đầy 3 tháng lại nghỉ thêm 6 ngày nữa. Làm ơn lấy phép toán cộng trừ nhân chia ra mà tính thu nhập bao nhiêu trừ ra khoản tiêu xài còn lại cái gì? Thử hỏi lương 4 triệu một tháng mà dám bỏ tiền ra mua điện thoại iPhone 6 cho bạn gái. Thu nhập không có bao nhiêu... xem tiếp
HÙNG SÀI GÒN - GÒ VẤP - SÀI GÒN - 03/04/2015
NẾU THẤY CHƯA ĐỦ TĂNG TRƯỞNG BẰNG ANH PHÁP MỸ ĐỨC, TÔI ĐỀ NGHỊ MÌNH "CÀY" LUÔN BAN ĐÊM, TRỪ LÚC ĐI NGỦ VÀ LÚC NGHĨA VỤ VỚI BÀ NHÀ. NHẤT ĐỊNH KINH TẾ KHÔNG THUA GI Ả RẬP. NHƯNG CẢNH BÁO LÀ SẼ CẦN THÊM NHIỀU BV CHỢ QUÁN ĐÓ NHA !
nguyen manh - 03/04/2015
Tác giả bài viết này là Trần Đình Thu, hình như trước đây cũng đăng vài bài viết về nghỉ lễ dài ngày, hình như chưa chịu thua, nên viết tiếp bài này. Tác giả nên bình tâm suy nghĩ, đọc thật nhiều trước khi đăng ý kiến.
Phạm Văn Chín - 03/04/2015
Đâu có nghỉ 6 ngày. Nhà nước chỉ cho nghỉ 30-4 và 1-5 thôi. Còn thứ 7, Chủ nhật là nghỉ bình thường. Còn 2 ngày kia phải làm bù
nguyen van anh - 04/04/2015
Rất chính xác.
Nguyễn Quang Tuấn - Đà Nẵng - 03/04/2015
Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến của tác giả Trần Đình Thu; đất nước ta còn nghèo nhưng lại thích hưởng thụ sớm quá. Các quốc gia khác khi đời sống đã tương đối khá giả thì ngưới ta mới tính đến chuyện nghỉ dài ngày, tổ chức lễ hội. Riêng VN ngoài những kỳ nghỉ dài ngày thì trong một năm không biết bao... xem tiếp
Lâm Quang Nhật - 04/04/2015
Muốn khá giả như người ta thì bớt tham nhũng đi nhé
Nông dân - 04/04/2015
Bài viết dẫn số liệu của chuyên gia nước ngoài theo tôi là họ đứng trên khía cạnh mất tiền của các ông chủ chứ không phải là ở khía cạnh người lao động. Tôi không rõ công nhân làm việc ở những nhà máy tại các khu CN thì được trả lương như thế nào nhưng với dân văn phòng làm tư nhân như bọn tôi thì lễ,... xem tiếp
Anh - TP.HCM - 03/04/2015
Nếu như tiêu đề của bài viết là cầu hỏi "Thiệt hại nặng về kinh tế, sao vẫn cho nghỉ lễ dài ngày?" thì tôi muốn đặt lại một câu hỏi "Tại sao chúng ta không làm việc 365 ngày/năm để tăng trưởng kinh tế là nhiều nhất?".
thanh - 03/04/2015
Muốn về quê thăm cha mẹ ông bà dịp lễ tết thì tốt nhất kết hợp ngày lễ tết và phép năm mà nghỉ chứ tại sao cả xã hội đồng loạt nghỉ như thế. Các nước giàu cũng nghỉ tết có 1 ngày, Việt Nam mới thoát ngheo mà đã muốn nghỉ dài rồi.

Mà đây là suy nghĩ của những người chăm làm, còn người lười thì... xem tiếp
Thạc Lê - 04/04/2015
Ủng hộ ý kiến của bạn Thanh.
Sơn - 03/04/2015
Tôi cũng thấy quá bất cập trong vấn đề ngày nghỉ lễ tết. Có thể thấy vấn đề ngày nghỉ lễ tết đang bị lạm dụng, biến tướng kéo theo rất nhiều tiêu cực và hệ lụy xã hội. Hãy làm thử một cuộc khảo sát xem sẽ có bao nhiêu người không đồng tình với thực tại ngày nghỉ lễ kéo dài "lê thê" như hiện tại!
Năm Kim - TP.HCM - 03/04/2015
Nhà nước cho công chức nghỉ dài ngày là đúng, hợp lòng mong muốn của công chức mà công việc vẫn chạy đều, bớt được chí phí điện nước văn phòng. Đối với các doanh nghiệp thì tùy chủ nhân quyết định, có ai buộc phải ngưng sản xuất, nghỉ theo công chức đâu ? Như ngành điện lực, nhân viên bộ phận quản lý... xem tiếp
Lam - 04/04/2015
Xin lỗi 1 câu trước, ngày lễ mà doanh nghiệp bắt nhân viên đi làm là lương phải tăng lên cao hơn bình thường đó.
KHÔNG NÊN HOÁN ĐỔI - 03/04/2015
Tôi đồng tình với bài báo và còn có thêm ý kiến đó là trong việc nghỉ lễ dài ngày, các cơ quan nhà nước có việc hoán đổi ngày nghỉ ( cụ thể là ngày thứ bảy ) với ngày thường, điều này rất lãng phí thời gian, hiệu quả công việc không cao, cán bộ- công chức- viên chức đi làm chỉ để chấm công mà thôi, các... xem tiếp

VN ơi ! Vì sao nên nỗi ?

Đất nước 'chót bảng' và thách thức đang chờ

VN cần giải quyết thực trạng khiến cho nguy cơ bị rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”  đang hiện hữu.
LTS: Tại cuộc họp với các bộ ngành tuần qua về cải cách thủ tục hành chính, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng  đã thẳng thắn chỉ ra sự tụt hậu của Việt Nam về năng lực cạnh tranh: "Chúng ta giờ đang đứng chót ở ASEAN-6, có cái còn thấp hơn Lào, Campuchia, Myanmar thì làm sao chấp nhận được. Việt Nam không thể đứng chót trong ASEAN thế này..." Lời cảnh báo của người đứng đầu Chính phủ đã cho thấy tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, hướng đến tìm giải pháp thay đổi. Để góp thêm tiếng nói cho vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh đất nước, chúng tôi xin giới thiệu bài viết dưới đây để bạn đọc cùng trao đổi.
Giống như nhiều nước đang phát triển khác, dù đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ trong vài thập niên qua, Việt Nam hiện đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức trên con đường tiến đến thịnh vượng.
Chỉ dấu của các thách thức này gồm: kinh tế phát triển chậm lại, gia tăng thuế và các loại phí, năng suất lao động thấp, tỷ lệ thất nghiệp khó kiểm soát, nợ công cao thêm.
Song hành với những khó khăn trên, VN còn phải giải quyết các hệ lụy của phát triển như ô nhiễm môi trường, bong bóng BĐS, tham nhũng. Nguy cơ bị rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” đang hiện hữu.
kinh tế, phát triển, sập bẫy, quản lý, Nhà nước
Ảnh minh họa: Trần Chánh Nghĩa
Từ lâu, chăm lo các vấn đề xã hội và tăng trưởng kinh tế luôn được xem là các trụ cột phát triển nhằm hướng tới sự thịnh vượng. Tuy nhiên không phải chính phủ nào cũng có khả năng cùng lúc đưa các trụ cột này phát triển đồng đều.
Về nguyên tắc, tăng trưởng kinh tế  luôn đòi hỏi các đổi mới đồng bộ khác, trong đó thể chế luôn đóng vai trò then chốt. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, một khi các cải cách về thể chế không theo kịp hoặc không có khả năng giải quyết các bất cập nảy sinh vốn ngày càng phức tạp và khó dự đoán (do quy mô và độ phức tạp của nền kinh tế đất nước ngày càng lớn hơn) thì rất khó duy trì sự ổn định xã hội. Nhìn vào thực trạng kinh tế hiện nay, có thể phần nào khẳng định rằng các cải cách về thể chế của ta chưa đủ đáp ứng được các đòi hỏi cần thiết cho sự thịnh vượng của một quốc gia.
Trên khía cạnh xã hội: Khi đất nước mới thoát khỏi chiến tranh và còn nghèo khó, người dân thường dành sự quan tâm và sức lực cho các nhu cầu thiết yếu và phát triển kinh tế. 
Thời điểm đó, xã hội VN mang trong mình một động lực mạnh mẽ và sự khát khao thay đổi vận mệnh đất nước (ít nhất là trong lĩnh vực kinh tế) vốn được khích lệ bởi những thành tựu và thay đổi trong đời sống của dân chúng hàng ngày. Đây chính là thời điểm xã hội Việt Nam lạc quan và cũng ít có những vấn đề nổi cộm nhất.
Khi tích lũy tư bản đã ít nhiều đem lại cho đất nước một số vốn liếng nhất định, cũng là lúc các mâu thuẫn nảy sinh liên quan đến chiếc bánh lợi ích, trong đó ai cũng muốn mình hoặc người nhà mình có được phần to hơn. Tuy tiến hành đổi mới và cải cách sau Trung Quốc và Nga, nhưng Việt Nam vẫn không tránh khỏi việc để phát sinh một số vấn đề không mong muốn.
Việc thiếu vắng cơ chế giám sát hiệu quả cùng những hạn chế liên quan đến tính minh bạch trong quá trình cổ phần hóa các DNNN đã góp phần tạo nên một số nhóm lợi ích của nền kinh tế - những người được hưởng lợi từ việc mua lại nhiều tài sản thuộc sở hữu nhà nước vốn được định giá thấp hơn nhiều lần.
Trong lúc hệ thống quản trị nhà nước còn chưa hoàn thiện để có thể điều tiết nguồn lực, tái phân phối thu nhập và duy trì sự ổn định thông qua việc đảm bảo phúc lợi xã hội cho công dân thì sự gia tăng khoảng cách giàu – nghèo là điều tất yếu và đất nước phải sớm tìm cách giải quyết tình trạng này.  
Cần thẳng thắn nhìn nhận một sự thật rất hệ trọng đó là vai trò và uy tín của một bộ phận cơ quan công quyền đang bị người dân đặt dấu hỏi. Thế nên dẫn đến một hiện tượng tâm lý, đó là,  tính phản biện và sự bức xúc của dân chúng luôn vỡ ra khi một vụ việc nào đó bị nghi ngờ là liên quan đến các nhóm lợi ích mà chính quyền không có khả năng giải trình thấu đáo, chẳng hạn, vụ lấp sông Đồng Nai vừa qua.
Trên khía cạnh kinh tế: tuy chưa hội nhập sâu vào sân chơi kinh tế toàn cầu, nhưng kể từ khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007, Việt Nam đã chịu nhiều tác động của các biến động của kinh tế thế giới, đặc biệt sự đổ vỡ của nhiều tập đoàn kinh tế lớn của Mỹ và nguy cơ vỡ nợ công của một số nước châu Âu vào những năm 2010s. Bên cạnh các khó khăn liên quan đến thị trường và giá cả hàng hóa xuất khẩu, lạm phát lên cao song hành với lãi suất đã khiến nhiều DN điêu đứng và phá sản. Suy thoái cũng khiến cho các dòng vốn chảy vào ngân hàng bị giảm sút dẫn đến tình trạng khan hiếm vốn và các gói cho vay liên quan đến BĐS bị hạn chế.
Giống như câu chuyện của Ireland hay Hy Lạp, khi bong bóng BĐS vỡ, nhiều công trình,  dự án phải dừng lại và nhiều DN đã rút lui hoặc phá sản, làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế - có phần đóng góp rất lớn từ ngành xây dựng nhờ việc thúc đẩy các ngành sản xuất phụ trợ khác và tạo ra nhiều công ăn việc làm kể cả chính thức lẫn thời vụ, cũng như đóng thuế cho nhà nước.
Hệ lụy của phát triển thị trường BĐS khó đo đếm nổi: (i) Lãng phí tài nguyên khi một lượng lớn đất sản xuất bị chuyển đổi mục đích sử dụng và bị bỏ hoang; (ii) Gây nên các tranh chấp về đất đai kéo dài và khó giải quyết làm ảnh hưởng uy tín của nhà nước  đặc biệt là những trường hợp chính quyền hỗ trợ các doanh nghiệp thu hồi đất của dân mà không đền bù một cách thỏa đáng; (iii) Một lượng vốn khổng lồ cùng các khoản nợ xấu đang bị giam chân tại những công trình dang dở và những bãi đất hoang.
Các thách thức nằm ở hai trụ cột “xã hội” và “kinh tế” là không hề nhỏ. Để tiếp tục  tiến lên một cách bền vững, Việt Nam cần có nhiều hơn nữa các giải pháp dài hạn, trong đó cái cách thể chế kinh tế có vai trò nền tảng cho các cải cách khác.
Các yếu kém trong năng lực quản trị và thực thi chính sách của chính quyền các cấp đang gây cản trở các nỗ lực cải cách thể chế của đất nước. (Xem tiếp phần 2).
Trần Văn Tuấn