Trang

2 tháng 12, 2014

​Ukraine bổ nhiệm người Mỹ làm bộ trưởng


TTO - Ukraine đã chính thức bổ nhiệm người nước ngoài vào các vị trí cấp cao trong chính phủ mới hôm 2-12 nhằm bài trừ tham nhũng và cứu vãn nền kinh tế. 
Bà Natalie Jaresko tại quốc hội Ukraine hôm 2-12. Ảnh: Reuters
Theo AFP, Tổng thống Ukraine Petro Poroshenko phát biểu tại quốc hội hôm 2-12 nói nước này phải học các kinh nghiệm nước ngoài để vượt ra khỏi bờ vực phá sản sau nhiều năm tham nhũng và bất ổn chính trị. 
Ông đã ký quyết định cấp quốc tịch Ukraine cho công dân Mỹ Natalie Jaresko, chủ tịch một quỹ tư nhân và một chủ ngân hàng đầu tư Lithuania Aivaras Abromavicius. 
Bà Natalie cũng được quốc hội Ukraine bổ nhiệm làm bộ trưởng tài chính. Ông Abromavicius được bổ nhiệm làm cố vấn kinh tế. 
Cựu bộ trưởng y tế Georgia ông Alexander Kvitashvili cũng được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Y tế Ukraine.
Các nhà phân tích chỉ ra rằng quyết định của Ukraine trong việc đưa người nước ngoài vào một số vị trí nhạy cảm trong chính phủ để trấn an dư luận vốn mất lòng tin vào những chính trị gia.
AFP dẫn lời nhà phân tích chính trị Taras Berezovets nói: “Chúng ta đã đặt cược vào những con người này với hy vọng người nước ngoài sẽ không tham nhũng”. 
Ukraine đang theo bước những nước Liên Xô cũ như Georgia, nước đã từng có một ngoại trưởng người Pháp. 
Thực ra bà Jaresko là một người gốc Ukraine, đồng sáng lập quỹ đầu tư Horizon Capital tập trung vào các nước Đông Âu như Nga và Ukraine. 
“Tôi lớn lên trong một gia đình Ukraine ở Mỹ nhưng sống và làm việc tại Ukraine đã hơn 20 năm” - bà Jaresko nói với ông Poroshenko sau khi nhận quốc tịch Ukraine. 
VIỆT PHƯƠNG

Ôi, Sài Gòn !

TTO - Ngã tư Hàng Xanh, Q.Bình Thạnh, TP.HCM với hai tuyến đường Xô Viết Nghệ Tĩnh và Điện Biên Phủ thường xuyên xảy ra kẹt xe nghiêm trọng. Vào giờ cao điểm mỗi ngày, xe cộ đi lại tấp nập, hôm nào trời mưa xe kẹt cứng thành từng dãy dài cả cây số.
Toàn cảnh kẹt xe từ trên cầu vượt Hàng Xanh nhìn xuống
Những chiếc xe khách, xe buýt không thể di chuyển được ở khu vực Hàng Xanh.
Những chiếc xe buýt, xe tải, xe khách nằm ngổn ngang giữa đường.
Những chiếc xe buýt, xe tải, xe khách nằm ngổn ngang giữa đường.
Đoàn xe máy cũng rất khó khăn để di chuyển dù đang là đèn xanh.
Có những chuyến xe buýt vì kẹt xe không thể chạy theo tuyến mà phải bỏ trạm tìm đường tắt để về bến. Những hôm trời mưa vào giờ cao điểm đoàn xe bị dồn đứng lại, phải nhích từng chút. Xe máy, xe buýt, xe tải nằm ngổn ngang giữa đường.
Bác Văn Toàn chạy xe ôm ở khu vực này cho biết: "Cứ 5 giờ chiều là nó bắt đầu kẹt. Hôm nào trời mưa thì kẹt kín đen luôn".
Tại khu vực kẹt xe đơn vị công an giao thông  và dân phòng có mặt để điều phối, phân làn đường nên đến khoảng 20 giờ khu vực này đã giảm thiểu được tình trạng kẹt xe.
TIẾN LONG

1 tháng 12, 2014

Giá dầu thô giảm mạnh: Việt Nam gặp khó "hụt nguồn thu"?

(Tài chính) - Giá dầu trên thế giới đã liên tiếp giảm trong những ngày qua mà theo giới chuyên môn cảnh báo điều này ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế.

Phân tích trên tờ Thanh niên, TS Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế, nhận định giá dầu thế giới sẽ còn tiếp tục giảm do nguồn cung và cả các vấn đề liên quan đến chính trị.
Hiện tại, giá dầu trên thế giới giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 4 năm qua, tương đương với mức giảm 30% so với trước. Việc này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách vì kim ngạch xuất khẩu (XK) của cả nước sẽ giảm.
"Theo tính toán của chúng tôi, XK dầu thô đạt giá 100 USD/thùng mới cân đối được xuất - nhập. Vì nguồn thu từ XK dầu thô giảm sẽ khiến ngân sách nước ta giảm và bội chi ngân sách tăng lên. Hiện nay, XK dầu thô đóng góp khoảng 10% ngân sách VN”, TS Long nói.
TS Hoàng Thọ Xuân, chuyên gia thương mại, cũng cho rằng nền kinh tế VN sẽ thiệt nhiều hơn là lợi từ việc giá dầu thế giới giảm. Trong đó, quan trọng là VN luôn cần nguồn ngoại tệ để bù đắp cho các khoản thâm hụt thương mại, nên việc nguồn thu từ XK dầu thô giảm sẽ tác động lớn đến cân đối ngoại tệ.
Theo các chuyên gia kinh tế, Việt Nam cần tìm cách giảm phụ thuộc của nền kinh tế vào dầu thô
Theo các chuyên gia kinh tế, Việt Nam cần tìm cách giảm phụ thuộc của nền kinh tế vào dầu thô
Hiện nay, tỷ trọng XK dầu thô trong tổng kim ngạch XK của VN vẫn còn rất lớn và đóng vai trò quan trọng. Ngoài ra, VN cũng đang gia nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, nên việc giá dầu giảm có thể sẽ kéo theo giảm phát, khiến tăng trưởng toàn cầu chậm lại, tiêu dùng cũng suy giảm và chúng ta sẽ chịu các tác động từ tăng trưởng toàn cầu này, nhất là XK hàng hóa.
Thực tế giá dầu thô liên tiếp giảm từ cuối tháng 8 đến nay, song tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa 13 Quốc hội đã thông qua dự toán thu ngân sách nhà nước (NSNN) trên cơ sở dự báo giá dầu thô năm 2015 ở mức 100 đô la/thùng.
Theo đó, tổng thu cân đối NSNN là 921.100 tỉ đồng, bao gồm cả thu chuyển nguồn từ năm 2014 sang 10.000 tỉ đồng. Trong số này tổng số chi cân đối ngân sách là 1,147 triệu tỉ đồng. Tính ra mức bội chi năm tới là 226.000 tỉ đồng, tương đương 5% GDP.
Các cân đối ngân sách này được thông qua dựa trên mức tính toán thu nội địa năm nay (bao gồm cả thu từ dầu thô) sẽ tăng 13,4%, với mức giá dầu thô dự toán là 100 đô la Mỹ/thùng.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-ngân sách của Quốc hội Phùng Quốc Hiển: Dự báo của các tổ chức tài chính lớn trên thế giới cho rằng giá dầu thô năm 2015 chỉ xoay quanh khoảng 85-90 đô/thùng nên rủi ro về giảm giá dầu tác động đến giảm thu ngân sách là khá lớn.
Trên thực tế tại Việt Nam 10% GDP là nguồn thu từ dầu thô. Theo đó ông Hiển cho rằng, nếu giá dầu giảm theo dự báo của các tổ chức tài chính thế giới thì ngân sách sẽ hụt thu từ 10.000 đến 14.500 tỉ đồng so với mức dự toán thu nêu trên.
Nhật ký tư vấn của Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cho rằng, việc giữ dự toán thu từ dầu thô trong năm 2015 ở mức 100 USD/thùng là không khả thi bởi giá dầu thô thế giới vẫn đang trong xu hướng giảm và hiện một số quốc gia khác trong OPEC như Nigeria hay Iraq đều giảm mức dự toán giá dầu cho thu ngân sách năm 2015 về lần lượt là 73 USD/thùng và 80 USD/thùng.
Theo đó giới chuyên môn cho rằng cơ quan chức năng cần vào cuộc nghiên cứu, nhằm có những điều chỉnh chính sách kịp thời, bởi giá dầu thế giới dự báo sẽ còn tiếp tục giảm.
Phương Nguyên (Tổng hợp)

'Hậu duệ, quan hệ' và những người 'không ở đâu'

Đáng tiếc, với cái nhìn chung của xã hội chúng ta hiện nay, những người "không ở đâu cả" đó hoàn toàn không dễ sống.

Nỗi ám ảnh làm 'ở đâu đó'
Thời đại học, tôi học một trường thuộc loại quý tộc của thành phố, tỉ lệ sinh viên "nhà có điều kiện" chiếm đa số, và đặc thù ngành học là ngành ra trường cần có quan hệ, có "thế". Nhiều bạn sau này cũng có những vị trí tốt trong hệ thống cơ quan Nhà nước. Cá biệt cũng có những bạn cố phấn đấu thi bằng được vào cơ quan Nhà nước để kiếm suất đi học nước ngoài, nhưng khi về nước lại... "chuồn" ra làm ngoài cho lương cao.
Ngày hội trường, không thiếu những "cái bụng" bệ vệ, những mái tóc chải bóng mượt, những chiếc sơmi hàng hiệu viền vàng ở góc cổ áo và hàng khuy, đôi cài măngsét cũng vàng thật... Thêm cái chìa khóa điều khiển Mercedes, BMW đeo lủng lẳng ở thắt lưng là "đủ bộ". Và câu cửa miệng của họ là "Bây giờ làm ở đâu?", còn câu giới thiệu thì bao giờ cũng là "tổng nọ, vụ kia, thứ chỗ nọ, trợ chỗ kia..."
Từ những cuộc hội ngộ và trải nghiệm khác, tôi thường mang máng một suy nghĩ, là dường như cái mong mỏi phải có một chỗ "ở đâu đó" là ám ảnh thường trực với người Việt.
Chẳng hạn, một trong những mối lo của các ông bố bà mẹ hiện nay khi có con đi học, từ bé đến lớn, là "lo" cho con sau này "phải vào làm ở đâu đó", mà cái "đâu đó" với rất nhiều người được mặc định là "trong Nhà nước"! Nó dường như là nỗi lo xuyên suốt, từ lúc các bậc phụ huynh đẩy đổ cổng trường tiểu học cho đến khi qua các mốc THCS, THPT và đại học.
Bản thân người viết từng biết và nghe không hiếm các trường hợp "chạy" vào một vị trí nào đó trong cơ quan Nhà nước, nhất là các sở ban ngành ở các địa phương, tốn kém lên đến hàng trăm triệu đồng. Các viên chức đó, chấp nhận làm việc với một mức lương thực sự khiêm tốn với mức sống của xã hội hiện nay. Nếu chú ý một chút, chúng ta sẽ thấy phần lớn các vị trí công việc này nhìn chung không hứa hẹn mấy bổng lộc.
Với những trường hợp đó, thường là những người đã có điều kiện kinh tế gia đình khá giả, chuyện đồng lương với họ không thành vấn đề. Cái họ cần, là việc phải có được một chỗ làm "ở đâu đó" - mà tuyệt vời nhất là cơ quan Nhà nước, tiếp đến là các DNNN.
Một suy nghĩ khá phổ biến khác coi học hành là con đường tiến thân duy nhất, mà ở đây là học để ra làm quan cho "cả họ được nhờ", ăn rễ quá sâu trong xã hội ta nói chung. Mà muốn làm quan, thì chỉ có đi làm trong cơ quan Nhà nước.
hậu duệ, quan hệ, tiền tệ, con cháu các cụ, sân bay Tân Sơn Nhất, sự cố mất điện, công chức, cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền, DNNN, biên chế, lương, bổng lộc
Ảnh minh họa
Chúng ta không bài xích việc làm việc trong cơ quan Nhà nước hay tư nhân, hay buộc phải tôn vinh những người làm việc tự do.
Nhưng ngẫm lại, nhiều người trong chúng ta dường như vẫn thích dựa dẫm vào một chỗ nào đó, để vừa tự ru mình, vừa đem lại cái oai oách với người xung quanh. Cũng vì đã quá lâu chúng ta quen dựa dẫm và ỷ lại sự bao bọc từ một ai đó, bé là bố mẹ và lớn là cơ quan, là Nhà nước.
Vì thế nên mới có chuyện đem vài trăm triệu để "chạy" vào một chỗ làm trong DNNN, mà không nhớ ra rằng lâu nay nơi đây không còn là Nhà nước như trước nữa. Nghĩa là không có "biên chế", tất cả tuyển dụng thông qua hợp đồng lao động, hoàn toàn có thể chấm dứt bất cứ lúc nào theo luật lao động.
Thời điểm những năm 2010 này, chúng ta hiểu rằng Nhà nước không thể bao bọc được mãi một lượng công chức lớn như thế, thì chúng ta vẫn cố gắng ỷ lại vào danh tiếng "làm quan" cho nó oai. Điều đó đồng nghĩa với việc, vốn có truyền thống giỏi xoay sở đặc thù của người Việt, chúng ta kiếm tiền bằng những cách "phi lương bổng". Nhưng một bộ máy mà đang phải đối mặt với sức ép giảm biên chế, thì liệu oai với ai được?
Những người "không ở đâu cả"
Vài ngày nay nổi lên câu chuyện đài kiểm soát không lưu Tân Sơn Nhất bị mất điện. Sau phân tích của chuyên gia, người ta đang đặt câu hỏi liệu sự cố không phải do hệ thống lưu điện (UPS) trục trặc, mà chính là do yếu tố con người. Bộ trưởng GTVT đã phát biểu sẽ không có "vùng cấm" trong xử lý nếu có cán bộ vi phạm. Nhưng làm thế nào để ngoài những người vi phạm, còn kiểm tra được năng lực các nhân viên đã và đang làm việc lâu nay, khi mà ngay cả người từng có chức vị ở đó, cũng thừa nhận hiện tượng "con ông cháu cha"?
Còn mới đây, Đại biểu Quốc hội Huỳnh Văn Tính (Tiền Giang) đã chỉ ra tình trạng chạy chức, chạy việc ngày càng lộ diện rõ hơn và có nơi còn như công khai "nhất hậu duệ, nhì quan hệ, ba tiền tệ, bốn trí tuệ". Và đáng buồn, tiêu chí "trí tuệ" được xếp cuối cùng.
Người viết bài này có một số bạn người Mỹ, họ nói: người Mỹ rất coi trọng những người làm việc độc lập: nhà nghiên cứu độc lập, luật sư tự do, người làm việc tự do (freelancer)... Vì những người như thế người ta đủ tài năng để không cần dựa dẫm vào ai. Họ cũng coi trọng chủ doanh nghiệp, vì đó là lực lượng tạo ra công ăn việc làm đem lại sự thịnh vượng cho XH.
Quay trở lại VN, nếu như chúng ta gọi những người đang lao động trong cơ quan Nhà nước, DNNN hoặc kể cả doanh nghiệp tư nhân là "những người đang làm việc ở đâu đó", thì những người làm việc tự do phải chăng cần gọi là những người làm việc "không ở đâu cả"?
Đáng tiếc, với cái nhìn chung của xã hội chúng ta hiện nay, những người "không ở đâu cả" đó hoàn toàn không dễ sống. Cửa ải đầu tiên chính là sức ép của người thân, gia đình, họ hàng... mọi người khó có thể tưởng tượng ra có thể có một người nào đó có thể thành công hay thành đạt được, với cái công việc "không ở đâu cả" đó. Còn rào cản từ tâm lý, cơ chế chung của xã hội thì như người viết đã chỉ ra ở trên.
Nhưng xã hội và cả thế giới vẫn đang vận động và phát triển, muốn hay không thì vẫn có những người thích tự do và những người muốn bám vào "một chỗ nào đó ổn định". Do vậy cũng có quá nhiều lý do mà người ta đang rời bỏ cơ quan Nhà nước, cũng như những lý do để "phải vào bằng được cơ quan Nhà nước" - cả hai dòng lý do đều có sức nặng như nhau. Và chừng nào tư duy dựa dẫm còn tồn tại nó vẫn sẽ là "mảnh đất" tốt cho sự ì trệ, chậm tiến sinh sôi, nảy nở!

Bầu Kiên khẳng định chỉ kinh doanh trạng thái giá vàng

TTO - Bầu Kiên khẳng định không kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài mà chỉ kinh doanh trạng thái giá vàng. 
Bầu Kiên tại tòa sáng 1-12 - Ảnh: T. Lụa chụp màn hình
Sáng 1-12, ngày thứ 2 phiên xét xử phúc thẩm bị cáo Nguyễn Đức Kiên (Nguyên phó chủ tịch HĐQT ngân hàng ACB) và các đồng phạm, hội đồng xét xử tiến hành xét hỏi các bị cáo. Nhóm tội kinh doanh trái phép được tòa thẩm vấn đầu tiên.
Bị cáo Nguyễn Đức Kiên tiếp tục bị cách ly khi tòa xét hỏi người liên quan và các bị cáo khác.
Khẳng định không kinh doanh trái phép
Bản án sơ thẩm xác định từ tháng 5-2007 đến tháng 8-2012, Nguyễn Đức Kiên đã lập 6 công ty do Nguyễn Đức Kiên làm chủ tịch HĐQT/Hội đồng thành viên để kinh doanh tài chính và kinh doanh vàng trạng thái trái phép với tổng số tiền lên tới hơn 21.490 tỉ đồng.
Việc phát hành trái phiếu của các công ty do Nguyễn Đức Kiên chỉ đạo để bán cho một số Ngân hàng có dấu hiệu vi phạm pháp luật, trong đó có sự giúp sức tích cực của một số cá nhân thuộc ngân hàng ACB, ngân hàng Vietbank nên đã quyết định khởi tố vụ án hình sự tại ngân hàng ACB và ngân hàng Vietbank.
Trả lời tòa, bị cáo Nguyễn Đức Kiên tiếp tục bác bỏ các nhận định của bản án sơ thẩm về hành vi kinh doanh trái phép. Bầu Kiên cho biết đã viết đơn kiến nghị dài 118 trang về nội dung vụ án để gửi TAND tối cao.
Theo ông Kiên, 5 công ty của ông được thành lập đúng quy định và đã được cấp phép. 5 công ty này đã góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp khác. Việc góp vốn là quyết định của tập thể HĐQT.
Sau khi ông Kiên bị bắt, HĐQT bán đã bán cổ phần cho các doanh nghiệp khác để trả nợ và các doanh nghiệp này đã mua lại bình thường.
Ông Kiên cho biết các doanh nghiệp được 5 công ty này góp vốn vẫn đang hoạt động bình thường.
"5 công ty thành lập đúng pháp luật. Tòa sơ thẩm cho rằng 5 công ty thành lập để phát hành trái phiếu, đầu tư chéo là sai. Tôi khẳng định không có bất cứ một khoản đầu tư chéo nào. Tất cả các công ty được tôi thành lập ngay từ đầu, không tạo ra sự mâu thuẫn. Các công ty đang hoạt động tốt, có vốn của các cổ đông, tiền mặt do các cổ đông góp vốn vào, không phải công ty “ma”. Đề nghị tuyên tôi không phạm tội kinh doanh trái phép”- lời bị cáo Nguyễn Đức Kiên.
“Chỉ kinh doanh trạng thái giá vàng”
Về hành vi kinh doanh vàng trái phép, bản án sơ thẩm thể hiện Công ty Thiên Nam (do Bầu Kiên thành lập) đã ký thỏa thuận với Ngân hàng Vietbank về việc Công ty Thiên Nam nhận chuyển giao, kế thừa và tiếp tục thực hiện hợp đồng ủy thác đầu tư tài chính giữa Vietbank với Ngân hàng ACB.
Theo thỏa thuận, Công ty Thiên Nam tiếp nhận toàn bộ trạng thái kinh doanh giá vàng ngoài lãnh thổ VN.
Thực hiện thỏa thuận trên đây, HĐQT Công ty Thiên Nam đã ủy quyền cho Nguyễn Đức Kiên đặt các lệnh mua bán vàng ở tài khoản nước ngoài.
Từ 30-3-2010, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu đóng trạng thái giao dịch vàng trên tài khoản nước ngoài.
Sau khi tất toán vàng trên tài khoản nước ngoài, Công ty Thiên Nam bị lỗ hơn 403 tỉ đồng. Ngân hàng ACB phải ứng tiền để thanh toán cho đối tác nước ngoài khoản lỗ kinh doanh trên đây và ghi nợ phải thu của Công ty Thiên Nam.
Về việc Công ty Thiên Nam có được phép kinh doanh vàng hay không, Bầu Kiên lập luận rằng Công ty Thiên Nam được phép kinh doanh hàng hóa, vàng là hàng hóa (Theo nghị định 159) và Công ty Thiên Nam được phép kinh doanh vàng.
Trình bày trước tòa, Bầu Kiên cho rằng thời điểm năm 2009, năm 2010, hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài được điều chỉnh bởi 3 văn bản là Pháp lệnh ngoại hối, Nghị định 174/1999 của Chính phủ và thông tư 1168 của Ngân hàng nhà nước. Ngoài ra có quyết định 03/2006 của Ngân hàng Nhà nước.
Ông Kiên khẳng định Công ty Thiên Nam không kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài mà kinh doanh trạng thái giá vàng. Việc kinh doanh trạng thái giá vàng không được quy định trong các văn bản pháp luật nên không bị điều chỉnh bởi các văn bản trên. 
Cũng theo ông Kiên, từ khi ký hợp đồng ủy thác đầu tư tài chính với ACB, Công ty Thiên Nam chưa thực hiện thanh toán nào, không có vàng, tiền được chuyển giao.
“Chúng tôi đã nỗ lực để việc giao dịch có lãi nhưng vẫn là số âm, chưa tiến tới số 0. Việc kinh doanh với trạng thái âm thì không phù hợp với việc kinh doanh trái phép”- ông Kiên nói.
Ông Kiên khẳng định sau khi ký hợp đồng với ACB, Công ty Thiên Nam ủy quyền cho ông Kiên là người thông báo lệnh, hạn mức giao dịch đến Ngân hàng ACB qua hệ thống điện thoại ghi âm. Lý do vì hệ thống điện thoại ghi âm của ACB không nhận giọng nói của ông Lê Quang Trung, Tổng giám đốc Công ty Thiên Nam.
“Khi công ty Thiên Nam muốn giao dịch mua bán vàng, ông Trung lập phiếu lệnh gửi cho bị cáo, bị cáo đặt lệnh đến ACB qua hệ thống ghi âm. Sau đó các phiếu lệnh này được gửi đến ACB. Nếu không có các phiếu lệnh khớp thì lệnh đặt bằng điện thoại của tôi không thực hiện được” - ông Kiên khai.
Thiếu quy định
Theo bị cáo Lý Xuân Hải (nguyên tổng giám đốc ACB), việc kinh doanh vàng trạng thái giữa công ty Thiên Nam và ACB là sản phẩm tài chính phái sinh của kinh doanh vàng.
Trả lời câu hỏi của tòa “kinh doanh giá vàng và kinh doanh vàng trạng thái có khác không”, bị cáo Hải cho biết nội dung trên chỉ khác nhau tên chứ không khác nhau về bản chất, bản chất là kinh doanh trên biến động của giá vàng.
“Tôi giải thích hơi khiên cưỡng một chút, ở đây không nói về khái niệm hợp pháp hay không hợp pháp. Như lô đề là sản phẩm phái sinh từ xổ số, nhưng không phải là xổ số, không chịu sự quản lý của Nhà nước như xổ số.
Cá độ bóng đá là sản phẩm phái sinh từ bóng đá, nhưng không phải là bóng đá. Nếu kinh doanh giá vàng, khách hàng chỉ quan tâm đến biến động của giá vàng, còn họ không quan tâm giá vàng đó là bao nhiêu”- bị cáo Hải cho biết.
Theo bị cáo Hải, ACB kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài. Khi ACB giao dịch với công ty Thiên Nam. ACB đặt lệnh mua vàng ở nước ngoài theo đặt hàng của Thiên Nam và khi về VN, ACB được hưởng chênh lệch giá.
“Nếu Thiên Nam muốn mua vàng thì ACB mua, Thiên Nam muốn bán thì chúng tôi bán cho Thiên Nam. Rủi ro ở nước ngoài và với Công ty Thiên Nam là chúng tôi chịu”- lời bị cáo Hải.
Trả lời tòa “Công ty Thiên Nam kinh doanh giá vàng có cần được cấp giấy phép không”, bị cáo Hải đáp: “Thời điểm kí hợp đồng, sản phẩm phái sinh chưa quy định nên không đòi hỏi giấy phép gì đặc biệt”.
“Kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài năm 2009, 2010 được điều chỉnh bởi văn bản pháp luật nào của Nhà Nước?”, trả lời câu hỏi này của tòa, ông Đặng Văn Thảo, Đại diện Ngân hàng Nhà nước cho biết: “Việc kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài được điều chỉnh theo quyết định 03/2006 và nghị định 174/1999. Ngoài ra không có quy định nào khác.”
Tòa hỏi đi hỏi lại rất nhiều lần: “Việc ACB và Công ty Thiên Nam có hợp đồng giao dịch trạng thái vàng trên tài khoản nước ngoài, có văn bản nào điều chỉnh”, ông Thảo nói:  “Tôi cho đó là hợp đồng dân sự giữa ACB và Thiên Nam, còn về quản lý nhà nước, như tôi đã nói ở phiên sơ thẩm, chỉ có hai văn bản điều chỉnh như đã nêu trên, ngoài ra không có văn bản nào nào khác”
Tòa: “ACB và Thiên Nam có phải tuân thủ quyết định 03 không”? Ông Thảo cho biết:  “Ngân hàng Nhà nước cấp phép cho các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp kinh doanh vàng theo quyết định 03. Việc kinh doanh trạng thái giá vàng chưa có quy định, không có văn bản nào điều chỉnh”.
Ông Trần Ngọc Thanh vẫn tiếp tục nằm viện
Khi được tòa hỏi về sức khỏe ông Trần Ngọc Thanh (nguyên giám đốc Công ty cổ phần đầu tư ACB Hà Nội), cảnh sát dẫn giải cho biết ông Trần Ngọc Thanh vẫn đang nằm điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai nên không thể đến tòa. Tòa cho biết nếu cần sẽ công bố các lời khai của ông Thanh tại cơ quan điều tra.
Trước đó, tại phiên tòa chiều 28-11, ông Trần Ngọc Thanh bị ngất xỉu, phải đưa đi cấp cứu. 
TÂM LỤA

Ukraine quyết gia nhập NATO

Tổng thống Ukraine Petro Poroshenko nhắc lại nguyện vọng của nước này sẽ gia nhập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), trong khi một số thành viên chủ chốt của liên minh lo ngại điều này có thể gây thêm căng thẳng.
po2-6912-1417406785.jpg
Tổng thống Ukraine Petro Poroshenko. Ảnh: EPA
Trả lời phỏng vấn kênh ARD của Đức hôm qua, ông Poroshenko nói dù Ukraine cần cải cách trước khi trở thành thành viên của NATO nhưng đó là nguyện vọng thực sự của nước này, là một phần của mục tiêu lớn hơn "trở lại gia đình châu Âu".
Tổng thống Ukraine cáo buộc Nga đang bắt đầu một cuộc chiến thực sự khi "đưa quân xâm nhập lãnh thổ Ukraine". Moscow luôn phủ nhận cáo buộc này.
Ông Poroshenko cũng kêu gọi Tổng thống Nga Putin dùng ảnh hưởng để xuống thang căng thẳng ở miền đông. Nếu "lính Nga rời đi, hòa bình sẽ trở lại chỉ trong hai hoặc ba tuần", Tổng thống Ukraine nói.
Trong khi đó, Ngoại trưởng Đức Frank-Walter Steinmeier lên tiếng phản đối ý định gia nhập NATO của Ukraine, lo ngại việc này chỉ "thổi bùng thêm căng thẳng" với Nga trong khi xung đột ở miền đông chưa có lối thoát.
Từ khi cuộc khủng hoảng chính trị của Ukraine bùng phát thành bạo lực từ đầu năm nay, Moscow nhiều lần lên tiếng cảnh báo việc Kiev gia nhập NATO sẽ làm hỏng nỗ lực đối thoại với Nga.
Hơn 100 chiếc xe cứu trợ của Nga hôm qua đến Donetsk, vùng miền đông Ukraine hiện do phe ly khai kiểm soát. Đây là đoàn xe thứ 8 của Nga đến miền đông Ukraine kể từ giữa tháng 8. Ông Poroshenko cáo buộc các đoàn xe này mang theo vũ khí để cung cấp cho lực lượng ly khai. Tuy nhiên, Nga khẳng định đoàn xe cứu trợ của họ chở hàng hóa chủ yếu là vật liệu xây dựng, thực phẩm và đồ dùng hỗ trợ cuộc sống của người dân.
Khánh Lynh

30 tháng 11, 2014

VN kí nhập 20 triệu tấn than/năm: Lời nguyền ứng nghiệm

(Doanh nghiệp) - Nhập khẩu than để bù đắp cho sự mất cân đối lớn giữa năng lực sản xuất với nhu cầu là điều không thể tránh khỏi.

Theo thông tin từ Bộ Công Thương, đến nay, Vinacomin đã ký 10 Biên bản ghi nhớ, 1 Hợp đồng nguyên tắc với một số công ty than của Indonesia, Australia; Công ty Sojitz, Marubeni, Sumitomo của Nhật Bản và 1 Thoả thuận cung cấp than dài hạn với Công ty ASPECT Resources của Australia với tổng khối lượng than đã ký kết khoảng trên 20 triệu tấn/năm.
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) cũng đã ký được 4 Hợp đồng khung về cung cấp than với các đối tác Ensham Coal Sales và Peabody của Australia, Tuah Turangga Agung của Inđônêxia, Sojitz Corporation của Nhật Bản và 1 Biên bản ghi nhớ với Noble Group của Indonesia với tổng khối lượng than đã ký khoảng 10 triệu tấn/năm, đáp ứng đủ nhu cầu than cho các nhà máy nhiệt điện của PVN.
Dự báo nhu cầu nhập khẩu than của Việt Nam năm 2030 khoảng 135 triệu tấn.
Dự báo nhu cầu nhập khẩu than của Việt Nam năm 2030 khoảng 135 triệu tấn.
Theo Quy hoạch điện VII (Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030), nguồn nhiệt điện than chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn điện của Việt Nam, vì vậy trong thời gian tới, nhu cầu than cho phát điện ngày càng cao trong khi đó sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu.
Như vậy, nhập khẩu than để bù đắp cho sự mất cân đối lớn giữa năng lực sản xuất với nhu cầu là điều không thể tránh khỏi.
Bộ Công Thương dự báo từ năm 2016, Việt Nam sẽ phải nhập khẩu than phục vụ các hộ tiêu thụ trong nước, đặc biệt là cho sản xuất điện với khối lượng dự kiến như sau: năm 2016 khoảng 3-4 triệu tấn; năm 2020 khoảng 35 triệu tấn; năm 2025 khoảng 80 triệu tấn, năm 2030 khoảng 135 triệu tấn.
Tuy nhiên, việc nhập khẩu than dài hạn với khối lượng lớn là vô cùng khó khăn. Theo nhiều chuyên gia, nguồn nhập khẩu than là chưa đảm bảo.
Hiện có 4 nguồn mà Việt Nam có thể nhập khẩu than gồm: Indonesia, Australia, Nga, Nam Phi. Hai đối tác Australia và Indonesia có tính khả thi cao hơn, đây cũng là hai nhà cung cấp than chủ chốt cho các nền kinh tế lớn ở châu Á.
Trước đó, 41.500 tấn than vừa cập cảng Hòn Nét (Quảng Ninh). Đây là mẻ than đầu tiên Vinacomin nhập khẩu thí điểm từ Liên bang Nga và sẽ là bước đệm cho kế hoạch nhập than phục vụ nhu cầu trong nước thời gian tới.
Đáng nói, mặc dù nhu cầu than vẫn đang gia tăng, dự kiến đến năm 2020, sẽ phải nhập khẩu cả triệu tấn, nhưng song hành với việc nhập khẩu, ngành than vẫn đang làm một điều nghịch lý: Xuất khẩu than với số lượng không hề nhỏ.
Ồ ạt xuất khẩu
Việt Nam được coi là "mỏ vàng đen” của châu Á và Đông Nam Á, với trữ lượng hiện nay còn khoảng tương đương 3,5 tỷ tấn. Dù có thế mạnh về tài nguyên than, nhưng nhiều thập kỷ qua, Việt Nam chỉ chú trọng khai thác để xuất khẩu. Có thời điểm (giai đoạn 2006-2011) Việt Nam xuất khẩu tới 21 triệu tấn than.
Nguy cơ thiếu than cho nhu cầu trong nước đã từng được giới chuyên gia cảnh báo. Và trên thực tế, Chính phủ cũng đã nêu vấn đề, nhu cầu than trong nước đang ngày càng tăng cao: Năm 2015 là 56,2 triệu tấn, năm 2020 là 112,3 triệu tấn, năm 2025 là 145,5 triệu tấn, và cho đến năm 2030, Việt Nam sẽ phải tiêu thụ tới 220,3 triệu tấn.
Như vậy, so với mức tiêu thụ năm 2013 (28 triệu tấn) đến năm 2015 (chỉ sau 2 năm) nhu cầu than trong nước sẽ tăng gấp hơn 2 lần, đến năm 2020 tăng gấp 4 lần và đến năm 2030 tăng gấp 8 lần.
Trong khi đó, sản lượng than hiện tại mới chỉ đạt 40 triệu tấn và trong tương lai cũng khó có thể tăng sản lượng lên. Thế nhưng lãnh đạo tập đoàn TKV, ông Nguyễn Văn Biên, vẫn cho biết "trong kế hoạch sản xuất và kinh doanh của ngành, vẫn sẽ xuất khẩu khoảng 2 triệu tấn than/ năm".
Năm 2011, VN cũng là nước nằm trong top 5 nước xuất khẩu than đá lớn nhất thế giới.
Lời nguyền ứng nghiệm
Chính sách đào tài nguyên bán giá rẻ vì sao nó tồn tại được lâu nay khi mà theo nhiều dự báo, Việt Nam đã đứng trước "lời nguyền khoáng sản".
Cho rằng, nỗ lực tận khai, ra sức "đào" và "chặt" khiến nhiều tài nguyên bị cạn kiện. PGS-TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho biết, đến nay Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi phương thức tồn tại dựa chủ yếu vào khai thác tự nhiên. Đây là giai đoạn zero trong các giai đoạn tiến lên công nghiệp hóa.
“Trong hơn 20 năm qua, các thành phần kinh tế, mọi ngành, mọi nhà đều ra sức “đào” và “chặt”, ra sức xuất khẩu tài nguyên, bán cho nước ngoài tất cả nguồn tài nguyên thiên nhiên quốc gia có thể. Và trong thời gian qua, nỗ lực tận khai đó vẫn còn duy trì sự đóng góp mạnh mẽ vào thành tích tăng trưởng kinh tế. Đến bây giờ năng lực đó hầu như đã đạt mức tối đa, nhiều loại tài nguyên gần như cạn kiệt, môi trường đã bị suy thoái nghiêm trọng” - ông Thiên chua chát nói.
Sở dĩ có tình trạng này là một phần công nghệ của chúng ta lạc hậu, mặt khác do bị áp lực bởi các chỉ tiêu về ngân sách nên một số tỉnh, thành cho phép xuất khoáng sản thô. Ông Thiên cho rằng, đó chính là nguyên nhân dẫn tới tình trạng hỗn loạn trong hoạt động khai thác và xuất khẩu tài nguyên thô mà nhà nước không thể kiểm soát được.
Đặc biệt với những ngành khai thác khoáng sản như than, bauxite, titan… đều xuất khẩu với mức giá rất thấp, chưa kể lại xin đủ thứ ưu đãi về thuế, phí.
Trong khi đó, tình trạng xuất lậu khoáng sản vẫn chưa được kiểm soát, đó chính là cửa kiếm "ăn" của những kẻ cơ hội, trục lợi. TS Lê Đăng Doanh, cho hay theo báo cáo của Trung Quốc thì xuất khẩu của ta sang nước láng giềng này nhiều hơn con số thống kê chính thức những gần 4 tỉ USD, một con số không phải nhỏ. Đây chính là số hàng hóa xuất lậu qua nước ngoài, trong đó có tài nguyên khoáng sản.
Theo TS Nguyễn Thành Sơn, Giám đốc Ban quản lý dự án than đồng bằng sông Hồng, trong 6 tháng đầu năm 2013 có hơn 2 triệu tấn than bị xuất lậu sang TQ, số liệu này Vinacomin cũng nắm được.
Theo ông Sơn, giá thành khai thác than hiện nay là khoảng 1,2 triệu đồng/tấn, còn giá bán than trong nước hiện nay bình quân là gần 1,3 triệu đồng/tấn, còn xuất khẩu thì phải cao hơn, chưa kể số tiền thuế xuất khẩu hiện nay là 13%, từ đấy tính ra số tiền thất thoát là rất lớn, nhà nước không thu được một đồng nào.
Thái An