Trang

29 tháng 7, 2014

Núi tiền khổng lồ của chúa đảo Tuần Châu

Chúa đảo Tuần Châu - Đào Hồng Tuyển hiện đang sở hữu 14 công ty, 34 nhà máy, hàng loạt các dự án bất động sản khổng lồ bao gồm các hạng mục.

Sở hữu 14 công ty, 34 nhà máy, tổng tài sản 2 tỷ USD?
Tự thân lập nghiệp và sau nhiều năm trên thương trường, hiện tại ngoài sở hữu đảo du lịch quốc tế Tuần Châu (TP Hạ Long, Quảng Ninh), ông Đào Hồng Tuyển còn sở hữu 14 công ty, 34 nhà máy xí nghiệp với cả vạn công nhân.
Tuần-Châu, chúa-đảo, tỷ-phú. núi-tiền, khổng-lồ
Chúa đảo Tuần Châu - Đào Hồng Tuyển còn sở hữu 14 công ty, 34 nhà máy xí nghiệp với cả vạn công nhân.
Xác nhận về tài sản của mình, chúa đảo Tuần Châu từng không ngần ngại nói rằng tổng tài sản của ông lên tới 2 tỷ USD. Tuy sau đó ông phủ nhận con số này nhưng nhìn vào khối tài sản ông đang sở hữu hoặc đồng sở hữu thì có lẽ con số đó không phải là không có thật.
Casino Vân Đồn của chúa đảo Tuần Châu
Dự án casino Vân Đồn được xây dựng trên diện tích 2.000 ha tại xã Vạn Yên, huyện Vân Đồn, Quảng Ninh với tổng mức đầu tư 7 tỷ USD.
Tuần-Châu, chúa-đảo, tỷ-phú. núi-tiền, khổng-lồ
Dự án casino Vân Đồn được xây dựng trên diện tích 2.000 ha tại xã Vạn Yên, huyện Vân Đồn, Quảng Ninh với tổng mức đầu tư 7 tỷ USD.
Dự án bao gồm hạng mục vui chơi giải trí có thưởng (casino), trung tâm thương mại, tổ chức hội nghị quốc tế và khách sạn 5 sao với tổng vốn đầu tư 4 tỷ USD. Ngoài ra khu du lịch còn bao gồm bến du thuyền, khu dân cư, y tế và các dự án hạ tầng kết nối với sân bay, cảng biển...
Marina City Hạ Long
Trước dự án casino Vân Đồn, Tập đoàn Tuần Châu và Tập đoàn SJC còn là đối tác trong dự án Marina City Hạ Long.
Theo đó, dự án được xây dựng tại vị trí trung tâm bến du thuyền mới và toàn bộ khu vui chơi giải trí với tổng diện tích 70 ha đất trên đảo Tuần Châu hiện đang được Tập đoàn Tuần Châu quản lý. Dự án có tổng mức đầu tư 7,5 tỷ USD và sự hợp tác tài chính của ngân hàng Citibank.
Khu du lịch quốc tế Tuần Châu
Dự án này bao gồm các hạng mục: Khu vui chơi giải trí ngoài trời, Cung trình diễn nhạc nước, Câu lạc bộ biểu diễn cá sấu, Câu lạc bộ biểu diễn cá heo, hải cẩu, sư tử biển và Nhà ma, Sân tập golf Tuần Châu và nhiều hạng mục công trình khác.
Tuần-Châu, chúa-đảo, tỷ-phú. núi-tiền, khổng-lồ
Khu du lịch quốc tế Tuần Châu
Tuần Châu Resort
Dự án nổi bật với khu nghỉ dưỡng Holiday Villa có vị trí liền kề bờ biển với 534 phòng nghỉ đạt tiêu chuẩn 4 sao quốc tế và khu ẩm thực Tuần Châu mang kiến trúc phương Đông truyền thống.
Tuần-Châu, chúa-đảo, tỷ-phú. núi-tiền, khổng-lồ
Tuần Châu Resort
Khu biệt thự cao cấp Lam Ngọc
Khu biệt thự nằm ở phía Tây Nam đảo Tuần Châu, được xây dựng với mật độ 30%, bao gồm 40 căn biệt thự cao cấp, đạt tiêu chuẩn 5 sao trở lên.
Khách sạn Morning Star
Tọa lạc tại vị trí phía Đông Nam của đảo Tuần Châu, khách sạn Morning Star có tổng số 106 phòng nghỉ, tiện nghi sang trọng đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Tuần-Châu, chúa-đảo, tỷ-phú. núi-tiền, khổng-lồ
Đây là nhà hàng duy nhất tại Tuần Châu được thiết kế quay tròn với chu kỳ 45 phút/1 vòng quay.

Điểm độc đáo của khách sạn là có nhà hàng quay Panorama tại tầng 8. Đây là nhà hàng duy nhất tại Tuần Châu được thiết kế quay tròn với chu kỳ 45 phút/1 vòng quay. Du khách có thể vừa ăn uống, vừa chiêm ngưỡng cảnh đẹp của vịnh Hạ Long ở nhiều vị trí khác nhau.
Cảng Tuần Châu
Cảng có quy mô 150.000 m2 với những hạng mục chính như: nhà ga, nhà hàng, quán Bar, trung tâm siêu thị, khu biệt thự cao cấp 2 bên bờ cảng... Đặc biệt hệ thống nhà ga hiện đại với đầy đủ dịch vụ phòng chờ máy lạnh có internet, phòng điều hành khai báo cấp lệnh rời cảng, phòng hỗ trợ du khách thông tin vịnh và bán vé tham quan...
Tuần-Châu, chúa-đảo, tỷ-phú. núi-tiền, khổng-lồ
Cảng có quy mô 150.000 m2 với những hạng mục chính như: nhà ga, nhà hàng, quán Bar, trung tâm siêu thị, khu biệt thự cao cấp 2 bên bờ cảng...
Tuyến phà Tuần Châu - Cát Bà
Được đưa vào hoạt động từ năm 2009, đây là tuyến phà quan trọng và nhanh nhất nối liền 2 TP biển Hạ Long và Hải Phòng. Mỗi ngày phà Tuần Châu - Cát Bà có từ 5-7 chuyến, hoạt động với tốc độ khoảng 45 phút/chuyến (khoảng 7-8 hải lý/giờ).
Du thuyền triệu đô Paradise Cruises
Paradise Cruises là du thuyền cao cấp trên vịnh Hạ Long bao gồm 5 du thuyền. Ước tính mỗi du thuyền có trị giá là 1,5 triệu USD trong đó có 3 du thuyền lớn 17 cabin, 2 du thuyền nhỏ dành cho gia đình hoặc các nhóm bạn với 3 cabin. Mỗi cabin tương ứng với phòng rộng từ 16,2 đến 24 m2.
Tuần-Châu, chúa-đảo, tỷ-phú. núi-tiền, khổng-lồ
Paradise Cruises là du thuyền cao cấp trên vịnh Hạ Long bao gồm 5 du thuyền. Ước tính mỗi du thuyền có trị giá là 1,5 triệu USD.
Cabin được trang trí bằng những chất liệu tự nhiên tốt nhất như gỗ quý, silk, taffeta, đá cẩm thạch, đồ sứ, pha lê.
Siêu xe Rolls Royce 1 triệu USD
Tuần-Châu, chúa-đảo, tỷ-phú. núi-tiền, khổng-lồ
Siêu xe Rolls Royce Phantom được “chúa đảo” Đào Hồng Tuyển đích thân điều khiển hàng ngày để đi thị sát các công việc trong đảo cũng có giá khoảng 1 triệu USD

Bên cạnh hệ thống du thuyền sang trọng là siêu xe Rolls Royce Phantom được “chúa đảo” Đào Hồng Tuyển đích thân điều khiển hàng ngày để đi thị sát các công việc trong đảo. Ước tính chiếc xe sang trọng này cũng có giá khoảng 1 triệu USD (hơn 20 tỷ đồng).
(Theo GĐVN)

Hủy án tử hình đối với tử tù Hàn Đức Long

BTTD: Lại trò nhục hình, bức cung. Sao độc ác thế!

(GDVN) - Một vụ án giết người, hiếp dâm xảy ra cùng thời với vụ ông Chấn. Từng nhiều lần bị kết án tử nhưng nay TANDTC đã kiến nghị hủy án tử hình đối với Hàn Đức Long.
TAND Tối cao vừa có bản kiến nghị xử Giám đốc thẩm, hủy án tử hình đối với Hàn Đức Long, can phạm bị kết tội giết người, hiếp dâm trẻ em. Cùng với việc hủy 2 bản án sơ thẩm và phúc thẩm, TAND Tối cao cũng đề nghị giao cho VKS Nhân dân Tối cao điều tra lại theo thủ tục.
Ông Hàn Đức Long bị triệu tập và tạm giữ luôn chỉ dựa vào đơn tố cáo một chiều và không có nhân chứng?
Trước đó, báo Giáo dục Việt Nam đã có nhiều bài viết về vụ án này. Vụ của Hàn Đức Long xảy ra vào cùng thời với vụ của ông Nguyễn Thanh Chấn, người bị ngồi tù oan gần 10 năm trời tại Bắc Giang. Trong đội điều tra vụ án Hàn Đức Long, có nhiều cán bộ trước đó đã từng điều tra vụ ông Nguyễn Thanh Chấn.
Đặc biệt, những lời khai và nhiều tình tiết xuất hiện trong nhà giam của Hàn Đức Long có nhiều điểm rất giống với vụ ông Chấn. Và trong quá trình bị bắt, bị đưa ra xét xử, Hàn Đức Long luôn kêu oan.
Qua phân tích hồ sơ vụ việc cho thấy, quy trình tố tụng của các cơ quan tố tụng tỉnh Bắc Giang rất không chặt chẽ, có nhiều dấu hiệu làm oan sai cho Hàn Đức Long. 
Diễn biến vụ việc
Vụ án của Hàn Đức Long (SN 1959, trú tại xã Phúc Sơn, Tân Yên, Bắc Giang) bắt nguồn từ việc cháu Nguyễn Thị Y (SN 2000) bị chết dưới mương nước thuộc cánh đồng thôn Yên Lý, xã Phúc Sơn vào chiều tối ngày 26/6/2005. Cơ quan điều tra (CQĐT) vào cuộc và xác định nạn nhân đã bị hiếp dâm và chết do ngạt nước.
Sau gần 4 tháng điều tra mà không tìm ra hung thủ, CQĐT công an tỉnh Bắc Giang đã “phát động nhân dân tố cáo tội phạm”. Đến tháng 10/2005 thì xuất hiện đơn tố cáo của hai mẹ con bà K. (SN 1930) về việc từng bị Long hiếp dâm. Trong thời gian này, gia đình ông Long có mâu thuẫn với bà K. vì tranh chấp đất đai.
Bị công an triệu tập đến làm việc, Long đã nhận hiếp dâm hai mẹ con bà K. nên đã bị công tỉnh Bắc Giang khởi tố, bắt tạm giam về tội “Hiếp dâm”.
Trong quá trình bị tạm giam, Long đã bất ngờ có “đơn tự thú” về hành vi hiếp dâm và giết cháu Y. Theo lời tự thú thì chiều 26/6/2005, Long chở thóc đến nhà anh Nam để xay xát. Khi Long đến, do có nhiều khách nên trong lúc chờ đến lượt, Long đi bộ sang quán bán hàng của vợ chồng nhà anh S, chị L ở gần đó, bắt cháu Y (con gái anh chị S, L.) đưa ra đồng hãm hiếp rồi thủ tiêu. Lúc sự việc xảy ra, vợ chồng anh S., chị L. đang nhổ lạc ngoài đồng.
Sự việc được Long miêu tả một cách tỉ mỉ trong bản tự thú: Khi đến quán nhà anh S, chị L. thì trời đã nhá nhem tối. Long thấy cháu Y. (con gái anh S, chị L) đang ngồi một mình ở bụi tre trước sân quán, Long hỏi cháu Y: ‘Bố mày đâu?”. Cháu Y. trả lời: “Bố cháu đi nhổ lạc”. Long hỏi: “Mày biết bán hàng không?”. Cháu Y. trả lời: “Không”. Long lại hỏi: “Mày biết bác không?”, cháu Y. lắc đầu. Theo nội dung trong bản khai nhận của Long, lúc này quan sát xung quanh vắng người, trời đã nhá nhem tối nên Long nảy sinh ý định bắt cháu Y. đưa ra cánh đồng rồi thủ tiêu luôn vì cháu Y. còn bé sẽ không ai biết việc làm của Long.
Đầu năm 2007, TAND tỉnh Bắc Giang đã xử phạt Long án “tử hình” về tội "Hiếp dâm trẻ em" và tù chung thân về tội  "Giết người"; đồng thời tuyên bố Long không phạm tội "Hiếp dâm" (đối với hai mẹ con bà K).
Sau đó, Hội đồng Thẩm phán TAND xử Giám đốc thẩm đã quyết định hủy 2 bản án sơ thẩm, phúc thẩm để điều tra lại từ đầu.
Đến năm 2011, TAND tỉnh Bắc Giang xử sơ thẩm lần hai và TAND Tối cao xử phúc thẩm lần hai vẫn giữ nguyên phán quyết tử hình đối với Hàn Đức Long. Tại các phiên xử, bị cáo Hàn Đức Long một mực kêu oan và cho biết đã bị ép cung, dùng nhục hình.
Tin chồng không phạm tội, bà Nguyễn Thị Mai (vợ ông Hàn Đức Long) gửi đơn đến các cơ quan chức năng kêu oan.
Sau khi tiếp nhận đơn kêu cứu về vụ án, ngày 9/5/2014, ông Nguyễn Sơn - Phó Chánh án TAND Tối cao đã ký bản văn bản số 29/2014/KN-HS về việc kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm số 706/2011/HSPT ngày 29/11/2011 của Toà phúc thẩm TAND Tối cao tại Hà Nội.
Phó Chánh án Tòa Tối cao cho rằng, vụ án này có tính chất nghiêm trọng, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã thu thập chứng cứ và tiến hành điều tra nhiều tháng nhưng vẫn không phát hiện được tội phạm. Về tội “hiếp dâm” của Hàn Đức Long, bản kháng nghị đã nhận định rằng, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ duy nhất vào lời khai nhận tội ban đầu của Hàn Đức Long trước cơ quan điều tra và các tài liệu do công an cung cấp.
Tuy nhiên, chứng chứ thu thập của cơ quan điều tra còn nhiều mâu thuẫn với lời khai nhận của bị cáo. Trong hồ sơ vụ án thể hiện nhiều cứng cứ quan trọng của vụ án Tòa án các cấp chưa phân tích đánh giá một cách khách quan toàn diện nhưng đã kết án Hàn Đức Long về các tội “Giết người” và “Hiếp dâm trẻ em” là chưa có cơ sở và căn cứ vững chắc.

Đâu là sự thật trong lời thú nhận bắn hạ MH17?

BTTD: Có rất nhiều thông tin sai lệch nhằm tung hỏa mù để dư luận không xác định được thủ phạm đã phá hủy MH17. Có 3 đối tượng đáng nghi là thủ phạm : Nga, phe ly khai thân Nga và Ukraina. Xét các yếu tố liên quan và tình hình thực tế trong khu vực, tôi nhận định phe ly khai thân Nga là thủ phạm. Tuy nhiên khu vực MH17 bị phá hủy đang trong tình trạng chiến tranh, các dấu vết của thủ phạm đã bị xóa, tình hình địa chính trị phức tạp...rất khó để bắt được thủ phạm quy án.
(Tin tức 24h) - Dù phi công Ukraine điều khiến chiếc Su-25 thừa nhận đã bắn hạ MH17, nhưng đâu là sự thật khi chính chuyên gia Nga khẳng định Su-25 khó làm được điều đó.
Theo thông tin được tờ Russia Times dẫn nguồn tin từ Wahrheit fuer Deutschland của Đức cho biết, viên phi công lái chiếc Su-25 của Ukraine đã thừa nhận chính mình đã bắn hạ chiếc máy bay MH17 trên bầu trời miền Đông Ukraine.
Viên phi công thú nhận rằng chính anh này đã nhấn nút bắn súng tự động trên máy bay. Chiếc máy bay này đã xuất hiện trong các bức ảnh được vệ tinh chụp lại và được công bố trong một cuộc họp của Bộ tổng tham mưu Nga. Bài báo gọi đây là “một thành công nhỏ của những người ủng hộ Putin”.
Chiến đấu cơ Su-25
Chiến đấu cơ Su-25
Trước đó, các chuyên gia Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) đã kiểm tra mảnh vỡ chiếc Boeing 777 gặp nạn và những phát hiện đầu tiên của họ cũng tương đồng với lời thú nhận trên.
Đánh giá sức công phá trên vỏ máy bay có thể xác định được loại vũ khí dùng để tấn công nó.
“Có lẽ ngay cả một người bình thường cũng có thể nói rằng những lỗ thủng này do pháo tự động gây ra và hơn nữa, sự công phá trên kim loại này không thấy ở những chỗ khác” – đại diện của OSCE tại Ukraine Michael Bochurkiv nói.
Theo một số nguồn tin, ngoài nghi vấn chiếc MH17 bị bắn hạ bởi pháo tự động thì tên lửa không đối không R-60 trang bị trên Su-25 của Ukraine và hệ thống phòng không Buk cũng bị tình nghi là thủ phạm.
Tuy nhiên đâu là sự thật trong lời thú nhận của viên phi công Ukraine khi chính cha đẻ của Su-25 Vladimir Babak khẳng định, khả năng máy bay Su-25 của Ukraine bắn hạ MH17 là rất thấp. Để chứng minh cho tuyên bố trên, ông Vladimir Babak đã đưa ra hàng loạt đặc tính kỹ chiến thuật của chiếc Su-25.
"Đặc điểm kỹ thuật của máy bay Su-25 cho phép nó có thể đạt trần bay tới 11-12km. Việc đặt giới hạn trần bay của dòng máy bay này ở ngưỡng 7km chỉ để tối ưu khả năng chiến đấu của máy bay. Trong quá trình bay huấn luyện Su-25, phi công Nga thường bay lên độ cao lớn để tiết kiệm nhiên liệu", ông V. Babak tuyên bố.
Đánh giá về đạn tên lửa R-60, loại tên lửa đang bị tình nghi có khả năng gây ra vụ tại nạn của chiếc MH17, ông V. Babak cho biết, đây là dòng tên lửa sử dụng đầu dò hồng ngoại chỉ có thể bắn trúng chiếc Boeing-777 khi được phóng từ bán cầu phía sau máy bay của Malaysia. Kể cả trường hợp máy bay Malaysia trúng tên lửa, R-60 chỉ có thể vô hiệu hóa động cơ của máy bay và rất khó có thể hạ được máy bay cỡ lớn như chiếc MH17.
"Boeing-777 như là một con chim lớn và nó không thể bị hạ bởi "một vết cắn nhỏ" như R-60", ông V. Babak so sánh.
"Tuy nhiên, vấn đề khó nhất lại nằm ở việc để phóng được R-60, máy bay cần đạt độ cao tương ứng với mục tiêu", ông V. Babak nhấn mạnh. Theo lời chuyên gia Nga, kịch bản máy bay Su-25 của Ukraine bám sát phía sau chiếc MH 17 ở độ cao tương đương là không thể. Điều này có thể lý giải bằng việc khi bay ở độ cao trên 10km, tốc độ khác biệt giữa máy bay Su-25 và chiếc MH 17 vào khoảng 100-150km/h không đủ để thực hiện vụ phóng R-60.
"Với nhiều lý do kỹ thuật như trên, việc Su-25 của Ukraine có thể tấn công chiếc MH17 từ phía sau là không hợp lý. Đặc biệt khi phi công Ukraine được đào tạo kém và không có nhiều kinh nghiệm bay ở độ cao lớn. Họ có thể điều khiển Su-25 nhanh chóng lấy độ cao tương tự như chiếc MH17, nhưng phải thoát ly ngay nên không có đủ thời gian để phóng tên lửa R-60", ông V. Babak cho biết thêm.
"Căn cứ vào mảnh vỡ của chiếc MH17 rơi tại hiện trường khó có thể kết luận đây là kết quả của một vụ tấn công do máy bay Su-25 gây ra hay không", ông V. Babak nói.
Từ những gì còn lại tại hiện trường, có thể khẳng định khả năng lớn nhất chiếc MH17 của Malaysia gặp nạn do trúng tên lửa phòng không Buk. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa rõ bên nào là thủ phạm thực hiện vụ bắn hạ này.
Ngọc Hòa

Nợ như “chúa chổm” trên mỏ vàng số 1 Việt Nam

(Dân trí) – Mặc dù Bộ Tài chính đã miễn truy thu thuế hàng trăm tỉ đồng nhưng Tập đoàn Besra Việt Nam vẫn nợ “ngập đầu”. Điều đáng nói là Tập đoàn Besra Việt Nam đã xuất khẩu hàng tấn vàng...

 >>  Đóng cửa mỏ vàng lớn nhất Việt Nam
 >>  Hàng trăm người bao vây công ty vàng đòi nợ
 >>  Vỡ nợ dây chuyền ở “thánh địa” vàng: Khi Chủ tịch thị trấn thành con nợ!

Sau nhiều tháng gởi đơn kiến nghị đến các cơ quan chức năng và Bộ Tài chính, tháng 4/2014, Tập đoàn Besra Việt Nam đã “vui mừng” nhận được 2quyết định số 754/QD-BTC và 755/QD-BTC về việc hủy quyết định truy thu thuế áp dụng với hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu của các công ty mà Besra điều hành tại Việt Nam.

 

Nhà máy vàng Đắk Sa tại huyện Phước Sơn, Quảng Nam
Nhà máy vàng Đắk Sa tại huyện Phước Sơn, Quảng Nam

Theo đó, số tiền mà Bộ Tài chính quyết định không truy thu thuế xuất khẩu vàng với tổng trị giá 12 triệu USD đối với Công ty TNHH vàng Phước Sơn và Công ty TNHH khai thác vàng Bồng Miêu thuộc Tập đoàn Besra Việt Nam.

Sau quyết định này, Besra Việt Nam phát đi thông cáo dẫn lời ông John Seton - Giám đốc điều hành của Besra - cho biết: “Chúng tôi rất biết ơn Bộ Tài chính đã hỗ trợ cho chúng tôi trong suốt thời gian vừa qua. Chúng tôi thực sự rất vui mừng bởi việc hủy quyết định truy thu thuế này chứng tỏ hoạt động xuất khẩu vàng của Besra luôn tuân thủ mọi quy định của pháp luật Việt Nam và chúng tôi đã cố gắng để chứng minh điều này với các cơ quan nhà nước.”

Theo thông cáo này, Besra Việt Nam cho rằng: “Việc ấn định truy thu thuế đã khiến công ty chúng tôi gặp nhiều khó khăn trong suốt hơn 1 năm qua đồng thời đẩy công ty vào hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt. Hoạt động nhập khẩu vật tư, trang thiết bị cũng như xuất khẩu vàng đã bị ngưng trệ trong một thời gian. Ngoài ra, việc ấn định truy thu thuế 12 triệu đô la Mỹ cũng đã đẩy các nhà đầu tư rời xa Besra đồng thời giới hạn điều kiện vay vốn của chúng tôi đối với các cơ sở tín dụng. Với việc hủy quyết định truy thu thuế này, giờ đây Besra có thể gây dựng lại hoạt động sản xuất tại Việt Nam.”

Sau khi được “ưu ái” hủy nộp hàng trăm tỉ đồng tiền thuế, những tưởng Besra Việt Nam sẽ khôi phục sản xuất kinh doanh và đóng các khoản thuế, phí khác phải nộp cho chính quyền địa phương nhưng ngược lại, đơn vị lại “chây ì” khiến Chi cục thuế tỉnh Quảng Nam quyết định phong tỏa tài khoản, không mua bán hóa đơn đối với Besra Việt Nam từ tháng 7 vừa qua.
Theo thông báo của Besra Việt Nam, nhà máy vàng Đắk Sa đã đóng cửa từ ngày 23/7
Theo thông báo của Besra Việt Nam, nhà máy vàng Đắk Sa đã đóng cửa từ ngày 23/7

Sau khi bị phong tỏa tài khoản, ngày 23/7, Besra Việt Nam phát đi thông cáo đóng cửa hai nhà máy vàng là Bồng Miêu và Phước Sơn. “Dưới sức ép của các biện pháp cưỡng chế thuế bao gồm việc phong tỏa tài khoản ngân hàng và vô hiệu hóa hóa đơn do Cục thuế Quảng Nam áp dụng đối với hai Công ty vàng Phước Sơn và vàng Bồng Miêu từ tháng 4/2014 đến nay, Besra Việt Nam không còn sự  lựa chọn nào khác buộc phải tạm ngừng hoạt động sản xuất tại mỏ vàng Bồng Miêu vào ngày 18/7/2014 và tại mỏ vàng Phước Sơn vào ngày 22/7/2014 cho đến khi các biện pháp cưỡng chế thuế được gỡ bỏ”, thông báo phát đi từ Tập đoàn Besra cho biết.
Trước đó, cuối năm 2013, hàng trăm người dân ở thị trấn Khâm Đức (huyện Phước Sơn, Quảng Nam) đã bao vây nhà máy tuyển quặng vàng Đắk Sa của Công ty vàng Phước Sơn để đòi nợ. Thậm chí, ông Chủ tịch thị trấn Khâm Đức – ông Đỗ Ngọc Thắng cũng đã có ý định từ chức để đi đòi nợ.
Lò nấu vàng thành phẩm tại nhà máy. Trong ảnh: Công nhân đang làm vệ sinh thỏi vàng dore’
Lò nấu vàng thành phẩm tại nhà máy. Trong ảnh: Công nhân đang làm vệ sinh thỏi vàng dore’

Về việc Besra nợ thuế, trao đổi với PV Dân trí, đại diện Besra cho biết, sở dĩ đơn vị nợ thuế là do từ năm 2013 đến nay, chi phí lương, vật tư, nhiên liệu… đều tăng lên trong khi đó giá vàng trên thế giới từ trên 1.800/ounce rớt xuống còn trên 1.000 ounce dẫn đến công ty khó khăn.
Trao đổi với PV Dân trí về việc nợ thuế của Besra, ông Ngô Bốn – Cục trưởng Cục thuế Quảng Nam cho biết, tính đến nay, Besra Việt Nam đã nợ lũy kế gần 300 tỉ đồng, trong đó Công ty vàng Phước Sơn nợ 231 tỷ đồng và Công ty vàng Bồng Miêu nợ 63 tỷ đồng. 
Theo Cục thế Quảng Nam, Besra Việt Nam nợ thuế từ năm 2012. Mặc dù số thuế phát sinh hàng năm lớn nhưng Besra chỉ nộp rất ít dẫn đến nợ lũy kế cao. Sau nhiều lần làm việc giữa Cục thuế Quảng Nam và Besra Việt Nam nhưng số thuế mà đơn vị này nộp không bao nhiêu, hơn nữa do quá thời hạn nên Cục thuế Quảng Nam đành phải áp dụng các biện pháp phong tỏa theo quy định của Luật thuế.
Với việc Besra nợ thuế, theo Cục thuế Quảng Nam cho biết hai huyện Phú Ninh và Phước Sơn (nơi hai nhà máy vàng Bồng Miêu và Đắk Sa đặt nhà máy) đã vỡ kế hoạch thu chi hàng năm trên địa bàn cũng vì bị Besra nợ thuế.
“Chúng tôi muốn hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhưng họ nợ thuế nhiều quá nên chúng tôi phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật", ông Ngô Bốn cho biết.
Được biết, hiện ngành thuế Quảng Nam đang kiến nghị gởi tỉnh và các Bộ, ngành Trung ương xem xét, khoanh nợ số thuế cũ của Besra Việt Nam và chỉ thu thuế mới phát sinh nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động trở lại và có điều kiện trả nợ thuế.
Công Bính

Thư ngỏ của 61 đảng viên lão thành gửi BCH TƯ ĐCS VN

                                                     Tướng Nguyễn Trong Vĩnh


THƯ NGỎ

Ngày 28 tháng 07 năm 2014
Kính gửi: Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ nhiều năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần ba nươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc. Đường lối sai cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh.

Trong khi đó, giới lãnh đạo Trung Quốc từ lâu đã theo đuổi mưu đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc, phục vụ lợi ích của Trung Quốc. Sau Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay,Việt Nam đã có nhiều nhân nhượng trong quan hệ với Trung Quốc, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới. Gần đây, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, Trung Quốc có nhiều hành vi leo thang mới trong mưu đồ xâm lược và bá chiếm Biển Đông, coi Việt Nam là mắt xích yếu nhất cần khuất phục trước tiên. Thực tế bóc trần cái gọi là “cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa” chỉ là sự ngộ nhận và “4 tốt, 16 chữ” chỉ là để che đậy dã tâm bành trướng. Cho đến nay, thế lực bành trướng Trung Quốc đã đi được những bước quan trọng trong mưu đồ biến Việt Nam thành “chư hầu kiểu mới” của họ.
Thực trạng đau lòng này phơi bày sự yếu kém cả về trách nhiệm và năng lực của lãnh đạo đảng và nhà nước trong thời gian qua.
Toàn thể ĐCSVN, trong đó có chúng tôi, phải chịu trách nhiệm trước dân tộc về tình hình nói trên và phải góp phần tích cực khắc phục những sai lầm đã gây ra; trong đó phần trách nhiệm chủ yếu và trước hết thuộc về Ban Chấp hành Trung ương và Bộ chính trị.
Vì vậy chúng tôi, những người ký tên dưới đây, thấy cần bày tỏ suy nghĩ của những đảng viên ĐCSVN trung thành với tâm nguyện vì nước vì dân khi vào Đảng với mấy yêu cầu chính dưới đây:
1. Trước tình thế hiểm nghèo của đất nước, với trách nhiệm và vị thế của mình, ĐCSVN tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa. Ngay từ bây giờ, cần thảo luận thẳng thắn và dân chủ trong toàn Đảng và trong cả nước về tình hình mọi mặt của đất nước và những thách thức trước bước đi mới rất trắng trợn của Trung Quốc bá chiếm Biển Đông, vạch ra con đường chuyển đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu và lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc hiện nay, xây dựng hệ thống nhà nước pháp quyền thật sự dân chủ. Chỉ có như vậy mới phát huy được sức mạnh trí tuệ, tinh thần và vật chất của dân tộc Việt Nam, tăng cường được đoàn kết, hòa hợp dân tộc và tranh thủ được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân loại tiến bộ, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.
Quan điểm nêu trên cần được thấu suốt và thực hiện ngay trong việc chuẩn bị và tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XII với các đại biểu được bầu chọn thật sự dân chủ, đáp ứng được yêu cầu chính trị của đại hội. Đó là trách nhiệm của các tổ chức đảng các cấp và của từng đảng viên có tinh thần yêu nước. Đồng thời, kỳ bầu cử Quốc hội sắp tới phải thật sự dân chủ, tạo lập một Quốc hội chuyên nghiệp, xứng đáng đại diện cho dân, đáp ứng yêu cầu lập pháp chuyển đổi thể chế chính trị.
Việc cần làm ngay để thể hiện sự thực tâm chuyển đổi thể chế chính trị, tạo niềm tin trong dân là các cơ quan công quyền chấm dứt các hành động sách nhiễu, trấn áp, quy kết tùy tiện đối với người dân biểu tình yêu nước, đối với các tổ chức xã hội dân sự mới thành lập, trả tự do cho những người đã và đang bị kết án hình sự chỉ vì công khai bày tỏ quan điểm chính trị của mình.
2. Lãnh đạo đảng và nhà nước thống nhất nhận định về mưu đồ và hành động của thế lực bành trướng Trung Quốc đối với nước ta, từ bỏ những nhận thức mơ hồ, ảo tưởng; và có đối sách trước mắt và lâu dài bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc, xây dựng quan hệ láng giềng hòa thuận, hợp tác bình đẳng, vun đắp tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
Là người chủ đất nước, nhân dân có quyền được biết và phải được biết sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc và những điều quan trọng đã ký kết với Trung Quốc như thỏa thuận Thành Đô năm 1990, thỏa thuận về hoạch định biên giới trên đất liền và vịnh Bắc Bộ, những thỏa thuận về kinh tế v.v…
Việc cần thiết và cấp bách hiện nay là phải nhanh chóng kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế nhằm phát huy thế mạnh chính nghĩa của nước ta. Đồng thời, Việt Nam cần chủ động cùng với các nước ven Biển Đông thỏa thuận giải quyết những vướng mắc về chủ quyền trên biển với các đảo, bãi đá; củng cố sự đoàn kết, thống nhất của các nước ASEAN, trước hết là giữa các quốc gia ven biển, trong cuộc đấu tranh chống mọi hành động bành trướng của Trung Quốc muốn độc chiếm vùng biển này thành ao nhà của mình.
Quan điểm “không liên minh với nước nào nhằm chống nước thứ ba” là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi.
Tổ quốc đang lâm nguy đồng thời đứng trước cơ hội lớn để thay đổi! Trách nhiệm của các đảng viên yêu nước là phải cùng toàn dân nắm lấy thời cơ này, vượt qua thách thức, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.
Bỏ lỡ cơ hội này là có tội với dân tộc!


DANH SÁCH CÁC ĐẢNG VIÊN KÝ THƯ NGỎ GỬI BCH TW

VÀ TOÀN THỂ ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
______________________
1. Nguyễn Trọng Vĩnh, vào Đảng năm 1939, Thiếu tướng, nguyên Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng khóa III, nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc, Hà Nội.
2. Đào Xuân Sâm, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
3. Trần Đức Nguyên, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng ban Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Tuyến, vào Đảng năm 1946, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.
5. Lê Duy Mật, vào Đảng năm 1947, Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh phó, kiêm Tham mưu trưởng Quân khu II, Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang 1979 – 1988, Hà Nội.
6. Tạ Đình Du (Cao Sơn), vào Đảng năm 1948, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.
7. Vũ Quốc Tuấn, vào Đảng năm 1948, nguyên Trợ lý Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.
8. Nguyễn Hữu Côn, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên Tham mưu trưởng Hậu cần Quân đoàn 2, Hà Nội.
9. Hoàng Hiển, vào Đảng năm 1949, nguyên Trung tá Hải quân, Hà Nội.
10. Đỗ Gia Khoa, vào Đảng năm 1949, nguyên cán bộ cơ quan Bộ Công an và Tổng cục Hải Quan, Hà Nội.
11. Hà Tuân Trung, vào Đảng năm 1949, nguyên Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nguyên Tổng biên tập tạp chí Kiểm tra, Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Ngọc Toản, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Giáo sư, Cựu Chiến binh, nguyên Chủ nhiệm khoa, Quân Y viện 108, Hà Nội.
13. Phạm Xuân Phương, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên chuyên viên Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội.
14. Tô Hòa, vào Đảng năm 1950, nguyên Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng.
15. Võ Văn Hiếu, vào Đảng năm 1950, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam.
16. Hoàng Tụy, vào Đảng năm 1950, Giáo sư Toán học, Hà Nội.
17. Huỳnh Thúc Tấn, vào Đảng năm 1951, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Hà Nội.
18. Tạ Đình Thính, vào Đảng năm 1951, nguyên Vụ trưởng Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
19. Nguyên Ngọc, vào Đảng năm 1956, Nhà văn, nguyên Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, Hội An.
20. Tương Lai, vào Đảng năm 1959, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, TP. Hồ Chí Minh.
21. Nguyễn Khắc Mai, vào Đảng năm 1959, Giám đốc Trung tâm Minh Triết, Hà Nội.
22. Đào Công Tiến, vào Đảng năm 1960, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.
23. Vũ Linh, vào Đảng năm 1962, nguyên Chủ nhiệm chương trình PIN mặt trời, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Hà Nội.
24. Nguyễn Kiến Phước, vào Đảng năm 1962, nguyên Ủy viên Ban Biên tập báo Nhân Dân, TP. Hồ Chí Minh.
25. Nguyễn Thị Ngọc Trai, vào Đảng năm 1963, nhà báo, nhà văn, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội
26. Võ Văn Thôn, vào Đảng năm 1965, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
27. Nguyễn Trung, vào Đảng năm 1965, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, Hà Nội.
28. Huỳnh Kim Báu, vào Đảng năm 1965, nguyên Tổng thư ký‎ Hội Trí thức yêu nước TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
29. Hạ Đình Nguyên, vào Đảng năm 1965, nguyên Chủ tịch Ủy ban phối hợp hành động Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh.
30. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), vào Đảng năm 1966, nguyên thư k‎ý của Bí thư Thành ủy Mai Chí Thọ, nguyên Phó bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh
31. Lê Công Giàu, vào Đảng năm 1966, nguyên Phó bí thư Thường trực Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại, đầu tư TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
32. Kha Lương Ngãi, vào Đảng năm 1966, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP. Hồ Chí Minh.
33. Tô Nhuận Vỹ, vào Đảng năm 1967, nhà văn, nguyên Bí thư Đảng Đoàn kiêm Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên - Huế, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, nguyên Giám đốc Sở Ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên - Huế, TP. Huế.
34. Phạm Đức Nguyên, vào Đảng năm 1968, Phó Giáo sư Tiến sĩ ngành Xây dựng, 46 tuổi đảng, Hà Nội.
35. Bùi Đức Lại, vào Đảng năm 1968, nguyên Vụ trưởng, chuyên gia cao cấp bậc II, Ban Tổ chức trung ương Đảng, Hà Nội.
36. Lữ Phương, vào Đảng năm 1968, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn Hóa Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam, TP. Hồ Chí Minh.
37. Nguyễn Lê Thu An, vào Đảng năm 1969, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP. Hồ Chí Minh.
38. Nguyễn Đăng Quang, vào Đảng năm 1969, Đại tá công an, đã nghỉ hưu, Hà Nội.
39. Trần Văn Long, vào Đảng năm 1970, nguyên Phó Bí thư Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
40. Nguyễn Thị Kim Chi, vào Đảng năm 1971, Nghệ sĩ ưu tú, Đạo diễn điện ảnh, Hà Nội.
41. Huỳnh Tấn Mẫm, vào Đảng năm 1971, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, nguyên đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Tổng biên tập báo Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh.
42. Võ Thị Ngọc Lan, vào Đảng năm 1972, nguyên cán bộ công an TP. Hồ Chí Minh.
43. Hà Quang Vinh, vào Đảng năm 1972, cán bộ hưu trí, TP. Hồ Chí Minh.
44. Nguyễn Đắc Xuân, vào Đảng năm 1973, nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa, nguyên Trưởng Đại diện báo Lao Động tại khu vực Miền Trung - Tây Nguyên, TP. Huế.
45. Lê Đăng Doanh, vào Đảng năm 1974, Tiến sĩ Kinh tế học, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
46. Chu Hảo, vào Đảng năm 1974, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.
47. Nguyễn Xuân Hoa, vào Đảng năm 1974, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Thừa Thiên - Huế, TP. Huế.
48. Nguyễn Vi Khải, vào Đảng năm 1974, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, 40 tuổi đảng, Hà Nội.
49. Cao Lập, vào Đảng năm 1974, nguyên Bí thư Đảng ủy ngành Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh.
50. Lê Thân, vào Đảng năm 1975, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Tổng Giám đốc Liên doanh SG-Riversite, TP. Hồ Chí Minh.
51. Ngô Minh, vào Đảng năm 1975, nhà báo, nhà văn, TP. Huế.
52. Trần Kinh Nghị, vào Đảng năm 1976, cán bộ Ngoại giao về hưu, Hà Nội.
53. Hồ An, vào Đảng năm 1979, nhà báo, TP. Hồ Chí Minh.
54. Đoàn Văn Phương, vào Đảng năm 1979, nguyên chiến sĩ thuộc Ban Giao lưu trung ương Cục, TP. Hồ Chí Minh.
55. Hồ Uy Liêm, vào Đảng năm 1980, nguyên Quyền Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
56. Trần Đình Sử, vào Đảng năm 1986, Giáo sư Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
57. Lê Văn Luyến, vào Đảng năm 1987, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam, TP. Hồ Chí Minh.
58. Nguyễn Gia Hảo, vào Đảng năm 1988, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.
59. Phạm Chi Lan, vào Đảng năm 1989, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
60. Đào Tiến Thi, vào Đảng năm 1997, Thạc sĩ, Ủy viên Ban chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
61. Nguyễn Nguyên Bình, vào Đảng năm 1996, Trung tá, cựu chiến binh, Hà Nội.
_____________________