Trang

28 tháng 7, 2014

Bóng đen nợ xấu ám ảnh lợi nhuận ngân hàng


Bóng đen nợ xấu lan rộng hơn và trùm lên lợi nhuận của các ngân hàng thương mại...


Bóng đen nợ xấu ám ảnh lợi nhuận ngân hàng
Nửa đầu năm nay có lẽ là mùa báo lãi nhợt nhạt nhất trong nhiều năm qua.
In
Đã gần hết tháng 7 nhưng vẫn rất ít ngân hàng thương mại công bố kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2014. Trong khi đó, phần lớn các doanh nghiệp ngành khác niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán đều đã công bố báo cáo tài chính cụ thể.

Những năm gần đây ngành ngân hàng có tình trạng trù trừ như vậy. Nửa đầu năm nay có lẽ là mùa báo lãi nhợt nhạt nhất trong nhiều năm qua. Khi không còn hào nhoáng bởi những mức lãi khủng hay gần như tất cả đều lãi lớn như trước, mà bóng đen nợ xấu ám ảnh và kết quả kinh doanh kém đi thì ngại công bố tình hình hoạt động của mình cũng là dễ hiểu.

Tính đến thời điểm này, những ngân hàng đã có thông tin kết quả cơ bản trong 6 tháng 2014, gồm: TPBank, Sacombank, Vietcombank, VIB, Vietinbank, NamABank, NCB và Kienlong Bank. Bước đầu ở nhóm này là tương đối khả quan, nhưng chừng đó chưa đủ để phản ánh cho bức tranh chung, trong khi ám ảnh nợ xấu lại là dấu hiệu để nhận biết tình hình mùa báo cáo đang đến.

Là thành viên đầu tiên công bố, Ngân hàng Tiên Phong (TPBank) đang nỗ lực để lại sau lưng những khó khăn của giai đoạn buộc phải tự tái cơ cấu hơn một năm về trước. Là ngân hàng trẻ nhất trong hệ thống, mạng lưới còn hạn chế, nên con số 263 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế có được nửa đầu năm nay là khá ấn tượng, tương ứng với 60% kế hoạch lợi nhuận cả năm. Tăng trưởng tín dụng của TPBank 6 tháng đầu năm đạt 8,8%, tỷ lệ nợ xấu từ 1,96% đầu năm xuống còn 1,66%.

Là thành viên lớn trong khối cổ phần, Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) tiếp tục cho thấy sự ổn định trong hoạt động. 6 tháng đầu năm nay ngân hàng này đạt lợi nhuận trước thuế 1.531 tỷ đồng, hoàn thành 51% kế hoạch năm; tăng trưởng tín dụng khá cao với 10,3%.

Ngân hàng Công Thương Việt Nam (Vietinbank), đầu tàu lợi nhuận của hệ thống những năm gần đây, cũng vừa có thông tin kết quả kinh doanh cơ bản nửa đầu năm: tổng tài sản tăng 3,5%; nguồn vốn tăng 4% và dư nợ tín dụng tăng trưởng 3%; lợi nhuận trước thuế đạt 56% kế hoạch đại hội đồng cổ đông 2014 đề ra, tương ứng với khoảng 4.000 tỷ đồng; nợ xấu được kiểm soát dưới 3%.

Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) tiếp tục có tăng trưởng về lợi nhuận trước thuế so với cùng kỳ năm ngoái, khi đạt 2.778 tỷ đồng. Kết quả này nhờ tín dụng tăng trưởng ở mức khá trong ngành với 6,63%. Tuy nhiên, nợ xấu của Vietcombank đến 30/6/2014 ước tính đã chính thức vượt mốc 3% (khoảng 3,06%).

Ngân hàng Quốc Tế (VIB) cũng có thông tin về kết quả 6 tháng khá sớm. Lợi nhuận trước dự phòng đạt 598 tỷ đồng, tăng 26% (quy đổi theo năm) so với năm 2013. Nhưng VIB tiếp tục trích lập dự phòng ở mức cao, ở mức 447 tỷ đồng cho 6 tháng đầu năm nên lợi nhuận trước thuế chỉ còn 151 tỷ đồng (con số này chưa bao gồm hơn 100 tỷ đồng lợi nhuận do đánh giá lại danh mục trái phiếu Chính phủ).

Tại hội nghị sơ kết tuần qua, Ngân hàng Nam Á (NamABank) cho biết kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm nay “đạt được có phần khả quan”. Theo đó, tổng tài sản đạt 33.733 tỷ đồng, tăng 17,15% so với đầu năm; tổng huy động từ tổ chức kinh tế, dân cư đạt 15.383 tỷ đồng, tăng 12,2% đạt 85,46% kế hoạch năm; dư nợ cho vay đạt 13.719 tỷ đồng. tăng 18,57%. Tuy nhiên, NamABank chưa tiết lộ lợi nhuận và nợ xấu cụ thể.

Trong khối ngân hàng nhỏ, Ngân hàng Kiên Long (Kienlongbank) vẫn khẳng định là một trong những thành viên hiệu quả và ổn định nhất (trên cơ sở số liệu họ công bố). Tính đến 30/6/2014, tổng tài sản của Kienlongbank là 21.897 tỷ đồng, đạt 91,84 % kế hoạch năm 2014, tăng 2,46 % so với năm 2013; dư nợ cho vay tăng 7,46%; tỷ lệ nợ xấu ở mức 2,4%; lợi nhuận trước thuế đạt 211,86 tỷ đồng, đạt 50,56 % kế hoạch năm.

Trong số ít ỏi các thành viên đã công bố nói trên, một số trường hợp như Vietinbank, Sacombank, NamABank chưa có số liệu cụ thể về tỷ lệ nợ xấu. Số còn lại, mặc dù vẫn kiểm soát dưới 3% hoặc chớm trên mức này, nhưng lại cho thấy một sự ảnh hưởng lớn từ rủi ro này. Như tại VIB, lượng trích lập dự phòng rủi ro đã giảm phần lớn lợi nhuận đạt được trong nửa đầu năm nay. Hay tại Vietcombank, 2.400 tỷ đồng dành để trích lập dự phòng rủi ro trong 6 tháng đầu năm là quy mô lớn…

Theo cập nhật của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống đã liên tục tăng trong những tháng đầu năm nay và đã trở lại trên mức 4%. Tương ứng, chi phí trích lập dự phòng rủi ro của các ngân hàng thương mại nói chung trong nửa đầu năm nay dự tính sẽ tiếp tục tăng và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận.

Đó dự báo cũng sẽ là xu hướng khi các nhà băng từng bước thực hiện cơ chế phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro chặt chẽ hơn, theo tinh thần của Thông tư 09.

Việc trích lập dự phòng quy mô lớn ở một số thành viên nói trên và cũng là xu hướng chung có thể là tính toán chủ động của các ngân hàng, nhằm hạn chế những “cú sốc” khi Thông tư 09 được thực hiện một cách đầy đủ vào đầu năm tới, cùng cơ chế cho cơ cấu lại nợ mà không phải chuyển nhóm buộc phải chấm dứt. Hay nói cách khác, bóng đen nợ xấu sẽ vẫn tiếp tục ám ảnh lợi nhuận của họ trong thời gian tới.

VN giữa trật tự thế giới mới

Phan Công Chánh

Cập nhật: 09:47 GMT - thứ hai, 28 tháng 7, 2014
Trung Quốc và Nga thường đồng ý với nhau về các vấn đề ngoại giao
Câu hỏi tôi muốn đặt lại để suy nghĩ trong bài này là: Có phải một trật tự thế giới mới đang trong tiến trình hình thành với cuộc tranh hùng quyền lực toàn cầu kiểu mới giữa ba tay chơi quyền lực quốc tế siêu cường Mỹ, đại cường Nga, đại cường Trung Quốc là nội dung chính của nó?
Sự sụp đổ của đế quốc Nga Xô đã dẫn đến sự thay thế của “một trật tự thế giới lưỡng cực” (với cuộc tranh hùng bá chủ thế giới tay đôi Mỹ - Nga) bằng “một trật tự thế giới nhất cực” (với sự lãnh đạo hoàn cầu của siêu cường Mỹ). Nhưng sự “trỗi dậy” nhanh chóng của Trung Quốc dưới sự lãnh đạo có viễn kiến của Đặng Tiểu Bình và những lãnh tụ kế nghiệp cũng như sự phục hồi quyền lực nội tại của Nga dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Vladimir Putin đã góp phần tạo dựng điều kiện cho sự hình thành một trật tự thế giới mới.
Nhưng một câu hỏi liên hệ khác cũng đã được đặt ra: Cơ cấu nội tại của trật tự thế giới mới sẽ là một trật tự thế giới nhất cực hay một trật tự thế giới lưỡng cực hay một trật tự thế giới tam cực hay một trật tự thế giới đa cực?
Mặc dù câu hỏi chính trị quan trọng này vẫn còn là một vấn đề tranh cãi nặng tính chất học đường, tôi cho rằng “một trật tự thế giới mới” đang hình thành có nhiều khả năng sẽ là một trật tự thế giới tam cực. Nhưng nó lại được đặt trên căn bản một cơ cấu đa khối quốc gia với nhiều loại hình quan hệ khác nhau cùng nhiều hệ thống trục xoay quyền lực đa dạng đang nối kết tất cả các khu vực chiến lược trên thế giới lại với nhau.
Thuật ngữ “một thế giới tam cực” được dùng để chỉ sự tái định vị trí quyền lực chân vạc của Nga - Mỹ - Trung Quốc trong những cuộc đọ sức tranh hùng tay ba tương lai nhằm mục đích bá chủ thiên hạ cũng như việc theo đuổi những mục đích quốc gia thực tế (đó là duy trì phát triển mở rộng quyền lực quốc gia và lợi ích dân tộc trong quan hệ khối - khu vực - toàn cầu) mà không được che đậy dưới những chiêu bài ý thức hệ lý tưởng cao siêu như xưa.
Nếu nhìn từ quan điểm văn hoá chính trị thì Hoa Kỳ thuộc loại văn minh hiện đại và đang chuyển mình sang loại hình văn minh mới hậu hiện đại. Nhưng ngược lại, văn hoá chính trị của Nga cũng như văn hoá chính trị Trung Quốc vẫn còn thuộc vào loại hình văn minh tiền hiện đại. Thí dụ, Nga và Trung Quốc vẫn còn coi trọng giá trị sở hữu đất đai và biển đảo và không ngần ngại sử dụng những “thủ đoạn” tiền hiện đại như đã xảy ra tại Crimea và Biển Đông.
Đây là loại tâm lý và chính sách thuộc chủ nghĩa thuộc địa kiểu cũ hay chủ nghĩa đế quốc kiểu cũ chứ không phải chủ nghĩa đế quốc kiểu mới như Mỹ vì dân tộc Mỹ đã trải qua hơn 200 trăm phát triển văn minh kỹ thuật hiện đại.
Liệu mô hình “một thế giới tam cực” với nội dung cuộc tranh hùng tay ba Nga - Mỹ - Trung có giống như loại kịch bản “Tam Quốc Chí” hay “The Good, the Bad and the Ugly” (cuốn phim nổi tiếng cao bồi Mỹ 1966)? Ai là “The Good” (Loại Thiện)? Ai là “The Bad” (Loại Ác)? Ai là “The Ugly” (Loại Xấu Xí)? Ai sẽ là kẻ chiến thắng sau cùng?

Siêu Cường Mỹ

Mỹ cố gắng duy trì vị trí lãnh đạo ở châu Á
Mỹ muốn tiếp tục duy trì ngôi vị “siêu cường” của mình theo kiểu “vương đạo” với chính sách xây dựng quan hệ song phương đối tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc vì vẫn xem Nga là “đối thủ chính” của mình (vì an ninh khu vực Đông Âu và Trung Đông). Con số khổng lồ trên 562 tỷ đôla buôn bán thương mại hai chiều Mỹ - Trung năm 2013 nói lên sự quan trọng kinh tế giữa hai nước khi ta so sánh với con số 203 tỷ đôla mậu dịch hai chiều Mỹ - Nhật cùng năm.
Nhưng đối với vấn đề an ninh toàn bộ khu vực châu Á-Thái Bình Dương thì Mỹ đã quyết định “cầm chân Tàu” với chiến lược “Xoay Trục sang châu Á-Thái Bình Dương” vì Trung Quốc lại được xem là “đối thủ chính” trong quan hệ chiến lược đối trọng Mỹ - Trung. Mỹ đã tiến qua giai đoạn triển khai chính sách “Xoay Trục sang châu Á-Thái Bình Dương” cũng như khuyến khích vai trò quân sự mới của Nhật trong chính sách cân bằng quyền lực tại khu vực chiến lược này trước “sự trỗi dậy” đáng ngờ của Trung Quốc. Cuộc tranh hùng Mỹ - Trung đang chuyển thành cuộc tranh hùng khu vực Nhật - Trung.
Đây là vài nghi vấn chiến lược: Việt Nam sẽ chọn đứng chiến tuyến nào trong cuộc tranh hùng tay ba Mỹ - Nhật - Trung? Ai mới thực là “kỳ phùng địch thủ hoàn cầu” của Mỹ trong tương lai: Nga hay Trung Quốc? Mục đích chiến lược mới của Mỹ là gì khi tiếp tục chính sách nuôi dưỡng con sư tử Tàu?

Đại cường Nga - Giấc mơ hồi sinh

Nga lại muốn vươn lên giành lại cái ghế siêu cường một thời oanh liệt đã qua cũng như phục hồi lại cái đế quốc Xô Viết đã mất của mình để có thể có được một ngôi vị siêu cường thật sự trong quan hệ tranh hùng tay ba kiểu mới.
Vì thế, Tổng thống Putin phải chặn đứng ngay chính sách xâm nhập “lót ổ” của Âu Mỹ tại Ukraine bằng cách tiến chiếm bán đảo Crimea của Ukraine (giống kịch bản Trung Quốc chiếm Biển Đông) cũng như kéo Trung Quốc về phe Nga bằng cách đẩy mạnh các loại hình quan hệ song phương lên cao điểm mới (rềnh rang nhất mặc dù bị Trung Quốc chơi trò chơi buôn bán “áp giá” là việc ký kết hiệp thương khí đốt khổng lồ gần đây).
Nhưng đối với sự lo sợ của Nga, Trung Quốc lại là “một địch thủ khó lường” vì Trung Quốc đang từng bước xâm nhập mạnh vào nền kinh tế lạc hậu nhưng giàu tài nguyên thiên nhiên của các nước Trung Á (thuộc đế quốc Xô Viết cũ) cũng như dân Tàu đang du nhập mạnh vào khu vực rộng lớn đầy tiềm năng Tây Bá Lợi Á (Siberia).
Nga lo sợ Bắc Kinh đang dòm ngó “miếng mồi ngon” không những vì diện tích Siberia khổng lồ, phong phú về tài nguyên nhưng dân chúng lại nghèo khổ.

Giấc mơ Hoa Tộc

Trung Quốc đang làm tất cả những gì cần phải làm trong khuôn khổ mô hình phát triển “Tứ Hiện Đại” để có thể nhanh chóng thực hiện cho kỳ được cái “giấc mơ siêu cường” bao đời ấp ủ của mình. Trung Quốc đã và đang thành công với chính sách “hiện đại kinh tế” của mình và triển vọng sẽ vượt qua cả siêu cường Mỹ để trở thành quốc gia có “nền kinh tế lớn nhất thế giới”.
Chính sách hiện đại quân sự đang làm cho các nước láng giềng lo ngại không những vì Trung Quốc đang “dành đất chiếm biển” và thiết lập “vùng trời bất khả xâm phạm” tại biển Đông Á mà còn đổ tiền vào quốc sách phát triển kỹ nghệ quốc phòng. Theo công bố của Lầu Năm Góc, năm 2013 Trung Quốc đã chi hơn 145 tỷ đôla. Nhưng theo học viện Stockholm International Peace Institute (SIPRI), con số đã lên đến 188 tỷ đôla. Con số thật có thể còn cao hơn nhiều.
Bắc Kinh tỏ ra rất khôn khéo trong những kế hoạch khai thác quan hệ đối kháng Nga - Mỹ để thủ lợi cũng như xây dựng những hệ thống giao thông đường bộ (như tái thiết lập the Con Đường Tơ Lụa) lẫn cái mà nhà báo Mỹ Robert D. Kaplan gọi là “Đế Chế Đại Dương Nẩy Mầm Trung Quốc” nhằm nối liền Trung Quốc với khu vực Trung Đông và châu Phi. Vì thế, Biển Đông và Đông Nam Á được những lãnh tụ Bắc Kinh xem như tối quan trọng đối với chiến lược xây dựng “Đế Chế Đại Dương” vì chúng sẽ nối liền biển Đông Á với Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương thành một trục giao thông hàng hải (cũng như một loại lãnh thổ đại dương khổng lồ của Trung Quốc).
Vì thế, ngoài mục đích khai thác tài nguyên biển (như dầu lửa), việc chiếm trọn Biển Đông có thể được xem như là bước chiến lược đầu tiên mà Trung Quốc tiến hành để xây dựng một loại “Trân Châu Cảng” cho Hạm Đội Nam Hải. Từ đó, Trung Quốc sẽ dần tiến chiếm toàn bộ Đông Nam Á nhằm thành lập “khu vực ảnh hưởng đầu tiên của Trung Quốc” để kiểm soát trục vận chuyển đường biển Đông Tây và để phóng chiếu sức mạnh quyền lực khu vực cũng như trên thế giới.

Lựa chọn của Việt Nam?

Việt Nam sẽ là một trong các hội viên hùng mạnh nhất của Asean?
Nếu lịch sử chính trị thế giới đang chuyển động với cuộc tranh hùng kiểu mới tay ba toàn cầu Mỹ - Nga - Trung và cuộc tranh hùng tay đôi khu vực Nhật - Trung, thì sự lựa chọn chiến tuyến lịch sử mới của Việt Nam phải như thế nào?
Việt Nam cần phải làm gì để không trở thành một nạn nhân bi thảm đáng thương như đã từng xảy ra trong quá khứ mà là một tay chơi quyền lực thế giới nặng ký trên chính trường quốc tế?
Những sự lựa chọn mới của Việt Nam có thể được diễn tả bằng 8 chữ vàng sau đây nếu Việt Nam thấy chuyển hướng toàn diện là một sự cần thiết để tìm một sinh lộ mới cho dân tộc đi tới: Tây Tiến - Đông Kết - Bắc Hẹn - Nam Hòa.
“Tây Tiến” nghĩa là Việt Nam phải tiến thẳng vào nền kinh tế Mỹ - Nhật -châu Âu để phát triển và làm giàu. Nước Mỹ phải là đất dụng võ của Việt Nam và phải là một thành trì kiên cố cho sứ mạng dựng nước và giữ nước lâu dài của Việt Nam.
"Những sự lựa chọn mới của Việt Nam có thể được diễn tả bằng 8 chữ vàng sau đây nếu Việt Nam thấy chuyển hướng toàn diện là một sự cần thiết để tìm một sinh lộ mới cho dân tộc đi tới: Tây Tiến - Đông Kết - Bắc Hẹn - Nam Hòa."
“Đông Kết” nghĩa là Việt Nam phải nhanh chóng tiến tới việc thiết lập một hệ thống đồng minh nhất tâm tứ trụ mà trong đó quan hệ đồng minh Việt - Mỹ và Việt - Nhật sẽ là trục xoay quyền lực đầu tiên trong quan hệ đối trọng với Trung Quốc. Để thoả mãn một số yêu sách của Mỹ và mặc cả những bao thầu lớn với Mỹ trong tương lai, Việt Nam nên cho Mỹ thuê quân cảng Cam Ranh và lập một lộ trình xây dựng những thể chế dân chủ. Đây là con đường sống.
“Bắc Hẹn” nghĩa là Việt Nam sẽ tạm đoạn tuyệt với Trung Quốc giống như Mao và Đặng đã làm khi bắt tay với Mỹ và phớt tỉnh với Nga để dốc toàn lực vào quốc sách xây dựng kinh tế trong vòng 60 năm tới (2015-2075) rồi mới “tái xuất giang hồ” làm ăn tại hai nước bạn “đồng chí” năm xưa này cũng như các nước khác trên thế giới sau khi Việt Nam đã trở thành một “trung cường”.
“Nam Hòa” nghĩa là Việt Nam sẽ hoà với tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới (trừ Trung Quốc trong giai đoạn hiện tại) nhưng lấy đại hòa với các nước Đông Nam Á làm trọng. Vì sau 60 năm phát triển Việt Nam sẽ là một trong những nước hội viên hùng mạnh nhất để bảo vệ và lãnh đạo ASEAN thành một khối liên minh thống nhất trong quan hệ đối trọng với các nước đại cường và siêu cường trên thế giới.
Nhưng để làm được những việc này, Việt Nam đang cần những nhà lãnh đạo có viễn kiến.
Bất cứ thời đại nào trong bất cứ một xã hội nào, dân chủ hay phi dân chủ, một nhân vật hay một lãnh tụ bình thường, nhưng yêu nước thương dân, đều có những mưu lược phi thường để xuất hiện làm một nhà lãnh đạo quốc gia có viễn kiến, tự nhận sứ mạng xoay chuyển càn khôn cứu dân độ thế.
Ai sẽ xuất hiện để trở thành một nhà lãnh đạo Việt Nam chân chính như thế? Ai sẽ là nhân vật bình thường vươn lên từ “vũng lầy quyền lực” Đảng Cộng sản hiện nay, giống như một vầng thái dương hừng lửa, để làm nên đại nghiệp huy hoàng cho quốc gia dân tộc?
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, đang giảng dạy ở San Jose State University, Hoa Kỳ.

27 tháng 7, 2014

Chúng ta còn lâu mới có văn minh

(Tin tức thời sự) - Tái giá thì sao? Họ không được phép có một gia đình mà chỉ được sống vật vờ để ôm khư khư lấy danh hiệu hay sao?
a
Các bà mẹ Việt Nam Anh Hùng được ưu tiên cộng điểm nếu thi đại học.
Trong khi Bộ GD&ĐT sốt sắng cộng điểm cho Bà mẹ VNAH đi thi đại học thì Cục người có công của Bộ LĐTBXH nhất định không phong tặng danh hiệu cho một bà mẹ đã gần đất xa trời vì còn chờ… hướng dẫn.
Mẹ M. ở TP. HCM, một người vợ liệt sĩ từ năm 30 tuổi, mất cả 2 con trai, đứa lớn 16 tuổi, đứa bé 6 tuổi vì làm giao liên cảnh giới cho quân cách mạng, bản thân mẹ M. là thương binh hạng 2/4 vì tù đày. Còn lại một mình trơ trọi trên đời, khi ra tù, mẹ M gá nghĩa với một người đồng đội.
Giờ mẹ M. 83 tuổi, 3 năm nay bệnh nặng nằm liệt giường, 5 tháng trước đây, phường đề nghị Phòng Lao động - thương binh và xã hội (LĐ-TB&XH) Q.Bình Thạnh, Sở LĐ-TB&XH TP.HCM phong danh hiệu Bà mẹ VNAH cho mẹ. Nhưng trên trả lời: hồ sơ chưa được thông qua vì mẹ đã tái giá, và còn phải chờ xem thủ tục hướng dẫn thế nào.
Ai là người còn có trái tim ở phía bên ngực trái mà không thấy đau khi đọc những  câu chuyện thế này?
Một người phụ nữ mất chồng, mất cả 2 đứa con trai còn măng sữa cho cuộc chiến tranh, đến lúc nằm liệt giường, sắp nhắm mắt xuôi tay vẫn không được nhận danh hiệu mà bà xứng đáng được hưởng, chỉ vì đã tái giá.
Hỡi ôi, phải chăng các bà mẹ VNAH không phải là người? Hay người ta muốn phong tặng danh hiệu cho các mẹ để hóa thánh, hóa tượng cho các mẹ rồi đặt lên một vị trí cao nào đó, không cho các mẹ là con người nữa?
Một cái danh hiệu vô hình lấp làm sao được nỗi đau trong lòng họ, những người mẹ đã dứt từng nắm ruột của mình, trao cho quân đội để rồi không bao giờ còn nhìn thấy con được nữa. Các liệt sĩ đã hy sinh có bao giờ hình dung người mẹ đáng thương đáng kính của họ đang bị đặt lên bàn cân phát xét thế này không?
Đọc bài trả lời phỏng vấn của ông Nguyễn Duy Kiên- Phó Cục trưởng Cục người có công của Bộ LĐ-TB&XH về trường hợp của các mẹ mà tôi trào nước mắt. Vì sự vô cảm lạnh lùng của các quy định đang khiến cho chúng ta bị kéo tụt về trạng thái dã man mông muội, không còn biết thế nào là sự nhân văn, tử tế ở đời.
Ông Kiên cho biết: “Theo quy định hiện nay, bà mẹ có 1 con duy nhất, hoặc có 2 con liệt sỹ thì đương nhiên được công nhận bà mẹ Việt Nam anh hùng, dù có tái giá hay không.
Riêng với trường hợp có con và chồng là liệt sỹ, nhưng nếu đã tái giá, tức là đã chuyển sang hôn nhân mới, thì mặc định hôn nhân cũ đã mất hiệu lực. Vì khái niệm chồng được hiểu là người mà hôn nhân đang có hiệu lực.
Tuy nhiên việc xét tặng danh hiệu cho các trường hợp bà mẹ đã tái giá cũng có những cái cần phải bàn. Chẳng hạn như trường hợp mẹ M. như ở TP.HCM có 1 con và chồng là liệt sỹ, nhưng đã tái giá. Vậy trường hợp này nếu lấy chồng cũ ra làm tiêu chuẩn được không?
Cái này trong quy định vẫn chưa có và cần phải chờ hướng dẫn để cân đối với các văn bản pháp luật khác nữa, chẳng hạn như luật hôn nhân gia đình. Được hay không không quan trọng, nhưng về mặt hành lang pháp lý thì cần phải có”.
Thế đấy, chỉ cần chuyển sang hôn nhân mới thì hôn nhân cũ đã mất hiệu lực, chồng cũ dẫu có là liệt sĩ không làm tiêu chuẩn được nữa, mẹ M được hay không không quan trọng, nhưng về mặt hành lang pháp lý thì cần phải có.
Ông Cục phó Cục người có công trả lời thế này, có khiến cho ai thấy đau không, thưa bạn đọc?
“Sá chi tờ giấy?” Mẹ M. đã nói như thế khi biết người ta đang cân đong đo đếm trường hợp hồ sơ của mẹ. Thưa mẹ, mẹ nói đúng rồi. Ba phần tư cuộc đời mẹ đã chết, chồng và hai đứa con trai đã chết, thì một tờ giấy ghi mấy chữ Bà mẹ VNAH dù có vẻ vang cũng có sá chi.
Nhưng những quy định vô cảm, những con người làm chính sách nhưng chỉ cứng nhắc tuân theo những quy định vô cảm làm chúng ta đau lòng thì vẫn còn đó. Vẫn chứng tỏ cho chúng ta một điều cay đắng rằng: chúng ta còn lâu mới có được sự văn minh.
Bởi văn minh là phải đặt ra những điều luật, những quy định tôn lên được tính nhân văn của con người, tô thêm sự ấm áp của tình người chứ không phải quỳ rạp xuống mà phục tùng những điều luật như nô lệ.
Bởi văn minh là phải làm sao để vơi bớt nỗi đau cho những con người đã chịu quá nhiều thiệt thòi cay đắng chứ không phải là dúi thêm những mũi dao vào lòng họ. Tái giá thì sao? Họ không được phép có một gia đình mà chỉ được sống vật vờ như hồn ma bóng quế mà ôm khư khư lấy danh hiệu hay sao?
Ông Kiên cho biết thêm: “Theo tôi, mọi thứ đều phải có một chuẩn mực nhất định. Nếu càng tôn cao phẩm chất thì danh hiệu ấy càng có giá trị. Ngược lại nếu hạ dần phẩm chất đi thì danh hiệu ấy lại giảm giá trị đi.
Ngày xưa chúng ta đề nghị phải có 3 con, giờ lại hạ xuống 2 con liệt sỹ thì được xét tặng. Nhưng thời bình đã vậy, còn thời chiến tranh thì thế nào? Bây giờ trong thời bình, khi phong tặng gần hết rồi chúng ta lại mở rộng thêm. Nếu giải quyết ào ạt như vậy lúc đó sẽ thế nào?”
Nghe mà lạnh hết cả người. Con dân chúng tôi đẻ ra, máu thịt của chúng tôi, nguồn hy vọng sống của cuộc đời chúng tôi, đã dâng cho Tổ quốc không một lời đòi hỏi. Thế mà giờ đây, Cục người có công lại còn lo phải “giải quyết ào ạt” thì giá trị danh hiệu giảm đi?
Tôi xin phép không còn lời nào để nói thêm được nữa.  
  • Mi An

Thủy điện lật lọng không cắt lũ, người dân ngã ngửa!

(Tin tức thời sự) - “Chúng ta không kỳ vọng gì thủy điện sẽ cắt được lũ cho hạ du.Không bao giờ cắt được! Sẽ còn lũ tiếp diễn.Chúng ta phải chấp nhận sống chung với lũ”.
Ông Nguyễn Tài Anh, Phó Tổng Giám đốc EVN đã nói thẳng như vậy khi người dân trông chờ và kỳ vọng thủy điện sẽ xả lũ, cắt lũ.
Hiện Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy trình vận hành liên hồ chứa trên sông Ba yêu cầu các nhà máy thủy điện phải thông báo xả lũ cho dân trước 4 giờ thay vì 2 giờ như trước đây.
Thế nhưng ông Đặng Văn Tuần, Tổng Giám đốc Công ty CP Thủy điện Sông Ba Hạ lại cho rằng xả lũ như thế đã là “áp lực”.
Khác với mục tiêu ban đầu, nay đại diện Tập đoàn điện lực Việt Nam nói thẳng: Thủy điện không bao giờ cắt lũ được!
Khác với mục tiêu ban đầu, nay đại diện Tập đoàn điện lực Việt Nam nói thẳng: Thủy điện không bao giờ cắt lũ được!
Còn ông Nguyễn Tài Anh, Phó Tổng Giám đốc EVN, thẳng thừng: không thể có phương án cắt lũ trên sông Ba! “Chúng ta không kỳ vọng gì thủy điện sẽ cắt được lũ cho hạ du. Không bao giờ cắt được! Sẽ còn lũ tiếp diễn. Chúng ta phải chấp nhận sống chung với lũ”.
Ông Đỗ Đức Quân,Vụ trưởng Vụ Thủy điện, Tổng cục Năng lượng thuộc Bộ Công Thương cũng thừa nhận: bộ từng cân nhắc đến phương án cắt lũ cho hạ lưu sông Ba bằng việc mở rộng hồ chứa thủy điện Sông Ba Hạ nhưng không khả thi.
“Chúng tôi tính toán để giữ được 400 triệu m3 nước vào mùa lũ cho hạ lưu sông Ba thì phải chấp nhận mất đi một diện tích đất lên đến 4.500 ha, gần gấp đôi hồ thủy điện Sông Ba Hạ. Diện tích đất mất quá lớn trong khi 400 triệu m3 cũng không thấm vào đâu so với lũ sông Ba”.
Sự lật lọng của thủy điện khiến người dân cay đắng. Ông Trần Văn Tiến, một người dân ở xã Hòa Trị, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên - vùng thường xuyên bị ngập lụt khi thủy điện xả lũ, bức xúc: “Bây giờ, họ lật lọng vậy đó! Trước đây, khi xây dựng thủy điện thì họ nói rất ngon. Họ bảo làm thủy điện sẽ cắt lũ cho dân”.
Trước đó khi lập dự án thủy điện Sông Ba, ngoài mục tiêu chính là cung cấp điện cho đất nước với giá thành hạ, thủy điện Sông Ba Hạ còn là công trình lợi dụng tổng hợp với nhiều lợi ích khác.
Đó là, cung cấp nước tưới cho gần 3.000 ha vùng đất quanh hồ: Củng Sơn, Sơn Phước, Ea Bá, Đức Bình Đông… Nuôi trồng thủy sản trên diện tích mặt nước gấp 3 lần hồ thủy điện Sông Hinh.
Dự án còn có mục tiêu cải tạo môi trường điều hòa khí hậu trong vùng, mở ra khả năng phát triển du lịch sinh thái gắn với Khu bảo tồn thiên nhiên Krông Trai.
Đặc biệt hồ thủy điện Sông Ba Hạ còn có nhiệm vụ tham gia cắt lũ cho vùng hạ du, nhất là đối với vùng đồng bằng huyện, thành phố Tuy Hòa với tần suất 10%. Theo kế hoạch toàn bộ công trình sẽ hoàn thành vào cuối năm nay.
Thế nhưng kể từ ngày đi vào vận hành đến nay thủy điện sông Ba gây không ít 'tai tiếng'. Và đến bây giờ thì lộ mặt thủy điện chỉ lo cho "túi tiền" của doanh nghiệp.
Ông Nguyễn Anh Tuấn, Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực (Bộ Công Thương), cho rằng việc thực hiện đúng quy trình mới sẽ ảnh hưởng lớn đến các nhà máy thủy điện. Do đó phải tính toán để vừa giảm lũ cho hạ du nhưng phải đảm bảo lợi ích cho các nhà máy thủy điện!
Còn ông Đỗ Đức Quân nói: “Các hồ chứa này không thể chống lũ mà chỉ có thể giảm lũ. Trong khi không chống được lũ mà dành quá nhiều dung tích để giảm lũ thì mùa kiệt sẽ thiếu nước”.
Phương Nguyên (tổng hợp)

Năng suất lao động Việt Nam: Thấp do đâu?

BTTD: Người VN nói nhiều hơn làm.

Năng suất lao động Việt Nam: Thấp do đâu?

Theo số liệu của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), năng suất lao động của Việt Nam năm 2013 thuộc nhóm thấp nhất Châu Á–Thái Bình Dương, thấp hơn Singapore, Nhật và Hàn Quốc lần lượt là 15 lần, 11 lần và 10 lần.

Ngay cả so với các nước ASEAN có mức thu nhập trung bình, năng suất lao động của Việt Nam vẫn có khoảng cách lớn, chỉ bằng một phần năm Malaysia và hai phần năm Thái Lan.
Đáng chú ý là hiện tốc độ tăng của năng suất lao động đang giảm đi tại Việt Nam. Trong giai đoạn 2002-2007, năng suất lao động tăng trung bình 5,2%/năm - mức cao nhất trong khu vực. Tuy nhiên, kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, tốc độ tăng năng suất trung bình hàng năm của Việt Nam chậm lại, chỉ còn 3,3%/năm.
Một số chuyên gia cho rằng nguyên nhân của tình trạng năng suất lao động ở Việt Nam thấp là do lao động chưa được đào tạo phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp, thể lực người lao động kém, kỹ năng yếu, kỹ thuật và công nghệ sản xuất thấp v.v...
Theo đó, để cải thiện năng suất lao động thì phải khắc phục những mặt yếu kém này, ví dụ phải củng cố nguồn nhân lực, tăng cường thể chất, kỹ năng và trình độ người lao động, áp dụng kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến.
Tuy nhiên theo người viết, mọi chuyện đều không đơn giản, đúng hơn là không thẳng tuột như thế!
Để tìm đúng nguyên nhân năng suất lao động thấp trước tiên cần hiểu đúng khái niệm năng suất lao động. Theo định nghĩa chung nhất, năng suất lao động đo lường lượng hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trong một giờ lao động.
Vì không thể đo lường năng suất lao động của những người lao động thuộc các ngành nghề khác nhau tạo ra những sản phẩm và dịch vụ khác nhau, nên người ta sử dụng một đại lượng chung, đó là giá trị GDP ròng, hoặc giá trị gia tăng (đo bằng đơn vị tiền tệ), tạo ra trong một giờ lao động.
Với khái niệm và cách đo lường năng suất lao động như trên, có thể nói một cách khái quát rằng năng suất lao động tỷ lệ thuận với tổng GDP của cả nền kinh tế và tỷ lệ nghịch với tổng số giờ lao động tiêu tốn trong cả nền kinh tế để làm ra từng đó GDP.
Như vậy, với cùng quy mô dân số và lao động (giả thiết là cùng một cơ cấu dân số) thì nước nào có GDP lớn hơn sẽ có năng suất lao động cao hơn nước kia.
Trở lại với kết quả so sánh năng suất lao động nói trên của ILO. Không có gì đáng ngạc nhiên khi năng suất lao động của Việt Nam lại quá thấp so với những nước phát triển như Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, nơi có GDP bình quân đầu người đều cao tới hơn chục lần so với Việt Nam.Cũng tương tự nếu so với Malaysia và Thái Lan.
Do đó, để giảm chênh lệch này thì đương nhiên phải lấp đi khoảng cách về thu nhập bình quân đầu người. Mà để giảm chênh lệch thu nhập bình quân đầu người thì phải tăng tốc độ tăng trưởng GDP. Điều này cũng lý giải thực trạng tốc độ tăng trưởng năng suất lao động của Việt Nam chậm lại kể từ 2008 đến nay: tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã tụt giảm đáng kể so với giai đoạn tăng trưởng cao 2002-2007.
Để nâng tốc độ tăng trưởng GDP nhằm tăng năng suất lao động, chúng ta cần giải được bài toán khó vốn đang là đề tài nổi cộm hiện nay mà vì thế mới phải có những việc lớn như tái cơ cấu nền kinh tế, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy kinh tế tư nhân và FDI, tăng cường hòa nhập với nền kinh tế thế giới v.v...
Trên thực tế, việc nâng tốc độ tăng trưởng GDP và tăng năng suất lao động cũng giống như chuyện con gà và quả trứng. Vì tăng năng suất lao động cũng là giải pháp chính để cải thiện tốc độ tăng trưởng GDP.
Để tăng GDP hay tăng năng suất lao động thì đều cần phải có vốn tư bản (tiền để đầu tư mua máy móc, công cụ làm việc, càng nhiều tiền thì càng mua được máy móc, công cụ tốt), công nghệ mới (tự động hóa có thể giảm được số người làm việc), và vốn con người (người lao động có kiến thức và kỹ năng tốt thì mới sử dụng và làm chủ được công nghệ mới, thiết bị mới, mới tổ chức được sản xuất một cách hợp lý...).
Nhưng bản thân công nghệ mới và vốn con người, suy cho cùng lại đều phụ thuộc vào vốn tư bản - có tiền thì mới có khả năng đầu tư cho công nghệ cao, hiện đại, đầu tư vào giáo dục, đào tạo nhân lực v.v...
Tuy nhiên, có tiền mới chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ là phải tiêu số tiền đó ra sao cho hợp lý và đúng đắn nhất. Lời giải cho bài toán, xem ra, nằm ở đó.
Theo TS. Phan Minh Ngọc
Doanh nhân Online

Phát hiện hố khổng lồ thứ hai, lo ngại toàn cầu nóng lên

TTO - Một miệng hố khổng lồ nữa vừa được tìm thấy ở nơi được gọi là “tận cùng thế giới” tại Siberia, Nga. Giới khoa học đang lo ngại đó là hậu quả của toàn cầu nóng lên.

Miệng hố thứ nhất được trực thăng tìm thấy. Nằm cách nó khoảng 30km là một miệng hố có đường kính 15m - Ảnh: Siberian Times, AP
Một video về miệng hố thứ nhất được tìm thấy ở Siberia - Nguồn: YouTube
Theo tờ Moscow Times, hố khổng lồ thứ hai được những người chăn tuần lộc tìm thấy ở vị trí cách hố thứ nhất khoảng 30km. Thông tin ban đầu cho biết nó có đường kính nhỏ hơn hố thứ nhất, chỉ khoảng 15m và chứa đầy tuyết.
Cả hai cái hố đều nằm trên tầng đất bị đóng băng vĩnh cửu ở khu vực Yamal, nơi được gọi là “tận cùng thế giới”. Moscow Times nói dường như hai cái hố chỉ mới hình thành gần đây.
Tuy nhiên trang web Russia Behind the Headlines cho rằng thời điểm hình thành cái hố thứ hai có thể là vào tháng 9 năm ngoái, khi đó những người chăn tuần lộc kể họ nhìn thấy “một thiên thể rơi xuống và sau đó có ánh chớp lóe lên” ở khu vực nằm cách làng Antipayut 56 dặm.
Cả hai hố đều thu hút sự quan tâm của cộng đồng mạng lẫn giới khoa học, trong đó các video clip về hố thứ nhất đã thu hút hàng chục triệu lượt người xem, theo trang Russia & India Report ngày 27-7.
Phía cộng đồng mạng cho rằng các hố này là kết quả của vụ thử vũ khí bí mật, hoặc nổ thiên thạch, cũng có thể là “căn cứ” của người ngoài hành tinh… Giới khoa học cũng có nhiều ý kiến khác nhau về sự hình thành của hai hố.
Một số nhà khoa học nói đây có thể là sự khởi đầu của những thay đổi không thể đảo ngược trong khí hậu của hành tinh chúng ta. Cụ thể, hai hố hình thành là do sự phát thải của khí tự nhiên, mà điều này có thể do sự nóng lên toàn cầu gây ra.
Theo Moscow Times, các nhà khoa học Nga đã tiếp cận và nghiên cứu hố thứ nhất, và bước đầu kết luận hố xuất hiện rất có thể là kết quả của việc "gia tăng của áp lực quá mức" dưới lòng đất, và do thay đổi nhiệt độ. Tuy nhiên họ nói cần nghiên cứu thêm mới có câu trả lời chính xác.
Cận cảnh miệng hố thứ nhất - Ảnh: Siberian Times
Hố được cho là sâu 70m, và có hồ băng ở dưới đáy - Ảnh: Siberian Times
Một nhà khoa học đang nghiên cứu tại miệng hố thứ nhất - Ảnh: Russia & India Report
TƯỜNG VY

Nếu VN nhân nhượng, TQ sẽ lấn tới

BTTD: VN đã nhân nhượng và TQ đang lấn tới.

Đăng Bởi  - 
Nếu Việt Nam nhân nhượng, Trung Quốc sẽ lấn tới
Khẳng định Việt Nam cần phải kiện Trung Quốc ra Toà án Quốc tế, dù sẽ có những lợi - hại nhất định, trao đổi với Báo điện tử Một Thế Giới, GS Nguyễn Mạnh Hùng - chuyên gia về chính trị và bang giao quốc tế Viện đại học George Mason - cũng cho rằng: cái chính vẫn là tương quan lực lượng.
Tại ngày cuối, ngày 26.7, của Hội nghị quốc tế biển Đông 2014, học giả các nước tiếp tục thảo luận để tìm ra những giải pháp nhằm hạn chế những leo thang của Trung Quốc và nguy cơ xảy ra chiến tranh giữa các nước đang có tranh chấp trên biển Đông. 
Luật rừng của Trung Quốc hay luật quốc tế
Dự kiến sẽ trao đổi bài tham luận vào ngày cuối tại hội nghị, nhưng cuối cùng ông Cao Qun, Trung tâm An ninh hàng hải và hợp tác, ĐH Bắc Kinh, Trung Quốc vắng mặt. GS Carl Thayer, chuyên gia nghiên cứu về biển Đông thuộc Học viện quốc phòng Úc thay mặt đọc tham luận của ông Cao Qun, về quan điểm của Trung Quốc khi Philippines kiện Trung Quốc ra Tòa án trọng tài quốc tế về luật biển (UNCLOS). 
Trong tham luận, ông Cao Qun liên tục cáo buộc Philippines kiện Trung Quốc là không có cơ sở, vì Trung Quốc chỉ tuyên bố chủ quyền đường chín đoạn của mình, đồng thời cho rằng Trung Quốc không hề vi phạm UNCLOS. 
Đồng thời, ông Cao Qun cho rằng, đường chín đoạn đã ra đời rất lâu, từ năm 1947, trước khi UNCLOS ra đời. Trung Quốc có quyền và cơ chế lịch sử, nên Philippines không thể phê phán Trung Quốc đi ngược với UNCLOS được.  
“Xa hơn, Philippines đã thất bại trong việc thực hiện nghĩa vụ trao đổi với Trung Quốc về tranh chấp”, ông Cao Qun viết.
 Ảnh: L.Quỳnh
Tại hội nghị, phản ứng khá gay gắt với tham luận từ phía Trung Quốc, ông Renato De Castro, đến từ ĐH De La Salle, Philippines, cho rằng Trung Quốc đang thể hiện một sự hung hăng rất lớn khi liên tục thay đổi bản đồ mà không dựa trên cơ sở nào. 
Theo ông Renato De Castro, việc Philippines kiện Trung Quốc là hành động phản ứng của nước này khi bị Trung Quốc dồn vào việc phải chấp nhận việc Trung Quốc chiếm bãi cạn Scarboroug vào năm 2012.
Việc Trung Quốc cho rằng đã có đường lưỡi bò trước khi có UNCLOS là không có cơ sở. Nó được thực hiện bởi một cá nhân, mà một cá nhân thì không thể nào xác định được cương thổ quốc gia".
Ông Lê Vĩnh Trương, đến từ Quỹ Nghiên cứu biển Đông Nam Á.
Mọi buộc tội của Philippines với Trung Quốc đều có cơ sở. Trong vòng 17 năm quan, Trung Quốc luôn “làm ngơ” trước mọi yêu cầu cùng thảo luận về vấn đề tranh chấp trên biển Đông với Philippines, cũng như chưa bao giờ chịu giải thích đường chín đoạn là như thế nào. Vì vậy, các quốc gia có chủ quyền buộc phải đưa Trung quốc ra Tòa án quốc tế. 
“Chúng ta phải tôn trọng hệ thống luật quốc tế chứ không thể dùng "luật rừng" như Trung Quốc. Những nước lớn cũng phải tôn trọng luật quốc tế. Quốc gia lớn hay nhỏ đều có lợi ích quốc gia của mình và đều cần được tôn trọng”, ông Renato De Castro nói. 
Cần kiện Trung Quốc, nhưng cái chính vẫn là tương quan lực lượng  
Chia sẻ quan điểm với Philippines, ông Lê Vĩnh Trương, đến từ Quỹ Nghiên cứu biển Đông Nam Á, việc Việt Nam dùng luật pháp quốc tế, cụ thể là kiện Trung Quốc theo UNCLOS, là phương pháp văn minh, giảm sự leo thang chiến tranh của Trung Quốc, giảm nguy cơ hoặc chấm dứt chiến tranh.
Trong suốt nhiều năm quan, Trung Quốc đã có những hành vi bắt bớ, giết chết ngư dân Việt Nam, cắt cáp, đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào thềm lục địa Việt Nam… Việt Nam đã nỗ lực thương thuyết 26 lần với Trung Quốc nhưng nước này vẫn bặt âm vô tín. 
Vì vậy, theo ông Trương, nếu Việt Nam tiếp tục chính sách thương thuyết với Trung Quốc thì sẽ phải hối tiếc về sau. Điều này khiến Trung Quốc sẽ ngày càng gây hấn với Việt Nam hơn, Việt Nam ngày càng nhượng bộ và yếu thế; sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến cái nhìn của người dân Việt Nam lẫn quốc tế. 
GS Carl Thayer tại nơi trưng bày chứng cứ Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam bên ngoài hội nghị - Ảnh: L.Quỳnh 
“16 chữ vàng hoặc 4 chữ tốt cũng chỉ là uyển ngữ, đang đi ngược lại tình hình chính trị trong khu vực hiện tại. Chúng ta cần dùng mọi biện pháp để giảm nguy cơ chiến tranh. Nếu chỉ dùng duy nhất biện pháp thương thuyết thì đó sẽ là nguy cơ xảy ra chiến tranh”, ông Trương nói.
Đồng thời, việc kiện Trung Quốc không chỉ là phương pháp chủ động trong ngoại giao, tạo ra những hình ảnh tích cực về chính sách và chính trị cho Việt Nam, mà nó còn là liệu pháp vắc-xin về kinh tế về lâu dài với Việt Nam, đưa Việt Nam ra khỏi bị phụ thuộc vào Trung Quốc. 
Theo ông Trương, Việt Nam có thể gặp khó khăn về ngắn hạn, thậm chí trung hạn, nhưng về lâu dài Việt Nam có thể cân bằng về kinh tế, chính trị.
“10% của Việt Nam là xuất khẩu, nhập khẩu là 28%, Trung Quốc là một trong 7 quốc gia đầu tư lớn nhất ở Việt Nam. Nếu Trung Quốc cấm vận thì Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng 28%. Nhưng nhìn lại thời kì Việt Nam bị cấm vận 1975 – 1989, Việt Nam bị tác động đến 58%, nhưng sau đó, chỉ mất 2 năm, kinh tế Việt Nam đã phục hồi về xuất khẩu, tìm ra những thị trường khác như Châu Âu, Tây Âu, Châu Mỹ,…”, ông Trương dẫn chứng. 
Đồng quan điểm cần kiện Trung Quốc, trao đổi với Một Thế Giới, GS Nguyễn Mạnh Hùng - chuyên gia về chính trị và bang giao quốc tế Viện đại học George Mason – nói: vấn đề là mình kiện gì thôi.
Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước về vấn đề Việt Nam kiện Trung Quốc cho thấy cũng có cái lợi và cái hại, nhưng Việt Nam có nhiều lí do để kiện Trung Quốc. “Việc kiện tương đối thuận lợi cho Việt Nam. Tôi không lo mình bị thất bại. Mình kiện để buộc thế giới phải lên tiếng, và nhất là kiện ra Toà án trọng tài quốc tế thì không có phủ quyết được”, GS Hùng nói. 
Tuy nhiên, GS Hùng cho biết thêm, luật pháp chỉ có tính tương đối. Trong trường hợp Việt Nam thắng kiện mà Trung Quốc vẫn tiếp tục có những hành vi gây hấn thì cũng khó làm gì được, vì luật quốc tế không có định chế để thi hành, thành ra nó chỉ có tính cách ngoại giao, cái chính vẫn là tương quan lực lượng.
 Học giả các nước tại hội nghị - ảnh: L.Quỳnh
Cần là một Asian thống nhất, tin tưởng nhau
Thảo luận tại hội nghị, ông Hitoshi Nasu, ĐH quốc gia Australia đề nghị, các nước tranh chấp thay vì ngăn cấm, thì có thể cùng ngồi lại và thống nhất những hành động nào là thù địch và gây thù địch cho đối phương. Điều này sẽ giảm nguy cơ chiến tranh rất lớn. 
Còn GS Carl Thayer cho rằng, trong tình hình hiện nay, bộ Quy tắc ứng xử biển Đông (COC) phải còn mất rất lâu, có thể cả chục năm, để hoàn thiện. Trong khi đó, thực tế khối Asian là một khối bị chia rẽ, với những quyền lợi khác nhau, ngay cả trong nhóm các nước đang tuyên bố bị tranh chấp trên biển Đông cũng bị chia rẽ, không thống nhất trong ứng xử.
Vì vậy, rất cần phải xây dựng được khu hàng hải chung, an toàn, không bị chia cắt, và luật quốc tế được áp dụng cho mọi khu vực hàng hải chung, cả Đông Nam Á, chứ không chỉ biển Đông. Đồng thời, luật pháp quốc tế cũng phải là một phần và lồng ghép vào COC. COC phải được áp dụng toàn bộ vùng biển Đông Nam Á, có như vậy mới tăng được tính đoàn kết và giải quyết được những vấn đề khác. Các lí lẽ, lập luận khi đưa ra toà cũng vì thế mà mang tính thống nhất.  
“Thực tế, Trung Quốc đã tham gia nhiều đối thoại về tranh chấp lãnh thổ trên đất liền, cũng đã có một số nhượng bộ, nhưng vấn đề là Trung Quốc ngày càng trở thành cường quốc, không ngừng hiện đại hoá quân sự của mình. Vì vậy, nếu muốn giải quyết vấn đề khu vực thì cần lùi lại, nhìn lại bức tranh tổng thể của Trung Quốc. Và cần tăng cường tính thống nhất để Asian mạnh hơn, tăng cán cân khi xử lý, thương thuyết thảo luận với Trung Quốc. Trung Quốc khi đó phải tuân theo quy định quốc tế chứ không thể đánh lẻ. Việc cần xây dựng một hội đồng bảo an chính trị của Asian cũng là đề nghị của tôi”, GS Carl Thayer giải thích. 
Lê Quỳnh