Trang

13 tháng 6, 2014

Tự vệ Donetsk được "trang bị" vũ khí hạng nặng

 Theo nguồn tin từ Bộ Chỉ huy tự vệ vùng Donetsk công khai sáng 13-6, tự vệ địa phương đã được trang bị ít nhất 3 xe tăng chiến đấu chủ lực T-72.
"Chúng tôi có thể tái khẳng định rằng tự vệ đã được trang bị xe tăng. Sắp tới, chúng sẽ tham chiến ở những khu vực căng thẳng nhất", đại diện tự vệ vùng Donetsk cho biết. Từ nhiều nguồn tin, một trong những xe tăng của tự vệ địa phương trong ngày 12-6 đã đụng độ với Vệ binh quốc gia Ukraine ở Saur-Mogil, Donetsk.
Tuy nhiên, tự vệ Donetsk không cho biết họ lấy những đơn vị xe tăng trên từ đâu. Nhiều nguồn tin nhận định, tự vệ Donetsk đã lấy xe tăng từ căn cứ huấn luyện ở thành phố Snheznyoe và Tojez nằm gần biên giới giáp Nga.
 
 
Những đơn vị xe tăng đầu tiên của tự vệ vùng Donetsk.
Trong khi đó, Bộ Nội vụ Ukraine tuyên bố, trong vài ngày qua, nhiều chuyến hàng quân sự lớn đã vượt biên giới từ Nga sang các tỉnh miền Đông nước này.
"Thông tin tình báo cho biết, dù Nga tuyên bố hoan nghênh tiến trình lập lại hòa bình ở miền Đông Ukraine và tăng cường kiểm soát tuyến biên giới giáp Ukraine, nhưng nhiều đơn vị khủng bố vẫn vượt biên vào Ukraine thông qua ngả Deakovo", Bộ trưởng Nội vụ Ukraine Arsen Avakov tuyên bố.
Ông này cũng khẳng định, quân đội Ukraine đã phát hiện 3 xe tăng đang tiến về đến một số khu vực giao chiến ở Donetsk. "Chúng đang di chuyển về hướng thành phố Gorlovka", Bộ trưởng Nội vụ Ukraine cho biết.
Cần nhấn mạnh rằng, ngoài giả thuyết của chính quyền Kiev về việc tự vệ Donetsk có xe tăng và vũ khí hạng nặng từ phía Nga, miền Đông Ukraine là nơi tập trung nhiều cơ sở công nghiệp quốc phòng và quân sự lớn của Ukraine. Các chuyên gia ở đây có thể dễ dàng và nhanh chóng khôi phục hoạt động các đơn vị xe tăng cũ kể cả phương tiện quân sự nằm trong... viện bảo tàng. Gần đây, đã có ghi nhận về việc tự vệ Donetsk khôi phục hoạt động của xe tăng, xe lội nước từ thời thời Thế chiến thứ 2 như T-34-85 và IS-3.
TUẤN SƠN (tổng hợp)
QĐND Online 

Philippines-VN: 'Cáo cuộc đẩy giá gạo'


Công nhân chuyển gạo nhập từ Việt Nam ở kho dự trữ Lương thực Quốc gia Manila, Philippines
Bộ trưởng Nông nghiệp Philippines vừa bị cáo buộc tham ô tới 25 triệu USD trong một hợp đồng nhập khẩu gạo với Việt Nam, Thời báo BấmManila và BấmInquirer đồng loạt đưa tin vào ngày 12/6.
Hai tờ này trích lời Hiệp hội Bán lẻ Đô thị Manila (MMVA) cho rằng Bộ trưởng Nông nghiệp Procesco Alcala và cựu Giám đốc Cơ quan An ninh Lương thực Quốc gia Philippines (NFA) Orlan Calayag đã giúp sức kí kết hợp đồng nhập khẩu 800 nghìn tấn gạo từ Tổng công ty Lương thực Miền nam (Vinafood 2) tháng Tư năm nay.
Vào tháng Tư năm nay, Philippines đã chọn đơn thầu của Việt Nam, cung ứng 187.000 tấn gạo nhằm "tăng dự trữ và đáp ứng nhu cầu nhập khẩu hàng năm trước mùa mưa bão quý ba năm nay", theo Cơ quan Lương thực Quốc gia Philippines (NFA).
MMVA cáo buộc hai ông đã "giúp đội giá gạo" nhập khẩu lên ít nhất 30 đô la mỗi tấn và số tiền "lại quả" hai ông này có thể nhận được lên đến 25 triệu đô la.
Tổ chức này đã chính thức gửi đơn khiếu nại lên Văn phòng Thanh tra Philippines, tờ Inquirer cho biết.
“Hợp đồng sặc mùi tham nhũng này rõ ràng là rất bất thường,” khiếu nại của MMVA viết.
“Rõ ràng là không có l‎ý do nào để nhập khẩu gạo trong khi đất nước đang thừa nguồn cung,” MMVA cho biết rằng hợp đồng được ký kết vào tháng Tư, tức giữa mùa thu hoạch của Philippines lúc cung đang ở mức tối đa.
“Nó rõ ràng đã cướp đi một khoản lớn tiền của chính phủ, vốn có thể được dùng vào những dự án và dịch vụ hữu ích hơn.”
‘Việc nội bộ’
"Hợp đồng sặc mùi tham nhũng này rõ ràng là rất bất thường... Rõ ràng là không có lý do nào để nhập khẩu gạo trong khi đất nước đang thừa nguồn cung."
Khiếu nại của MMVA
Tổng giám đốc Tổng công ty Lương thực Miền Nam Huỳnh Thế Năng được BấmVnExpress dẫn lời nói điều ông gọi là "Vinafood 2 không liên quan đến việc ông Alcala bị cáo buộc tham nhũng."
Tuy vậy, ông này lại nói sẽ “không có bất kỳ giải thích nào” vì đó là “chuyện nội bộ Philippines hãy để cho nước này tự giải quyết”.
Đây là cáo buộc tham nhũng thứ tư nhằm vào bộ trưởng Nông nghiệp Philippines, và là cáo buộc thứ hai liên quan đến các hợp đồng mua gạo với Việt Nam.
Vào tháng 12/2013, ông này bị cáo buộc nhận hối lộ 10 triệu đô la từ phía Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA).
Philippines từng tuyên bố sẽ ngừng nhập khẩu gạo trong năm 2014 bởi đã đủ khả năng tự cung cấp cho thị trường nội địa, tờ Inquirer trích lời phát ngôn viên Tổng thống Aquino cho biết.
BBC

Nhật thúc đẩy khả năng xuất quân bảo vệ đồng minh

TT - Thủ tướng Nhật Shinzo Abe quyết tâm sớm rũ bỏ các hạn chế trong Hiến pháp để Lực lượng phòng vệ Nhật (SDF) có thể bảo vệ các đồng minh nước ngoài nếu chiến tranh xảy ra.


Binh sĩ Nhật trong lần thực tập bắn tên lửa - Ảnh: Reuters
Theo báo Asahi, mới đây ông Abe tuyên bố muốn Chính phủ phê chuẩn “cách hiểu mới” về Hiến pháp hòa bình Nhật trước khi Quốc hội kết thúc kỳ họp hiện tại vào ngày 22-6. Sự thay đổi này sẽ cho phép Nhật thực thi quyền “phòng vệ tập thể”. Điều đó có nghĩa là SDF được phép tham chiến nếu các đồng minh của Nhật, chẳng hạn như Mỹ, bị tấn công.
Đề xuất của Thủ tướng Abe hiện vấp phải phản ứng của Đảng Komeito Mới trong liên minh cầm quyền. Tuy nhiên báo Wall Street Journal dẫn lời một số nhà quan sát nhận định với tỉ lệ ủng hộ cao của dư luận dành cho ông Abe và vị thế mạnh mẽ của Đảng Dân chủ tự do (LDP) cầm quyền trong Quốc hội, Chính phủ Nhật có thể sẽ phê chuẩn kế hoạch này trong tuần tới.
Sáu điều kiện cần thiết
Điều 9 trong Hiến pháp Nhật không công nhận chiến tranh là phương tiện để giải quyết các xung đột quốc tế có liên quan đến nước này. Đã từ lâu, điều 9 được hiểu là quy định cấm Nhật sử dụng lực lượng vũ trang để hỗ trợ một quốc gia đồng minh bị tấn công. Tuy nhiên hồi tháng 5, một ủy ban tư vấn của Chính phủ công bố báo cáo nghiên cứu khẳng định cách hiểu này không giúp duy trì hòa bình và ổn định tại Nhật, trong khu vực và trên thế giới, “do các tình huống chiến lược liên tục thay đổi”.
Ủy ban tư vấn cho rằng Tokyo cần hỗ trợ nước đồng minh bị tấn công “nếu cuộc tấn công đó dẫn tới một cuộc tấn công trực tiếp vào Nhật, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quan hệ đồng minh Mỹ - Nhật, tới trật tự quốc tế, hủy hoại cuộc sống và quyền lợi của người dân Nhật”. Thủ tướng Abe cũng đánh giá quyền phòng vệ tập thể là cần thiết để đảm bảo sự an ninh, thịnh vượng của Nhật và hòa bình khu vực.
Theo đề xuất của Thủ tướng Abe, việc Nhật thực thi quyền phòng vệ tập thể phụ thuộc vào sáu điều kiện. Thứ nhất, một quốc gia đồng minh thân cận của Nhật bị tấn công. Thứ hai, Nhật sẽ đối mặt với nguy cơ an ninh nghiêm trọng nếu không sử dụng vũ lực. Thứ ba, một quốc gia thứ ba bị tấn công đề nghị sự hỗ trợ quân sự của Nhật. Thứ tư, thủ tướng quyết định dùng vũ lực. Thứ năm, Quốc hội phê chuẩn quyết định của thủ tướng. Thứ sáu, một quốc gia thứ ba cho phép Nhật đưa quân vào lãnh thổ nước này để giải quyết xung đột.
Một số nhà phân tích cho rằng ông Abe muốn sớm thúc đẩy quyền phòng vệ tập thể vì đang có dư vốn chính trị sau khi giành được sự ủng hộ mạnh mẽ của công chúng nhờ các chính sách thúc đẩy tăng trưởng. Trước đó ông cũng từng tuyên bố muốn cải tổ các quy định hướng dẫn hợp tác quốc phòng giữa Mỹ và Nhật vào cuối năm nay. Việc sớm đảm bảo quyền phòng vệ tập thể sẽ cho phép Tokyo có thêm thời gian để đàm phán với Washington.
Nguy cơ từ Trung Quốc
Trước Quốc hội Nhật, ông Abe khẳng định tình hình an ninh đang ngày càng trở nên bất ổn và nghiêm trọng tại châu Á - Thái Bình Dương, buộc Tokyo phải thực thi quyền phòng vệ tập thể. Hai mối đe dọa lớn nhất chính là tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc tại biển Đông và biển Hoa Đông cùng chương trình hạt nhân của CHDCND Triều Tiên.
Xã luận của báo The Economist bình luận sau Thế chiến II, Nhật đã trở thành “công dân gương mẫu” của thế giới, có nhiều đóng góp to lớn cho hòa bình và thịnh vượng châu Á. Hiến pháp hòa bình của Nhật có công lớn đối với thành tựu đó. Tuy nhiên, cách hiểu cũ đối với điều 9 Hiến pháp Nhật đã trở nên lỗi thời khi bất ổn và căng thẳng đang leo thang tại khu vực, đặc biệt là việc Trung Quốc tăng cường vũ trang dữ dội và liên tục gây hấn trên biển Đông.
Bằng chứng mới nhất là việc Trung Quốc chiếm bãi cạn Scarborough nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines và đưa giàn khoan 981 cùng tàu chiến tới vùng thềm lục địa và EEZ của Việt Nam. Trong thời gian qua, chính quyền Trung Quốc chỉ trích kế hoạch phòng vệ tập thể của ông Abe là “đưa Nhật trở lại với chế độ quân phiệt”. Nhưng The Economist nhấn mạnh chính truyền thông Trung Quốc đang hô hào dùng vũ lực đối phó với Mỹ và các nước láng giềng. Chính phủ Bắc Kinh còn điều tàu chiến tới biển Đông và tàu tuần tra đến biển Hoa Đông.
Hành động của Trung Quốc cũng đang trực tiếp đe dọa Nhật. Trong nhiều tháng qua, Bắc Kinh liên tiếp điều tàu tuần tra tới vùng biển quần đảo Senkaku/Điếu Ngư do Tokyo kiểm soát. Theo báo Japan Times, hôm qua Bộ Ngoại giao Nhật đã triệu tập đại sứ Trung Quốc tại Tokyo để phản đối vụ Bắc Kinh điều hai máy bay chiến đấu Su-27 áp sát máy bay tuần tra Nhật trên bầu trời biển Hoa Đông hôm 11-6. Vụ việc tương tự cũng xảy ra ngày 25-5.
HIẾU TRUNG
Úc ủng hộ quyền phòng vệ tập thể của Nhật
Theo AFP, trong chuyến thăm Tokyo hôm qua, Ngoại trưởng Úc Julie Bishop lên tiếng ủng hộ Nhật thực hiện quyền phòng vệ tập thể. “Úc nhận thấy những lợi ích to lớn đối với khu vực nếu Nhật đóng vai trò lớn hơn để đảm bảo hòa bình, an ninh khu vực và quốc tế. Chúng tôi sẽ ủng hộ Nhật” - bà Bishop khẳng định. Ngoại trưởng Úc cũng nhấn mạnh Nhật cần đóng vai trò lớn hơn trong việc giải quyết các xung đột tại khu vực. Trước đó Chính phủ Mỹ cũng nhiều lần bày tỏ sự ủng hộ đối với kế hoạch của ông Abe. 

“Washington không để Trung Quốc muốn làm gì thì làm”

TTO - Nhà phân tích nổi tiếng Ernest Z. Bower, chuyên gia về Đông Nam Á thuộc Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS, Mỹ), nhận định sẽ không có chuyện Mỹ để Trung Quốc muốn làm gì thì làm trên biển Đông.

Tàu Trung Quốc liên tục hung hăng xịt vòi rồng vào tàu kiểm ngư Việt Nam

Trả lời phỏng vấn Đài truyền hình Đức Deutsche Welle và báo Mỹ Washington Times, chuyên gia Bower cho rằng Trung Quốc liên tục gây hấn trên biển Đông xuất phát từ việc Bắc Kinh cho rằng Mỹ không dám can thiệp nếu xung đột xảy ra trong khu vực. “Đó là lý do vì sao Trung Quốc đưa giàn khoan tới vùng biển Việt Nam” - chuyên gia Bower cho biết.
“Tuy nhiên Bắc Kinh không nên nhận định sai tình hình. Quan điểm cho rằng Mỹ sẽ không can thiệp quân sự để Trung Quốc muốn làm gì thì làm trên biển Đông là hoàn toàn sai lầm”.
Xã luận của báo Hàn Quốc Korea Herald cho rằng cộng đồng quốc tế cần nhìn thấu rõ ý đồ của Trung Quốc. Đó là biến biển Đông thành “ao nhà” của Bắc Kinh.
Tiếp nối chiến lược bịa đặt và vu cáo Việt Nam trên trường quốc tế, mới đây ông Zhao Qinghai, giám đốc Trung tâm An ninh hàng hải thuộc Viện Nghiên cứu quốc tế Trung Quốc, đã gửi bài viết tới báo The Australian cho rằng Việt Nam không có chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa. Sau đó cũng trên báo này, đại sứ Trung Quốc tại Úc Ma Zhaoxu cũng viết bài với luận điệu tương tự.
Trong bài viết, ông Zhao bịa đặt rằng Trung Quốc đã sở hữu Hoàng Sa từ 2.000 năm trước và xuyên tạc rằng công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa. Lập tức giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Úc đã gửi thư tới báo The Australian bác bỏ luận điệu xuyên tạc trên.
Giáo sư Thayer cho rằng không thể coi ông Zhao là một học giả bởi ông này chỉ xào lại quan điểm của Bộ Ngoại giao Trung Quốc và chỉ rõ giàn khoan Hải Dương 981 không hề nằm trong vùng biển của Trung Quốc như ông này khẳng định.
Giáo sư Thayer cho biết công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 không hề đề cập đến Hoàng Sa hay Trường Sa. Giáo sư Thayer cũng bác bỏ những thông tin sai trái trong bài viết của đại sứ Ma Zhaoxu. Ông nhấn mạnh Việt Nam đã liên tục nỗ lực đàm phán với Trung Quốc nhưng phía Bắc Kinh chỉ đáp trả bằng sự im lặng.
“Trung Quốc nên rút giàn khoan và các tàu ra khỏi vùng biển này. Trung Quốc cũng nên phản hồi một cách tích cực việc Việt Nam đề nghị đàm phán” - giáo sư Thayer kêu gọi.
HIẾU TRUNG

12 tháng 6, 2014

Việt Nam yếu vì nền kinh tế gia công toàn diện!

(Doanh nghiệp) - Đã có nhiều chứng minh cho rằng nền kinh tế của VN ta là nền kinh tế gia công toàn diện.
FDI: Tất cả mục tiêu đều không đạt
Chuyên gia kinh tế Bùi Trinh cho biết, đã có nhiều chứng minh cho rằng nền kinh tế của VN ta là nền kinh tế gia công toàn diện. Khu vực FDI hay khu vực trong nước cũng đều là gia công.
Theo nghiên cứu của nhóm Fulbright nhận định, chỉ có khu vực FDI là hoạt động tốt do không bị ảnh hưởng nhiều bởi thể chế trong nước và còn được ưu đãi đủ thứ.
Tất cả khu vực FDI hay khu vực trong nước cũng đều là gia công
Tất cả khu vực FDI hay khu vực trong nước cũng đều là gia công
Ngược lại phía VN được gì? Thực chất VN kỳ vọng vào luồng tiền và chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý, thu hút lao động... tất cả các mục tiêu này đều không đạt được.
TS Đỗ Thiên Anh Tuấn - giảng viên Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright chỉ rõ, các doanh nghiệp FDI cũng như các doanh nghiệp nội không thấy được lợi ích từ việc chuyển giao công nghệ mặc dù một trong những mục tiêu thu hút FDI mà Việt Nam đã đặt ra chính là mong muốn nhận được những công nghệ tiên tiến hơn.
Lý giải nguyên nhân khiến việc chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội đã không diễn ra như kỳ vọng về cả số lượng lẫn chất lượng, TS Anh Tuấn cho rằng: "chính sách và môi trường thu hút FDI của chúng ta không được thiết kế để khuyến khích và thúc đẩy các hoạt động chuyển giao công nghệ".
Để thu hút được dòng vốn nước ngoài, chúng ta đưa ra rất nhiều biệt đãi chẳng hạn như ưu đãi thuế hay chính sách thuê đất nhưng không kèm theo những ràng buộc. Do không có ràng buộc phù hợp nên nhiều doanh nghiệp FDI đến Việt Nam chỉ để tận dụng các biệt đãi này mà hầu như không phải thực hiện cam kết nào, và một khi các ưu đãi này không còn họ sẽ tìm kiếm các ưu đãi khác hoặc rút đi khi môi trường không còn thuận lợi so với các nước khác.
Việc chuyển giao công nghệ xét cho cùng cũng xuất phát từ vấn đề lợi ích và chi phí. Khi các doanh nghiệp FDI không nhìn thấy các lợi ích ròng có tính chất dài hạn rõ ràng từ việc chuyển giao công nghệ thì họ không có động cơ gì để phải chia sẻ hiểu biết và chuyển giao công nghệ. Trong trường hợp này, các quy định có tính chất gây áp lực buộc chuyển giao công nghệ mang tính hành chính sẽ không thể giải quyết được vấn đề.
Chúng ta không nên trông chờ các doanh nghiệp FDI sẽ chuyển giao công nghệ cho chúng ta, càng không nên hy vọng đó là công nghệ hiện đại. Không ai sẵn lòng chia sẻ cái tốt nhất, bí kíp công nghệ mà họ có cho người khác trừ khi nó giúp tối đa hóa lợi nhuận cho họ.
Phân tích thêm, chuyên gia Bùi Trinh cho biết, về luồng tiền, thì chi trả sở hữu thuần (net, property income) ngày càng nhiều, chi trả sở hữu thuần năm 2012 so với 2000 tăng 26 lần (tất nhiên có một phần trả lãi), thuế má cũng không thu được nhiều do chuyển giá.
Theo một số tính toán thì chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp của khu vực này thậm chí âm. Bản chất của khu vực này là làm gia công, nên phần giá trị tăng thêm thu được cũng cơ bản là sức lao động rẻ mạt mà điển hình là công nhân các khu công nghiệp Bình Dương, Đồng Nai, Hà Tĩnh.
Như vậy cả kinh tế trong nước và FDI đều là gia công cả, một câu hỏi đặt ra thế tại sao lại ưu ái FDI so với các doanh nghiệp nội nhiều như thế?
Không nên nhìn GDP là một thành tích
Chuyên gia Bùi Trinh phân tích, cái mà một số người có ý kiến về vấn đề này là đỏi hỏi một sân chơi bằng phẳng giữa các khu vực sở hữu (nhà nước, dân doanh và FDI) chứ không phải ghét bỏ gì FDI.
FDI tăng trưởng có thể làm tăng GDP nhưng GDP là một chỉ tiêu rất hời hợt! Cái cuối cùng mà một Quốc gia thực sự có là Tổng thu nhập Quốc gia (GNI), Thu nhập Quốc gia khả dụng (NDI) và để dành thuần (saving).
Khi FDI có lợi nhuận phần nó chuyển về nước sẽ làm giảm Thu nhập Quốc gia và để dành thuần. Các nhà hoạch định chính sách cần nhìn vào thực chất của nền kinh tế không nên nhìn vào chỉ tiêu ít ý nghĩa và phù phiếm như GDP để đánh giá thành tích.
Khi có sự cố giữa VN và một nước nào đó VN sẽ ảnh hưởng ở các yếu tố (1) lượng FDI của nước đó (2) xuất khẩu của nước đó, xuất khẩu giảm sẽ kéo theo đầu ra giảm (output) giảm và từ đó kéo theo thu nhập (income) giảm (3) nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất.
Ông Trinh cho rằng, thách thức này cũng là dịp nhìn lại nền kinh tế một cách nghiêm túc để tái cơ cấu về cấu trúc chi phí (input structure change) và cấu trúc về sở hữu.
Đi vào cụ thể với Trung Quốc, theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ KH&ĐT), dòng vốn FDI từ Trung Quốc vào Việt Nam đã tăng mạnh trong lĩnh vực BĐS, gấp 7 lần so với 2012.
Giữa lúc BĐS đang thua lỗ nặng, các đại gia phải chuyển vốn sang cả nông sản để cố sống sót, hiện tượng dòng vốn FDI Trung Quốc lại tăng vốn vào đúng lĩnh vực này.
Chuyên gia Bùi Kiến Thành phân tích: "Vấn đề thứ nhất là tình hình bất động sản đóng băng, đại gia kẹt tiền, ngân hàng cũng kẹt vào nợ xấu, có thể bán tháo một số dự án, tài sản bất động sản, ai có tiền, người ta vào người ta mua. Trung Quốc có rất nhiều tiền, họ tìm thấy cơ hội mua bất động sản với giá bèo.
Nhưng vấn đề khác cần phải xem xét là Trung Quốc có ý gì khác ngoài kinh tế hay không? Ở khu vực miền núi phía Bắc, người Trung Quốc qua thuê mấy trăm nghìn hecta đất làm kinh tế.
Ở nhiều nơi, Trung Quốc đã thuê đất ở các địa phương với thời hạn lên đến 70 năm, rồi xây tường bảo vệ dài đến 15-17 km.
Hiện nay Trung Quốc có hơn 4.000 tỷ USD dự trữ ngoại hối, Trung Quốc có thể bỏ ra 500-1.000 tỷ USD đầu tư vào Việt Nam thuê đất của Việt Nam từ 50-70 năm… rồi sau đó sẽ tính!
Vì vậy, cần phải suy nghĩ và dè chừng việc Trung Quốc đầu tư về kinh tế, bằng số tiền mà họ có trong tay, không nên quá háo hức trải thảm đỏ kêu gọi và rước FDI từ Trung Quốc".
Hiếu Lam

Vì sao thế giới ngày càng ghét Trung Quốc?


Hành động Trung Quốc hung hăng tranh giành chủ quyền trên Biển Đông cho thấy quốc gia này không quan tâm tới hình ảnh của mình trong mắt các nước láng giềng châu Á.
Hành động Trung Quốc hung hăng tranh giành chủ quyền trên Biển Đông cho thấy quốc gia này không quan tâm tới hình ảnh của mình trong mắt các nước láng giềng châu Á.

Số người Nhật coi Bắc Kinh là nguyên nhân gây ảnh hưởng tiêu cực tại châu Á lên tới 73%. Chỉ 10% người dân Đức nhìn Trung Quốc với con mắt tích cực, trong khi có tới 76% ghét cay ghét đắng Trung Quốc.

Theo tạp chí The Diplomat, Trung Quốc đang coi trọng lợi ích quốc gia bao gồm việc tranh giành chủ quyền lãnh thổ của các nước láng giềng mà không hề lo sợ hình ảnh của mình xấu đi trong con mắt cộng đồng quốc tế. Kết quả cuộc khảo sát gần đây của BBC World Service cho thấy hình ảnh Trung Quốc trong mắt bạn bè quốc tế không hề hoàn hảo như mong đợi.
Mặc dù trong năm nay, mức đánh giá của cộng đồng quốc tế về tầm ảnh hưởng của Trung Quốc giữa tiêu cực và tích cực đã đạt tỷ lệ cân bằng (42%) song hình ảnh của Trung Quốc tại Nhật Bản và Hàn Quốc – hai quốc gia láng giềng châu Á quan trọng nhất của Bắc Kinh, lại xuống dốc thảm hại.
Tuy nhiên, hình ảnh của Trung Quốc tại những vùng đất xa xôi như châu Phi và Mỹ Latinh lại khá tích cực. Trong số 3 quốc gia châu Phi tham gia khảo sát, tỷ lệ số người có cái nhìn tích cực với Trung Quốc đạt con số khá cao với Nigeria (85%), Ghana (67%), và Kenya (65%). Ngoài ra, tại 4 nước Mỹ Latinh, chỉ có Mexico có cái nhìn tiêu cực hơn về Trung Quốc (40%), trong khi tỷ lệ ủng hộ tại 3 nước còn lại khá cao Peru (54%), Brazil (52%), Argentina (45%).
Tại Hàn Quốc, chỉ có 32% người dân có cái nhìn tích cực đối với Trung Quốc trong khi 56% lại có tư tưởng ngược lại. Tại Nhật Bản, tỷ lệ ủng hộ Trung Quốc đã xuống mức thấp kỷ lục chỉ có 3%. Số người coi Bắc Kinh là nguyên nhân gây ảnh hưởng tiêu cực tại châu Á lên tới 73%.
Đáng ngạc nhiên là diện mạo quốc tế của Trung Quốc lại cực kỳ tiêu cực tại những nước phát triển như Anh (49%), Australia (47). Đặc biệt, chỉ 10% người dân Đức nhìn Trung Quốc với con mắt tích cực, trong khi có tới 76% ghét cay ghét đắng Trung Quốc.
Câu hỏi đặt ra là “Liệu Trung Quốc có quan tâm tới hình ảnh của mình trong mắt bạn bè quốc tế?” Lối hành xử ngày càng hung hăng của Trung Quốc trên biển Hoa Đông và Biển Đông đã cho thấy Bắc Kinh dường như không quan tâm tới hình ảnh của mình trong mắt các nước láng giềng châu Á nói riêng và cộng đồng quốc tế nói chung.
Tuy nhiên, điều này lại hoàn toàn mâu thuẫn với những nỗ lực nhằm cải thiện sức mạnh mềm và xây dựng hình ảnh quốc gia trên thế giới trong những năm qua của Trung Quốc. Do đó, điều khó hiểu là: Nếu Trung Quốc quan tâm tới hình ảnh quốc tế của mình, tại sao họ lại hành xử theo lối gây tổn hại tới hình ảnh như vậy? Thậm chí, một số quốc gia châu Á còn coi Trung Quốc là "kẻ to đầu chuyên đi bắt nạt".
Vì sao thế giới ngày càng ghét Trung Quốc? (1)
Có 3 khả năng giải thích cho sự mâu thuẫn giữa chiến dịch đánh bóng hình ảnh quốc gia và lối cư xử hung hăng gần đây của Trung Quốc. Nguyên nhân thứ nhất là có thể, Trung Quốc đã không phân định rõ ràng về khái niệm hình ảnh quốc gia hay sức mạnh mềm. Theo thuyết duy thực tại Trung Quốc, điều quan trọng nhất trên chính trường quốc tế là sức mạnh vật chất nên sức mạnh mềm chỉ là phần phụ.
Do đó, giới lãnh đạo Trung Quốc chấp nhận quan điểm của Tào Tháo khi xưa là “Ta thà phụ người chứ không để người phụ ta”. Lối suy nghĩ này đã chi phối các chính sách ngoại giao trong những năm gần đây của Trung Quốc, và không hề bất ngờ khi Bắc Kinh cảm thấy không cần phải cải thiện hình ảnh quốc gia.
Nguyên nhân thứ hai là Trung Quốc có thể cũng quan tâm về hình ảnh quốc gia nhưng lại thiếu kinh nghiệm hoặc thậm chí còn quá vụng về trong khâu quảng bá hình ảnh đất nước. Điển hình, trong những năm gần đây, Trung Quốc đã huy động khá nhiều nguồn lực vào “ngoại giao công chúng" như nguồn tài chính đổ vào tổ chức Olympics Bắc Kinh 2008 để quảng bá hình ảnh tích cực quốc gia. Đây cũng là cách mà Trung Quốc mong muốn xây dựng hình ảnh hòa bình và tích cực trước mắt bạn bè quốc tế.
Tuy nhiên, khả năng trình độ của những quan chức chịu trách nhiệm xây dựng hình ảnh của Trung Quốc còn khá kém cỏi hoặc do sự phối hợp chưa nhịp nhàng giữa các bộ, ban, ngành như Bộ Ngoại giao và quân đội nước này đã mang lại kết quả không như mong đợi.
Nguyên nhân cuối cùng dẫn tới việc Trung Quốc thờ ơ xây dựng hình ảnh quốc gia là do giới lãnh đạo đã đặt lợi ích quốc gia lên trên hết mà trọng tâm là chủ quyền quốc gia và hợp nhất lãnh thổ. Như tuyên bố của Chủ tịch Tập Cận Bình hồi đầu năm nay, Trung Quốc sẽ không bao giờ hy sinh lợi ích quốc gia cốt lõi trong bất cứ hoàn cảnh nào. Do đó, hình ảnh quốc gia được Trung Quốc xếp hàng thứ hai sau chiến lược toàn vẹn lãnh thổ.
Nội dung được thực hiện qua tham khảo nguồn tin từThe Diplomat, một tạp chí có trụ sở ở Tokyo, chuyên về chính trị, văn hóa và xã hội tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.
Theo Minh Thu
Infone

TP.HCM: Gần 4.000 công nhân vệ sinh môi trường bị nợ lương


TP.HCM: Gần 4.000 công nhân vệ sinh môi trường bị nợ lương

Suốt 5 tháng nay, gần 4.000 công nhân ngành vệ sinh môi trường của TP.HCM vẫn chưa được trả lương.

Hợp tác xã Vận tải Công Nông có hơn 130 công nhân, xã viên và gần 40 đầu xe với công việc thu gom và vận chuyển rác ngày đêm trên địa bàn Tôn Thất Thiết và Tân Hóa (TP.HCM). Mỗi tháng vận chuyển trên 1.000 tấn rác với khoảng 5 tỷ đồng cho việc trả lương, 5 tháng là 25 tỉ đồng. Không có lương, nhưng việc thu gom rác thì vẫn không nghỉ.
Một số xã viên của HTX Công Nông đã phải vay mượn để lấy tiền mua nhiên liệu cho xe chở rác và trả lương cho tài xế, để đảm bảo việc thu gom, vận chuyển rác không bị gián đoạn. Cũng như vậy, Công ty TNHH Công Ích quận 3 đã phải sử dụng nguồn vốn điều lệ của công ty để trả lương cho hơn 310 công nhân đang hoạt động, tương ứng 5 tỷ đồng. Trên toàn địa bàn TP.HCM, gần 4.000 công nhân vệ sinh môi trường vẫn đang chờ lương.
Lý do được đưa ra là các công ty và hợp tác xã vệ sinh môi trường trên địa bàn đến nay vẫn chưa được ký hợp đồng chi trả chi phí vận chuyển thu gom rác, trong khi những năm trước, hợp đồng phải được thành phố tái ký chậm nhất vào tháng 2.

Theo Thúy Hằng
VTV