Trang

2 tháng 6, 2014

Chi 10.000 tỷ xây nhà hát:Vẽ dự án viển vông để..xà xẻo?

BTTD: Cũng như siêu dự án "Viết lại sách giáo khoa" hết  34 000 tỷ vnd của Bộ Giáo Dục, họ vẽ ra dự án để  đục khoét tiền thuế của dân.
(Sự kiện) - "Đừng nên dồn ép bắt người dân tiếp nhận những giá trị văn hóa quá cao siêu, bằng một công thức viển vông, thiếu thực tế".
Đó là nhận định của TS Nguyễn Xuân Thủy – nguyên Giám đốc Nhà xuất bản giao thông – một chuyên gia có hơn 30 năm kinh nghiệm nghiên cứu giao thông của nhiều quốc gia trên thế giới, trước đề án chi hơn 10 ngàn tỷ đồng để xây mới và trùng tu hệ thống nhà hát trên cả nước.
Đừng làm cho cái 'sự ế' tăng thêm
PV:-  Bộ VHTT&DL vừa đưa ra đề án đầu tư xây mới và trùng đại tu lại 71 nhà hát trên cả nước với tổng vốn đầu tư lên đến hơn 10 ngàn tỷ đồng. Trong khi đó, thực tế hiện nay, các sân khấu nhà hát không thể sáng đèn hàng đêm vì không có khan giả. Ông đánh giá tính thực tế của đề án này như thế nào, thưa ông?
TS Nguyễn Xuân Thủy: - Theo tôi đây cũng là một ý tưởng tốt, vì nó tạo ra trung tâm văn hóa cho các địa phương trên cả nước, tăng thêm nhịp độ phát triển và thưởng thức văn hóa của người dân.
Tuy nhiên, ở đây phải nhìn thấy rằng, nhìn vào thực tế hiện nay, nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân, hầu hết là văn hóa gia đình, tức là sử dụng Internet, sử dụng vô tuyến, đài phát thanh - truyền hình. Do các phương tiện thông tin đại chúng quá phong phú, chương trình dày đặc, mỗi loại lại có sự hấp dẫn riêng của nó, nên tạo cho người dân có thói quen, ít đi đến các nhà hát, kể cả rạp chiếu phim để thưởng thức văn hóa.
Vì vậy, nên xem xét lại mức độ cần thiết của dự án này. Tôi thiết nghĩ, tùy từng địa phương, tùy nơi để đầu tư, ví dụ tỉnh nào đó, vùng sâu vùng xa, nhân dân ít có các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, Internet thì trên cơ sở nhu cầu của người dân mà xây dựng đề án.
Có thể là Tuyên Quang, Cao Bằng nếu nhân dân cần xem phim, xem hát thì hãy xây dựng. Còn những nơi như HN, TPHCM nếu thấy đã đủ nhà hát, nhà văn hóa rồi thì theo tôi không cần xây thêm nữa.
Ngay như Nhà hát lớn Hà Nội cũng là một nhà hát có tiếng và thu hút được nhiều người, nhưng không phải lúc nào cũng sáng đèn, rồi Nhà hát cải lương, Nhà hát Tuổi trẻ, cùng một số trung tâm văn hóa khác, tôi thấy bằng đó cũng đã đủ để sử dụng thì không nên xây dựng thêm nữa.
Tức việc xây dựng nhà văn hóa phải tiệm cận với nhu cầu thực tế, chứ không phải xây dựng nhiều nhà văn hóa ở khắp cả nước, kể cả vùng cao, vùng xa, xây xong thì để không, dĩ nhiên như vậy thì sẽ gây lãng phí.
TS Nguyễn Xuân Thủy.
TS Nguyễn Xuân Thủy.
Nên phải xem người dân thích loại hình văn hóa nào, chứ không phải xây dựng tràn lan. Nói tóm lại, nên rà soát lại cái gì cần làm và có sự thăm dò ý kiến của người dân, khảo sát, đánh giá, thống kê, từ đó rút ra nơi nào thật cần thiết phải xây.
PV:- Còn nhớ, Thái Nguyên cũng có tới 4 nhà hát mà bỏ hoang cả bốn, rồi các nhà văn hóa xã hiện nay xây ra cũng chỉ để tiếp khách và tổ chức hội nghị, thậm chí để tổ chức đám cưới.
Giờ đây, chúng ta lại chi hơn 10 ngàn tỉ đồng để nâng cấp, trùng tu, xây mới có phải vì chúng ta dự đoán nhu cầu hưởng thụ văn hóa nhà hát của dân sẽ tăng vọt nên phải đón đầu đáp ứng?
TS Nguyễn Xuân Thủy: - Tôi cho rằng dự báo như vậy là thiếu thực tế, khoa học, các nhà hát đang xây dựng, thừa ế ra tại Thái Nguyên, thậm chí Hà Nội, Tp.HCM, Cần Thơ... tại sao lại làm cho "sự ế" đó tăng thêm?
Còn nhu cầu của người dân có tăng lên hay không thì phải nhìn vào thực tế công suất sử dụng hiệu quả. Nếu những nơi đang thừa ế mà lại kêu là sắp tăng lên thì tôi lại thấy nó giống như là các Trung tâm thương mại, xây dựng thêm rồi lại để không như Cửa Nam, Hàng Da rồi hàng trăm khu trung tâm thương mại khác khắp cả nước, xây dựng xong không ai đến.
Nhà hát cũng vậy, nếu không tính toán kỹ, dự báo thì phải trên cơ sở khảo sát, trên cơ sở thăm dò ý kiến của dân, thống kê trực tiếp nhìn nhận nhu cầu của người dân mà đầu tư xây dựng.
Việc dự báo cũng phải nhìn khả năng truyền tải nghệ thuật đến đâu, chúng ta có bao nhiêu đoàn văn công, khả năng văn hóa quần chúng như thế nào, mức độ hưởng thụ của người dân như thế nào?
Tôi lấy ví dụ như một nhà hát ở Bắc Ninh, thì nó có đoàn văn công, đoàn quan họ Bắc Ninh có khả năng thu hút người xem, 1 tuần bao nhiêu lần, dựa trên đó mà hãy xây dựng cái cơ sở văn hóa tương xứng với nhu cầu. Chứ có tỉnh không có đoàn văn công nào, thậm chí hàng tháng không biểu diễn lần nào thì xây nhà hát làm gì, khi nó không có tác dụng, thậm chí vô ích.
Nhà quản lý đang mơ mộng với văn hóa cao siêu
PV:- Hiện chúng ta đã có 71 nhà hát. Việc xây thêm như vậy chẳng lẽ phải hiểu là cách Bộ văn hóa muốn phổ biến nhà hát theo đầu dân theo kiểu “tính cua trong lỗ”? Nếu không như vậy, theo dự đoán của ông, lý do thực khiến Bộ đưa ra đề án này là gì?
TS Nguyễn Xuân Thủy: - Đúng là Bộ văn hóa đang có ý định tính toán theo đầu dân, nhưng thiết nghĩ, đừng có tính theo kiểu bao nhiêu đầu dân thì có 1 nhà văn hóa, như vậy mới là có văn hóa mà phải trên cơ sở thực tế là người dân có nhu cầu, nhu cầu đó được nghiên cứu cẩn thận, một cách khoa học thì hãy xây dựng.
Tại sao các nhà quản lý, không nhìn vào các nhà văn hóa tại địa phương hiện nay, mà lấy làm kinh nghiệm, cứ nghĩ mỗi xã có một nhà văn hóa thì người dân sẽ đến đó hưởng thụ văn hóa, nhưng thực tế không phải như vậy. Nhiều nhà văn hóa hiện nay đều phòng không, nhà trống, không được sử dụng, gây lãng phí bao nhiêu tỷ đồng, số tiền đó có thể dùng làm nhiều việc có ích, tốt hơn. 
Tiền đó có thể sử dụng mua những phương tiện thông tin cho hộ dân nghèo, tỷ lệ hộ dân không có vô tuyến hiện nay trên cả nước cũng không ít, hơn 20%, có phải 15-17 triệu người không có vô tuyến. Sao không tích tiền đó, để mua vô tuyến tặng cho những gia đình không có vô tuyến, như vậy ta sẽ truyền bá được những tư tưởng, văn hóa đến từng gia đình, người dân được hưởng thụ văn hóa một cách hợp lý và thuận lợi hàng ngày, hàng giờ, chứ không phải đến tận nhà hát.
Còn ý tưởng của Bộ văn hóa là tốt, phải có nhà hát, ở các nước có opera, có giao hưởng, nhạc cổ điển, nhưng nước ta trình độ dân trí chưa đến mức cảm thụ được. Ví dụ ở Nga, có nhà hát Bolshoi, có những vở kịch, vở opera cực kì hay, nhưng người xem được những chương trình đó mới đủ trình độ văn hóa, ngang tầm với thời đại.
Nhưng đó là do trình độ văn hóa nước họ cao như vậy cho nên nước mình kể cả biểu diễn múa ba lê đã có mấy người xem vì trình độ dân trí của ta chậm hơn các nước khác ít nhất cũng nửa thế kỷ, ta phải công nhận, thực tế chúng ta trải qua bao nhiêu năm chiến tranh, đời sống nhân dân khó khăn, đô hộ bao nhiêu năm, nên không thể có trình độ nhận thức nhanh như các nước khác.
Vì vậy việc xây dựng nhà hát phải trên cơ sở trình độ dân trí hiện tại, dự báo trong tương lai, chứ không rất lãng phí, chứ đừng nên dồn ép bắt người dân tiếp nhận những giá trị văn hóa quá cao siêu, bằng một công thức viển vông, thiếu thực tế.
Hiện nay, Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Nhật bình quân mỗi năm người ta có khoảng 15-20 đầu sách/người dân, trong khi nước mình có 3,5 đầu sách/người dân. Tại sao ta không tập trung phát triển mạnh cái xuất bản, báo chí, có trung tâm thư viện lớn, thu hút người dân đến đọc sách/báo, theo tôi nó thực tế hơn, nâng cao dân trí nhanh hơn.
Còn nếu cứ làm theo nghị quyết của Quốc hội, của các cấp, mỗi tỉnh có bao nhiêu nhà văn hóa, nhà hát thì mới tương ứng với tiêu chuẩn xã văn hóa, tỉnh văn hóa, trên cơ sở những tính toán viển vông như vậy nên họ mới đưa ra những dự án rất tốn tiền.
Có nghĩa chúng ta cũng đã cầu thị, học hỏi, làm theo nước ngoài nhưng áp dụng không nhuần nhuyễn, hợp lý, cho nên không tạo ra hiệu quả, đồng tiền không đúng chỗ đúng nơi, không có trọng tâm nên người dân không được hưởng thụ thực chất.
PV:- Chúng ta đã có những bài học về chuyện lãng phí những công trình xây dựng phục vụ Đại lễ 1000 năm Thăng Long như Bảo tàng Hà Nội, rạp Đại Nam. Bài học kinh nghiệm rút ra lẽ ra phải là gì? Sự chậm tiếp thu của các người làm văn hóa bắt nguồn từ những lý do nào?
TS Nguyễn Xuân Thủy: - Tôi cũng đã từng có dự báo, viết tâm thư gửi cho Hà Nội, trước khi xây dựng các công trình kỉ niệm 1000 năm Thăng Long, nghi ngờ những công trình xây dựng này có đảm bảo được chất lượng hay không?
Những dự báo của tôi chính xác 90 đến 100%, tôi có dự báo nhiều tuyến không đảm bảo trong đó có tuyến Đại lộ Thăng Long, tiến độ xây chậm, hỏng, rồi hàng loạt công trình khác trong đó có Bảo tàng Hà Nội. Những công trình xây dựng không đúng trọng tâm, không đúng nhu cầu xã hội thì nó gây lãng phí hàng trăm nghìn tỷ chứ không phải hàng chục nghìn tỷ. Vì vậy, theo tôi đó là bài học cảnh báo cho những cơ quan chức năng, trong khi dự toán, dự báo, chiến lược phát triển, quy hoạch phải trên cơ sở thực tiễn và tính khoa học khi tính toán.
Trên cơ sở như Bác Hồ từng nói: "Nơi nào dân cần thì chúng ta làm, dân không cần thì chúng ta không làm". Các nhà lãnh đạo cũng phải nắm rõ để tránh lãng phí, nhà hát không cần thiết thì không nên triển khai, tránh lãng phí.
Rạp Đại Nam cho thuê tổ chức đám cưới
Rạp Đại Nam cho thuê tổ chức đám cưới
Còn câu chuyện tại sao Bộ văn hóa chậm tiếp thu nghĩ nhanh, tôi thấy có mấy nguyên nhân:
Thứ nhất, cán bộ tham mưu, đội ngũ công chức quá yếu, các cấp từ vụ trưởng trở xuống không có khả năng tham mưu tốt cho các cấp lãnh đạo, cấp Bộ, bởi vì ta hay lấy con ông cháu cha vào, rồi những người giỏi thì ra ngoài cơ sở kinh doanh, yếu thì vào công sở với đồng lương ít, để sáng cắp ô đến, tối cắp ô về.Tầm nhìn, chiến lược yếu kém, viết đề án thì viết theo lý thuyết, ngồi trong phòng lạnh, làm không hết trách nhiệm, không đi thực tế xô xát, không đi điều tra thì làm sao đúng thực tế.
Thứ hai, phương án đề ra đã sai từ đầu, lãnh đạo cơ quan chức năng nên xem lại cách nhìn nhận. Bộ trưởng Bộ văn hóa, Bộ GTVT trước khi đưa xuống các đề án để tham mưu thực hiện thì phải biết được ý nghĩa thực tiễn của nó như thế nào.
Thứ ba, trong thực tiễn của nước ta, người dân hay dư luận, lãnh đạo cứ vẽ các đề án ra để có thành tích báo cáo, vẽ ra để có điều kiện cho những kẻ tham nhũng có cơ hội trục lợi, dự án nào chả có tham nhũng, lãng phí, nên hầu hết là do các anh tham mưu cứ vẽ đề án ra để cấu xé với nhau, trong đó có cả tài chính, có cả ngân hàng, nhà thầu.
Công chức cắp ô tính cua trong lỗ
PV:- Dường như đang có sự lệch pha giữa tình hình thực tế và chiến lược dài hơi được những nhà quản lý vạch ra. Theo ông, sự lệch pha này có nguồn gốc từ đâu, do những nhà quản lý “tính cua trong lỗ” hay do bệnh thành tích?
TS Nguyễn Xuân Thủy: - Hoàn toàn đúng! Tôi lấy ví dụ, việc đưa ra đường sắt cao tốc Bắc - Nam, rất buồn cười, một đất nước nghèo nàn mà lại muốn xây dựng một tuyến đường mà trên thế giới không phải nước nào cũng xây dựng. Thế thì rõ ràng giữa cái chiến lược và yêu cầu thực tế cách xa nhau nên Quốc hội không thông qua.
Để thấy hàng ngày cái lãng phí lớn hơn cái tham nhũng rất nhiều, 1 cảng biển xây dựng lên để không, đường cao tốc xe ít chạy, hàng hóa không đi qua, không thu hút đầu tư...đó là bài học thực tế. Đường HCM là một ví dụ dài gần 1500km, tiêu tốn 70 đên 80 nghìn tỷ nhưng xe đi qua rất ít, mà trong GTVT xe qua lại ít thì lại lỗ, thế là lại vứt tiền qua cửa sổ.
Cả chuyện xây dựng nhà hát cũng vậy, đó là chiến lược xây dựng trên lý thuyết, trên tầm vĩ mô quá xa và tầm nhìn không hợp lý, vì vậy gây lãng phí quá lớn cho nhà nước. Trong khi bao nhiêu cầu treo của người dân bị hư hỏng, bao nhiêu con đường đi miền núi không xây dựng, xảy ra tai nạn, đi lại khó khăn. Sao không đầu tư giúp người dân nâng cao văn hóa bằng những việc làm thiết thực.
Nguyên nhân chính tôi nghĩ là do cán bộ tham mưu, nhà lãnh đạo cơ quan chức năng tầm nhìn chiến lược phát triển không phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước, cái đó đòi hỏi các nhà quy hoạch có nhiều kinh nghiệm, thì mới quy hoạch có những phương án, đầu tư sát thực tế.
Thứ 2, chạy theo thành tích, nghị quyết của TƯ, địa phương đặt ra mỗi tỉnh phải có đường này, đường kia, nhà văn hóa cấp này, cấp nọ mà làm bao nhiêu tiền thì nhà nước lại rót xuống.
Thứ 3, trong khi thực hiện có yếu tố ích kỷ, có yếu tố cá nhân, vừa có thành tích, vừa có điều kiện xè xẻo ở mức độ nào đó, để cải thiện nâng cao đời sống.
PV:- Thời gian gần đây, các đơn vị thuộc Bộ Văn hóa đưa ra nhiều kế hoạch phát triển văn hóa dựa trên việc xây dựng cơ sở hạ tầng như việc quy hoạch nhà hát hay quy hoạch điện ảnh. Là một người làm nghề, ông bình luận thế nào về phương cách phát triển bằng xây dựng này của Bộ Văn hóa, thưa ông?
TS Nguyễn Xuân Thủy: - Theo tôi, văn hóa hay ngành nào cũng cần có cơ sở hạ tầng, thì mới có thể phát triển, nhưng hạ tầng cần phụ thuộc trình độ, nhu cầu, khả năng tiếp thu và điều kiện thực tiễn của đất nước.
Như xây dựng trường quay Cổ Loa, tại sao không nắm bắt yêu cầu của các nhà quay phim, đóng phim, khả năng 1 năm đóng bao nhiêu bộ phim, chất lượng thế nào, chiếu ra có người xem không thì hãy xây dựng.
Hay đến nhà văn hóa thì yêu cầu dân đến đâu xây đến đó, nhà hát cũng vậy, việc nêu ra không phù hợp thực tiễn, nên hạ tầng gây lãng phí thêm, nếu đầu tư đúng chỗ thì sẽ khác.
  • Thanh Huyền (Thực hiện)

Báo Nga khẳng định chủ quyền của VN đối với Hoàng Sa


Báo Nga khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa

Ngày 1/6, tờ Gazeta.ru, một trong 3 báo điện tử tư nhân lớn nhất ở Nga với lượng truy cập trung bình 3 triệu lượt/ngày có bài viết: “Việt Nam sẽ không bao giờ chấp nhận” của nhà báo Vladimir Koryagin.

Tác giả đã đưa ra một số chứng cứ lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, bác bỏ yêu sách chủ quyền phi căn cứ của Trung Quốc và cung cấp cho đọc giả thông tin khái quát về diễn biến tranh chấp xung quanh quần đảo này. PV chúng tôi tại Liên bang Nga giới thiệu nội dung bài viết:
400 năm không có Trung Quốc

Trong thế kỷ 20, Biển Đông trở thành một trong những điểm nóng tiềm tàng mà xung đột có thể dẫn đến chiến tranh thế giới thứ ba. Tuy nhiên lịch sử xung đột xung quanh các vùng lãnh thổ tranh chấp nằm trên Biển Đông đã có lịch sử ít nhất vài thế kỷ. Về cơ bản, các nước trong diện tranh chấp đều đưa ra các bản đồ cổ làm bằng chứng nhằm khẳng định chủ quyền đối với một hoặc một vài hòn đảo.

Quần đảo Hoàng Sa cùng với quần đảo Trường Sa lần đầu tiên được nhắc đến vào thế kỷ thứ 17 trong “Tuyển tập bản đồ chỉ dẫn các con đường dẫn xuống đất phía Nam” của Việt Nam dưới tên có nghĩa là “Cát vàng."
Theo các tài liệu lịch sử, vào năm 1721 Việt Nam đã thành lập Cơ quan hành chính “Hoàng Sa” (Hoàng Sa là tên gọi bằng tiếng Việt của Paracel) nhằm khai thác tập trung các hòn đảo ở biển Đông, cũng như trang bị các tàu để tiến ra các đảo này.
Trong khi đó, trong các tàng thư và tài liệu của Trung Quốc thời đó, kể cả trong “Đại sử ký nhà Thanh” đều không nhắc đến hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Hoàng Sa cũng chỉ được một số ít các nhà đi biển người Pháp và Hà Lan nhắc đến, những người may mắn vượt qua Biển Đông thành công và đến được Việt Nam. Họ cũng viết rằng chính người Việt Nam đã thu được một số lượng lớn súng đạn và các đồ vật có giá trị khác từ những con tàu bị đắm khi đi qua các quần đảo này. Người Việt Nam thậm chí còn xây dựng một hạm đội quy mô nhỏ nhằm kiểm soát các tàu của nước ngoài đánh bắt cá tại khu vực quần đảo Hoàng Sa.

Đến đầu thế kỷ 19, vua Gia Long là vị vua đầu tiên của Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong thời gian này nhiều bản đồ các loại đã được xuất bản, trong đó Hoàng Sa được biểu thị là lãnh thổ của Việt Nam.

Năm 1838 nhà truyền giáo Công giáo Pháp Joan-Luis-Taberu đã xuất bản cuốn "Dictionarium Latino-Annamiticum completum et novo ordine dispositum (tạm dịch là cuốn từ điển tiếng Việt-Latinh). Trong đó quần đảo Hoàng Sa được định nghĩa là "Paracel seu Cát vàng." Tiếp sau đó, nhà địa lý Hà Lan Villem Blau chính thức đặt tên cho đảo này bằng tiếng châu Âu là “Pracel.” Về sau này do sự mai một của thời gian và các nhà đi biển người Pháp truyền khẩu không chính xác nên “Pracel” đã bị gọi trệch đi thành “Le Paracel.”

Cuối thế kỷ 19 tại khu vực quần đảo Hoàng Sa có 2 tàu chở đồng của Anh bị đắm. Người dân đảo Hải Nam của Trung Quốc trục vớt được và chiếm giữ hàng hoá trên tàu khiến chính quyền Anh hết sức bất bình. Khi đó Trung Quốc trả lời chính quyền Anh rằng quần đảo Hoàng Sa không phải là lãnh thổ của Trung Quốc, vì vậy chính quyền nước này không chịu trách nhiệm trước bất cứ sự việc gì xảy ra ở đây.

Báo Nga khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa (1)
(Ảnh chụp từ trang web)

Bành trướng trỗi dậy

Hiện trạng ở quần đảo Hoàng Sa lẽ ra được giữ nguyên dưới thời Pháp thuộc nếu như không có sự đối đầu Anh-Pháp và kéo theo sự ủng hộ tương ứng của Trung Quốc và Việt Nam. Năm 1933 cuốn “Bản đồ quản lý hành chính mới của Trung Quốc” ra đời, trên đó Trường Sa và Hoàng Sa được người Trung Quốc gọi theo tiếng Hán là “Nam Sa và Tây Sa” trực thuộc quản lý hành chính của tỉnh Quảng Đông. 

Dưới tác động của bối cảnh mới này chính quyền đô hộ Pháp đã áp dụng một số biện pháp: Khâm sứ Pháp tại Đông Dương Jules Brevie đã ra lệnh thành lập cơ quan hành chính quản lý quần đảo Hoàng Sa và cho dựng trên quần đảo một tấm bia có dòng chữ “Cộng hòa Pháp-Vương quốc Annam - quần đảo Hoàng Sa, 1816." Cũng trong khoảng thời gian đó, Nhật tích cực hoạt động, đánh chiếm đầu tiên là Trường Sa sau đó là Hoàng Sa vào đầu thế chiến thứ hai.

Năm 1946, người Pháp và Việt Nam tiến ra quần đảo Hoàng Sa để giải giáp quân Nhật đang đồn trú tại đây, tuy nhiên bị quân đội Trung Quốc ngăn cản. Trong vòng 1 ngày, Quân đội Trung Quốc đã củng cố vững chắc lực lượng trên quần đảo và năm 1947 Tưởng Giới Thạch ban bố một quyết định, theo đó Trường Sa và Hoàng Sa chính thức mang tên gọi của Trung Quốc và thuộc thành phần lãnh thổ Trung Quốc. Lúc đó Bắc Kinh phớt lờ sự phản đối từ phía chính phủ Việt Nam và Pháp.
Khi Tưởng Giới Thạch và thân cận trong Quốc Dân Đảng bỏ chạy sang Đài Loan thì toàn bộ các đơn vị đồn trú trên quần đảo Hoàng Sa cũng rút theo. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông lên nắm quyền tiếp tục tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này. Cùng thời điểm này Nhật Bản chính thức tuyên bố từ bỏ quyền và yêu sách đối với cả 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Điều này được ghi nhận trong Hiệp ước hòa bình San-Francisco 1951.
Năm 1956 Viễn chinh Pháp rút hoàn toàn khỏi lãnh thổ Việt nam và kể từ thời điểm này Việt Nam, vốn bị chia cắt làm 2 miền phải độc lập chống lại chính sách bành trướng của Trung Quốc. Cũng trong năm 1956 Trung Quốc đánh chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa còn Việt Nam chiếm giữ một phần, nơi trước đây quân đội Pháp kiểm soát.

Sự căng thẳng tình hình tiếp theo xảy ra vào năm 1959, khi Trung Quốc đưa 80 lính và vật liệu xây dựng lên quần đảo xây nhà kiên cố và sau đó dựng cờ Trung Quốc. Các đơn vị biên phòng miền Nam Việt Nam ngay lập tức có mặt tại các hòn đảo và bắt giữ toàn bộ người trên đó. Bắc Kinh chỉ thể hiện sự phẫn nộ bằng cách ra công hàm phản đối ở cấp Bộ Ngoại giao vì lo ngại phải chạm trán với quân đội Mỹ đến giúp đỡ chính quyền miền Nam Việt Nam. 

Năm 1964 Mỹ đẩy mạnh can thiệp vào Việt Nam bằng cách hậu thuẫn chính quyền miền Nam.

Trung Quốc đã không thể lợi dụng sự thất bại của Mỹ trong chiến tranh Việt nam vào mục đích của mình và từ năm 1971 bắt đầu bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Việc này cho phép Trung Quốc hợp pháp hóa yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa.
Năm 1974 Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ các hòn đảo. Thời điểm đó Mỹ đang bận chuẩn bị ký Hiệp định hoà bình với Việt Nam, đồng thời rút toàn bộ quân ra khỏi các vùng cứ điểm ở miền Nam Việt Nam. Trong khi đó, chính quyền miền Bắc Việt Nam cũng đang tập trung toàn bộ lực lượng để tiến hành chiến dịch lịch sử giải phóng Sài Gòn.
Trung Quốc đánh chiếm được Hoàng Sa một mặt do chính quyền miền Nam Việt Nam không còn nhận được sự hẫu thuẫn của Mỹ nên rất yếu và Mỹ-Trung không còn là đối thủ của nhau. Mặt khác chính quyền miền Bắc Việt Nam còn đang lo nhiệm vụ thống nhất đất nước nên chưa thể nêu yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa. Như vậy, việc Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa được xem như sự đã rồi, để từ đây Trung Quốc bắt đầu hướng bành trướng xuống quần đảo Trường Sa.

Theo Cao Cường
Moskva /Vietnam+

Mỹ đã chuẩn bị chiến tranh với TQ từ 20 năm qua?

Đăng Bởi  - 

Mỹ đã chuẩn bị chiến tranh với TQ từ 20 năm qua?
Sau khi kết thúc cuộc đối thoại Shangri-La, các học giả và giới phân tích tỏ ra cực kỳ lo ngại về thái độ cùn, bất chấp lý lẽ của Trung Quốc khi bị cộng đồng quốc tế chỉ trích. Họ cho rằng, nếu Trung Quốc không sớm dừng lại việc gây hấn thì sớm muộn cũng sẽ va chạm với Mỹ trên biển.
Chuẩn bị trên biển
"Mặc dù tất cả các cuộc nói chuyện hòa bình đều tỏ ra quan tâm lẫn nhau và tránh xung đột. Thế giới có rất nhiều kiểu nói chuyện tương tự như vậy trước chiến tranh xảy ra và tôi hy vọng nó dừng lại trước chiến tranh”, giáo sư Robert Ayson nghiên cứu chiến lược tại đại học Victoria tại New Zealand, cho biết.
Trên thực tế, chính Trung Quốc đang gây sóng gió trong khu vực khi đơn phương đặt giàn khoan Hải Dương (Haiyang Shiyou) 981 trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đâm chìm thuyền ngư dân Việt Nam. 
Nhiều quan chức tại hội nghị cho biết những vụ va chạm nhỏ giữa Trung Quốc và các nước láng giềng có thể châm ngòi thành cuộc đụng độ hải quân Mỹ - Trung trong tương lai gần. Nước Mỹ không bị động trong trường hợp có chiến tranh xảy ra và họ đã có kế hoạch sẵn cho chuyện này.
Hồi tháng 3.2014, các cựu quan chức tình báo Mỹ đã cảnh báo rằng Edward Snowden (một nhân viên cũ của CIA đang tị nạn tại Nga) có thể tiết lộ kế hoạch chiến tranh của Mỹ với Trung Quốc. Điều này cho thấy Mỹ luôn đề ra những phương án chuẩn bị cho những tình huống xấu nhất với sự trỗi dậy của Trung Quốc.
 Ông Marshall được các đời tổng thống Mỹ tín nhiệm
Tờ Washington Post cho biết trong Lầu Năm Góc - trụ sở Bộ quốc phòng Mỹ có một văn phòng nhỏ dành cho Andrew Marshall, một ông cụ 91 tuổi. Ông cụ này là một “nhà tương lai học”, một người có tầm nhìn xa rất được các đời tổng thống Mỹ tín nhiệm. 
Sau khi Liên Xô sụp đổ, nhiệm vụ chính của Marshall trong hơn 2 thập kỷ qua là nghiên cứu về một cuộc chiến chống lại Trung Quốc ngày càng hung hăng và nguy hiểm hơn với nước Mỹ.
Sẽ đánh trận trên không và trên biển
Ông Marshall phủ nhận các cáo buộc cho rằng Lầu Năm Góc quá chú trọng vào viễn cảnh đối đầu quân sự với Trung Quốc. Nhà chiến lược 91 tuổi cho biết: “Công việc của tôi là phải sẵn sàng các phương án cho hoàn cảnh tồi tệ nhất trong tương lai”.
“Không ai biết khi nào và tại sao lại chiến tranh. Nhưng nếu nó xảy ra thì phải đánh nhau trên không hay trên biển”, Marshall lập luận. Triết lý chiến tranh của người Mỹ là không bao giờ được để bom rơi trên đất Mỹ. Do vậy, khi Mỹ tham chiến trong cả 2 cuộc thế chiến thứ nhất và thứ hai thì cũng không có quả bom nào rơi trên đất Mỹ.
Thế cờ đã lên, khó lùi bước được 
Một cuộc chiến tranh trên bộ lúc này là quá nguy hiểm với Mỹ vì quá tốn kém tiền bạc, của cải, sinh mạng và ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế. Nếu muốn tiến hành một cuộc chiến tranh với Trung Quốc thì chiến trường sẽ là trên biển và trên không. Một cuộc chiến như vậy sẽ giúp phân rõ thắng bại về tiềm lực và trình độ quân sự của 2 nước mà không làm ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế và sinh mạng của người dân trên đất liền.
Cũng vì lý do đó, Mỹ trong thời gian gần đây tập trung phát triển rất mạnh cho hải quân và không quân. Chỉ vài tháng gần đây, hải quân và không quân Mỹ đã đề ra 200 sáng kiến và chúng được chuyển đến văn phòng của Marshall. Các sáng kiến đó liên quan đến vũ khí dành cho hải quân và không quân hay các đề xuất tăng cường sự phối hợp giữa 2 lực lượng này.
Ông Marshall cũng cho rằng Trung Quốc nhận ra được sự phát triển của hải quân và Không quân Mỹ sẽ ảnh hưởng đến giấc mộng siêu cường của Trung Quốc. Thời gian qua, Trung Quốc cũng tập trung phát triển các loại vũ khí chống tàu trên biển và vũ khí phòng không như để chống lại sự phát triển quân sự của Mỹ.
“Khi hai bên cùng chạy đua phát triển vũ khí thì một cuộc chạm trán là điều không thể tránh khỏi. Sớm muộn Mỹ và Trung Quốc sẽ có một cuộc so tài trên không và trên biển để xác định ai là người trên cơ”, ông Marshall phân tích.

Giảm phụ thuộc TQ về kinh tế, bằng cách nào?


Giảm phụ thuộc Trung Quốc về kinh tế, bằng cách nào?
Khi Trung Quốc kéo giàn khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của nước ta, xâm chiếm lãnh hải của ta, thực tế nền kinh tế của ta đang phụ thuộc lớn vào Trung Quốc không chỉ được nhìn dưới góc độ miếng bánh lợi ích của tự do thương mại ta được hưởng quá ít so với Trung Quốc, mà còn ở góc độ an ninh kinh tế. 
Chúng ta kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền bằng biện pháp hòa bình như ngoại giao, luật pháp, duy trì quan hệ kinh tế bình thường với Trung Quốc nhưng không loại trừ Trung Quốc trả đũa bằng biện pháp kinh tế, vì vậy ta không thể không có kịch bản ứng phó khẩn cấp.
Những kịch bản trước mắt cũng như lâu dài, tin rằng cơ quan quản lý nhà nước các cấp đã chuẩn bị và cần sự hợp tác, phối hợp cũng như thêm sáng kiến của tất cả các tác nhân trong nền kinh tế.
Nhưng cũng phải thấy rằng, cho dù không có sự kiện giàn khoa HD 981, thì bức tranh quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng cần phải chỉnh sửa, từ chính sách vĩ mô của nhà nước đến hoạt động vi mô của doanh nghiệp hay hành vi tiêu dùng của người dân, để phía Việt Nam có nhiều gam màu sáng hơn.
Trước mắt - khẩn cấp và lâu dài - căn bản, cốt lõi, đều đòi hỏi sự hành động. Bằng việc mở diễn đàn “Giảm phụ thuộc Trung Quốc về kinh tế, bằng cách nào?”, báo điện tử Một Thế Giới mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc, để cùng nhau vượt qua lúc thời điểm khó khăn này cũng như hướng đến một cuộc chấn hưng tìm kiếm phát triển.
Giải pháp, hãy nhìn từ thực tế, bắt đầu từ thực tế về quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc. Thực tế đó là:
- Về thương mại: Việt Nam chưa cải thiện được nhiều về xuất khẩu sang Trung Quốc nhưng lại gia tăng mạnh về nhập khẩu từ quốc gia này. Từ năm 2000 – 2013, tỉ trọng xuất khẩu sang Trung Quốc chỉ dao động trong khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, nhưng tỉ trọng nhập khẩu đã tăng từ 10% lên mức 28%. Với cơ cấu hàng tiêu dùng chiếm tỉ trọng khoảng 20%, hàng tư liệu sản xuất chiếm khoảng 35%, hàng công nghiệp phụ trợ và máy móc phụ tùng vận tải 35%, có thể thấy khoảng 70% hàng hóa Trung Quốc được nhập vào Việt Nam để phục vụ hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí cả các doanh nghiệp lớn đang sử dụng công nghệ của Trung Quốc để sản xuất.
- Về đầu tư: Hiện vốn FDI của Trung Quốc vào Việt Nam chỉ chiếm khoảng 3% tổng vốn FDI mà Việt Nam thu hút được mỗi năm, nhưng cùng với việc Việt Nam đẩy mạnh đàm phán gia nhập TPP, đã xuất hiện hiện tượng doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư mạnh vào việc xây dựng nhà máy để sản xuất nguyên vật liệu tại Việt Nam nhằm tận dụng cơ hội từ TPP.
- Về tổng thầu EPC: Trung Quốc hiện là nhà thầu lớn nhất của Việt Nam. Các doanh nghiệp Trung Quốc đã trúng thầu EPC (tư vấn, thiết kế - cung cấp thiết bị - xây lắp, vận hành; hay nói cách khác là thực hiện dự án theo phương thức chìa khoá trao tay) phần lớn các công trình năng lượng, khai khoáng, hóa chất ở Việt Nam.
Theo thống kê được công bố vào đầu  tháng 4.2014 của Viện Nghiên cứu cơ khí thuộc bộ Công thương, Việt Nam hiện có 20 dự án nhiệt điện thì có 15 công trình được phía Trung Quốc làm tổng thầu EPC. Trong ngành xi măng, 24 dự án lớn do Trung Quốc làm tổng thầu.  Cả nước có hai dự án công nghiệp nhôm và bauxite và ba nhà máy tuyển than thì tất cả đều do nhà thầu Trung Quốc đảm trách. Nếu tình huống xấu xảy ra trong bang giao kinh tế, việc này sẽ đẩy Việt Nam vào thế khó.
Nhưng cũng có một thực tế khác, mở ra cơ hội “giảm phụ thuộc” từ Trung Quốc là bên cạnh các hiệp định tự do thương mại đã ký, Việt Nam đang tích cực đàm phán hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và AFTA với EU, với triển vọng mở rộng nguồn cung và thị trường trường xuất khẩu, có thể đa phương hơn nữa để giảm việc tập trung trứng vào một giỏ.
Thư từ, bài vở tham gia Diễn đàn, xin gửi về : toasoan@motthegioi.vn
Một Thế Giới

"Trung Quốc đủ điên rồ để tấn công nước khác"

TT - Một ngày sau Đối thoại Shangri-La, chính phủ các nước và giới truyền thông quốc tế đồng loạt phê phán những phát biểu ngạo mạn, sai sự thật của tướng Trung Quốc Vương Quán Trung. Chuyên gia Rory Medcalf thuộc Viện Lowy (Úc) cảnh báo Trung Quốc không thật sự mạnh như họ nghĩ.

Ngày 2-6, trả lời phỏng vấn báo Sydney Morning Herald, Bộ trưởng Quốc phòng Úc David Johnston tuyên bố: “Cả Mỹ, Úc và Nhật đều rất lo ngại về những hành động đơn phương gây bất ổn, đặc biệt tại khu vực biển Đông và biển Hoa Đông”. Ông cho biết đã chia sẻ với phía Việt Nam và Philippines về mối lo ngại này tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore.
Ông Johnston ủng hộ quan điểm của người đồng cấp Mỹ Chuck Hagel rằng Trung Quốc gây bất ổn trên biển Đông.  “Sự bất ổn này là điều không thể biện minh được và đang phá hoại triển vọng kinh tế khu vực. Do đó tôi chia sẻ sự lo ngại của Bộ trưởng Hagel” - ông Johnston khẳng định.
Giải thích lằng nhằng
"Những hành động của Trung Quốc gây bất ổn tại biển Đông, khu vực có ảnh hưởng to lớn vào sự thịnh vượng của các nước ở châu Á - Thái Bình Dương"
Bộ trưởng Johnston cho biết Úc không đứng về phía nào trong các tranh chấp trên biển, nhưng chính quyền Canberra sẽ tìm cách thuyết phục Bắc Kinh rằng “có một con đường khác không dẫn tới nguy cơ đối đầu và leo thang căng thẳng trên biển”. Trong cuộc trả lời phỏng vấn Hãng tin Bloomberg tại Đối thoại Shangri-La, ông Johnston cũng tuyên bố hành động đơn phương của Trung Quốc là “vô ích” và “đẩy chúng ta đi sai đường”.
Ông cho rằng “nguy cơ tính toán sai” là mối lo ngại với tất cả các nước trong khu vực. Phát ngôn thẳng thắn của Bộ trưởng Johnston là hết sức đáng chú ý bởi Trung Quốc là đối tác thương mại rất quan trọng của Úc. Bộ trưởng Johnston cho biết chính quyền Canberra sẽ tận dụng mối quan hệ thương mại với Bắc Kinh để thúc đẩy nước này đi theo con đường ngoại giao. “Tôi nghĩ kỹ năng ngoại giao và tương tác quốc tế của Trung Quốc còn kém” - Bộ trưởng Johnston đánh giá.
Trong khi đó, giới truyền thông và chuyên gia quốc tế cũng phê phán mạnh mẽ thái độ của tướng Vương Quán Trung và phái đoàn Trung Quốc tại Shangri-La. Tạp chí Anh The Economist bình luận: “Quan điểm chung của các đại biểu không đến từ Trung Quốc tại Shangri-La là tướng Vương đã bảo vệ quan điểm của Trung Quốc một cách tệ hại. Lập luận của ông ta cộc cằn và có phần trẻ con khi nói rằng không phải Trung Quốc khiêu khích mà các nước khác làm như vậy”.
“Sau đó, tướng Vương không thể trả lời câu hỏi mà các đại biểu đặt ra. Ông ấy nói lằng nhằng, lắp bắp khi cố giải thích đường chín đoạn bí hiểm” - The Economist viết. Báo này nhận định Trung Quốc thực tế không quan tâm đến việc đuối lý. “Trung Quốc có thể xem Đối thoại Shangri-La là một phần của trật tự thế giới cũ mà nước này không còn cảm thấy cần phải chấp nhận”- The Economist đánh giá.
Chiến thuật đe dọa
Báo Mỹ Wall Street Journal (WSJ) cho rằng việc các quan chức Trung Quốc tỏ ra lớn lối ở Đối thoại Shangri-La cho thấy Bắc Kinh quyết đối đầu với Mỹ. “Trung Quốc cáo buộc Mỹ và Nhật đe dọa và bá quyền, trong khi tất cả các nước trong khu vực tin rằng Trung Quốc mới là kẻ đe dọa và bá quyền. Thật đáng lo ngại khi chủ nghĩa dân tộc cực đoan tự lừa dối mình lại trỗi dậy ở Trung Quốc” - WSJ viết.
WSJ nhận định việc Trung Quốc không chịu tuân thủ luật pháp quốc tế cho thấy Bắc Kinh muốn thiết lập một trật tự mới tại châu Á - Thái Bình Dương, trong đó nước này đóng vai trò thống trị. Tuy nhiên, báo này dẫn lời chuyên gia Rory Medcalf thuộc Viện Lowy (Úc) cảnh báo Trung Quốc không thật sự mạnh như nước này nghĩ. Và những hành vi hiếu chiến của Trung Quốc sẽ chỉ khiến các nước khu vực xích lại gần nhau hơn để đối phó với sự trỗi dậy của Bắc Kinh. Mỹ cũng sẽ càng có cớ để tiếp tục tăng cường sức mạnh quân sự trong khu vực.
Báo Mỹ Epoch Times dẫn lời chuyên gia Richard Fisher thuộc Trung tâm Đánh giá và chiến lược quốc tế (IASC) cho rằng đằng sau những lời lẽ thô lỗ của tướng Vương là những toan tính lạnh lùng. “Ở Shangri-La, tướng Vương áp dụng chiến thuật đe dọa để làm suy yếu ý chí chính trị của đối thủ. Mục tiêu không phải để cãi lý mà dùng giọng điệu hiếu chiến để đe dọa Tokyo, Washington và các nước trongkhu vực” - chuyên gia Fisher cho biết.
Ông nhận định Bắc Kinh muốn cho các nước châu Á thấy rằng “Trung Quốc đủ điên rồ để tấn công nước khác”, do đó các quốc gia này sẽ phải nhượng bộ để Bắc Kinh làm chủ biển Đông. “Nhưng hiệu quả của chiến thuật này là không rõ ràng, chỉ thể hiện sự hiếu chiến đó sẽ giúp Nhật và Mỹ huy động sự ủng hộ của các nước trong khu vực” - chuyên gia Fisher phân tích.
Hôm qua, Chính phủ Nhật đã lên án những tuyên bố của tướng Vương Quán Trung tại Đối thoại Shangri-La. Chánh văn phòng nội các Nhật Yoshihide Suga khẳng định: “Quan chức Trung Quốc đưa ra tuyên bố dựa trên những điều sai sự thật. Ông ấy đã phỉ báng đất nước Nhật”.
HIẾU TRUNG

Chiến thuật 'chuột vờn mèo'

BTTD: Chuột đang vờn mèo. Vậy chuột có cắn được mèo hay sẽ bị mèo ăn thịt? Nan giải !

Nhìn lại vụ giàn khoan Hải Dương 981 không thể không lưu ý riêng đến lựa chọn chiến thuật và vị trí hạ đặt giàn khoan đầy toan tính, thâm hiểm của TQ.
Lựa chọn chiến thuật
Trong vụ Hải Dương 981 có hai điểm đáng chú ý. Thứ nhất, TQ sử dụng nhuần nhuyễn các lực lượng dân sự hoặc khoác áo dân sự, tiến hành các biện pháp mang tính dân sự, kinh tế, tránh các hành động quân sự gây phản cảm với cộng đồng quốc tế. 

Chiến thuật này có thể được gọi là thay “tàu xám” (hải quân) bằng “tàu trắng” (dân sự) đối phó với các lực lượng chấp pháp biển của các nước láng giềng. Chiến thuật này đã thành công trong vụ đuổi tàu cá Philippines ở bãi ngầm Scarborough. 

Thứ hai, sử dụng giàn khoan di động thay cố định. Tính di động cho phép nhanh chóng đưa giàn khoan vào vị trí mong muốn trong thời gian ngắn đủ để đối phương bất ngờ không phản ứng kịp và bên ngoài nếu muốn cũng không kịp can thiệp khi thành sự đã rồi. 

Philippines, Scarborough, TQ, giàn khoan, Hải Dương 981, Biển Đông, ASEAN, chủ quyền, Hoàng Sa, Gạc Ma, CNOOC, kiểm ngư, cảnh sát biển, dầu khí
Tàu hải cảnh TQ áp sát, phun vòi rồng vào tàu kiểm ngư VN
Đối phương cũng không đủ thời gian để triển khai các biện pháp dài hạn như pháp lý. Khoảng thời gian để khởi kiện một vụ án quốc tế thường khá dài. Từ lúc Philippines đưa đơn khởi kiện TQ sau sự cố Scarborough tháng 2/2013, một năm sau các thủ tục thành lập Tòa và chuẩn bị Bản ghi nhớ mới hoàn tất và ít nhất đến tháng 9/2014 Tòa mới có thể thụ lý. 

Trong thời gian đó CNOOC đã có thể chủ động kéo giàn khoan ra vị trí khác để Tòa không có thẩm quyền do đối tượng vi phạm đã rút. TQ có thể huy động lực lượng tàu cá hùng hậu để ngăn cản, thậm chí tấn công khiêu khích các lực lượng chấp pháp biển láng giềng, tạo cớ gây ra các xung đột cục bộ cho tàu xám tấn công. 

Lịch sử đã chứng minh tàu cá TQ luôn là lực lượng đi đầu gây hấn ở Đà Nẵng năm 1962, Hoàng Sa 1974 và Scarborough năm 2012. Triển khai dàn khoan ở phía Bắc, TQ không quên mở rộng căn cứ Gạc Ma ở phía Nam theo đúng cách giương Đông kích Tây, phân tán sự chú ý của đối phương cũng như của cộng đồng thế giới. 
`
Toan tính vị trí chiến lược

Vị trí giàn khoan cách đá Tri Tôn 17 hải lý nhằm khẳng định quan điểm của TQ về đường cơ sở 1996 của họ và đá này cũng như các địa hình nổi khác thuộc quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa - VN) có quyền có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa. Vị trí này cũng củng cố quan điểm của TQ là quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa - VN) hoàn toàn thuộc TQ không có tranh chấp. 

Nếu vị trí hạ đặt nằm trong vòng cung 12 hải lý sẽ dễ bị hiểu lầm là TQ chỉ đòi quy chế lãnh hải cho các đảo đá mà họ chiếm đóng trái phép bằng vũ lực từ năm 1974. Vị trí này cũng thích hợp gần Hải Nam để có thể huy động lực lượng chấp pháp biển và hải quân hùng hậu cũng như tàu cá để bảo vệ giàn khoan. 

Trong trường hợp có dầu thương mại thì hệ thống đường ống dẫn dầu vào Tây Sa hay Hải Nam cũng ngắn hơn, dễ lắp đặt và bảo vệ hơn là đi sâu vào vùng biển VN. Vị trí này nằm gần lô 119 mà Exxon Mỹ đã khoan thăm dò, đủ để gây áp lực với các công ty Mỹ nhưng không đi đến đối đầu với Mỹ. 

Khu vực chỉ liên quan đến VN và TQ nên Bắc Kinh hy vọng ASEAN với truyền thống trung lập, không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, sẽ không có cớ gì để đồng thuận phản bác. 

Vị trí này cũng không ảnh hưởng lớn đến đường hàng hải quốc tế nhộn nhịp trong Biển Đông để dễ bác bỏ sự quan ngại quốc tế về an ninh hàng hải. Ngày 27/5, phía TQ đã di chuyển giàn khoan về vị trí mới (tọa độ 15033’38” vĩ Bắc; 111034’62” kinh Đông) cách đảo Tri Tôn về hướng Đông-Đông Nam 25 hải lý, cách vị trí cũ 23 hải lý theo hướng Đông-Đông Bắc, cách đảo Lý Sơn khoảng 150 hải lý. Tuy nhiên vị trí này vẫn tiếp tục nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ bờ VN . 

Tuy nhiên toan tính không phải bao giờ cũng đúng với thực tế.

Giải pháp cho xung đột

Các cuộc xung đột quốc tế thường có một kết thúc dựa trên tương quan lực lượng và kết quả tổng hợp trong 5 lĩnh vực: chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế và truyền thông. 

Xét quy mô kinh tế, lực lượng quân sự, bộ máy truyền thông, VN khó có thể so sánh với TQ - quốc gia đông dân nhất thế giới. 

Nhưng quan điểm kiềm chế, không sử dụng lực lượng quân sự, giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình được các nước trong khu vực và quốc tế đánh giá cao, ủng hộ. 

Sự kiềm chế của Cảnh sát biển và Kiểm ngư VN trước các cú đâm va, vòi rồng của phía TQ không phải chỉ cho mình mà cho cả hòa bình ổn định khu vực và thế giới.

Trên bàn cờ chính trị quốc tế, trong một thế giới đang ngày càng phẳng, các nước ngày càng cần đến nhau, đến một tình hữu nghị bền vững. 

Quan điểm VN thể hiện rõ trong tuyên bố của các lãnh đạo cấp cao: “VN sẽ áp dụng mọi biện pháp phù hợp cần thiết để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình.

Đồng thời, VN luôn thể hiện thiện chí, kiên trì giải quyết thỏa đáng bất đồng thông qua đàm phán, đối thoại và các biện pháp hòa bình khác theo đúng nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển, phù hợp với các quy định và thực tiễn Luật pháp quốc tế, nhất là Công ước LHQ về Luật biển 1982, không để vấn đề này tổn hại đến sự tin cậy chính trị và hợp tác giữa hai bên”. 

Theo điều 33 Hiến chương LHQ, các biện pháp hòa bình bao gồm từ đàm phán, trung gian hòa giải, các tổ chức quốc tế cho đến các hành động pháp lý. 

VN đang và sẽ kiên trì đề nghị đàm phán, thông báo tình hình căng thẳng ở Biển Đông cho LHQ, ASEAN, tổ chức các nước không liên kết, và các nước khác. Indonesia và Nga đều đã tỏ ý sẵn sàng có vai trò trung gian hòa giải. 

Vai trò trung gian hòa giải của Indonesia cũng phù hợp với chính sách của ASEAN giải quyết các bất đồng trong khu vực không có sự can thiệp từ bên ngoài. Một ủy ban điều tra hòa giải cũng có thể được thành lập trên cơ sở yêu cầu LHQ. Tuy ủy ban không có những quyết định bắt buộc nhưng các khuyến nghị của ủy ban và dư luận quốc tế sẽ định hướng cho một giải pháp.

VN cũng có thể lựa chọn giải pháp pháp lý vào thời điểm cần thiết khi các biện pháp khác không giải quyết được vấn đề. Mọi giải pháp chỉ có thể thực hiện trên thiện chí của các bên. 

Trên thực địa, chiến thuật “chuột vờn mèo” của Cảnh sát biển và Kiểm ngư VN đã làm phía TQ tiêu tốn hàng triệu đô la mỗi ngày cho việc duy trì giàn khoan và hơn 130 tàu hộ tống. 

Công tác tuyên truyền trong và ngoài nước và những phản ứng ngoại giao mạnh mẽ, hiệu quả sẽ giúp dư luận trong và ngoài nước hiểu rõ hơn các quyền lợi chính đáng của một nước ven biển và những hành động không thể chấp nhận trong quan hệ quốc tế. 

Sức mạnh tổng hợp thực địa, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, truyền thông và tương quan chính trị sẽ buộc Hải Dương 981 phải dịch chuyển. Sau Hải Dương 981, cuộc đấu tranh trên Biển Đông vẫn trường kỳ. 

Việt Long