Trang

23 tháng 5, 2014

Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa nhìn từ công pháp quốc tế


Việc xác định chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trên cơ sở luật pháp quốc tế là một yêu cầu cần thiết.
Diễn biến trên Biển Đông thời gian gần đây đã trở nên đặc biệt nguy hiểm với những bước leo thang tuyên bố chủ quyền phi lý của Trung Quốc, bất chấp luật pháp quốc tế và thực tiễn lịch sử.

Ngày 2/5 vừa qua, với việc kéo giàn khoan Hải Dương 981 ngang nhiên vào hạ đặt tại vùng biển hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Trung Quốc đã  vi phạm trắng trợn những thỏa thuận đã đạt được với Việt Nam và khối ASEAN về việc giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Trong tình hình hiện nay, yêu sách của mỗi quốc gia về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như khu vực Biển Đông cần phải dựa trên những bằng chứng lịch sử thuyết phục và phải dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, lấy luật pháp quốc tế là tiêu chuẩn tối cao để giải quyết các tranh chấp về chủ quyền.
Tuân thủ luật pháp quốc tế cũng là ứng xử văn minh và có trách nhiệm mà tất cả các quốc gia, đặc biêt là Trung Quốc, một nước có chân trong Hội Đồng bảo an Liên Hợp Quốc, cần phải tôn trọng.
Loạt bài “Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa nhìn từ công pháp quốc tếcủa nhóm phóng viên Lê Phúc, Lê Bình, Thùy Vân và Thu Lan đề cập nội dung này.

Bài 1: Việt Nam- Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa
 
Một yêu sách chủ quyền đối với các lãnh thổ vô chủ phải bao hàm hai thành tố: ý định, ý chí hành động với tư cách nước có chủ quyền và phải thực hiện thật sự quyền lực đó. Chỉ khi có hai yếu tố này thì việc thụ đắc chủ quyền mới được chấp nhận theo luật pháp quốc tế. Theo đó, việc phát hiện kèm theo sự khẳng định công khai về chủ quyền mới chỉ tạo ra một danh nghĩa sơ khởi. Để hoàn thiện danh nghĩa này, làm cho nó đầy đủ và chắc chắn, phải có sự chiếm hữu thực sự, kèm theo ý định chiếm lấy lãnh thổ một cách rõ ràng. Như vậy, có hai yếu tố xen kẽ: một là yếu tố vật chất: việc phát hiện, sau đó là yếu tố chủ tâm, sự khẳng định công khai về chủ quyền; và sau hết là sự tăng cường yếu tố vật chất.
Trong yếu tố vật chất cần phân biệt rõ sự khác biệt giữa hiểu biết đơn thuần về lãnh thổ và chiếm hữu thực sự.
 
Một lãnh thổ, nhất là đảo hay quần đảo, có thể từ rất lâu, các thủy thủ, ngư dân đã thường xuyên lui tới hay cũng có thể các nhà địa lý đã biết đến vì họ muốn mở rộng việc nghiên cứu tới tất cả khu vực, bất kể thuộc chủ quyền của quốc gia nào. Khi ấy, lãnh thổ này không là đối tượng của “phát hiện” có hiệu lực pháp lý. Chỉ phát hiện thôi thì không bao giờ tạo được cơ sở đảm bảo cho một yêu sách đối với đất vô chủ. Đó chỉ là những hiểu biết đơn thuần về lãnh thổ.
Trong khi đó, nội dung chủ yếu của nguyên tắc chiếm hữu thật sự trong luật pháp quốc tế bao gồm :
- Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do Nhà nước tiến hành;
- Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hòa bình trên một vùng lãnh thổ vô chủ hoặc là trên một vùng lãnh thổ đã bị từ bỏ bởi một quốc gia đã làm chủ nó trước đó. Việc sử dụng vũ lực để xâm chiếm là hành động phi pháp;
- Quôc gia chiếm hữu phải thực thi chủ quyền của mình ở những mức độ cần thiết, tối thiểu thích hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó;
- Việc thực thi chủ quyền phải liên tục, hòa bình.
Căn cứ vào nguyên tắc pháp lý này (tính đến năm 1884), đối chiếu với quá trình xác lập và thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do các bên tranh chấp nêu ra, chắc chắn sẽ có được những nhận xét khách quan và khoa học về quyền thủ đắc lãnh thổ đối với hai quần đảo này.
Trước hết, chúng ta cùng xem xét đến những chứng cứ của phía Trung Quốc:
Trung Quốc đã trích dẫn nhiều dẫn chứng trong các sách địa lý để chứng minh chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Qua nghiên cứu thấy rằng, đúng là các đảo này đã được ghi nhận và mô tả trong đó nhưng chúng chỉ dừng lại ở việc ghi chép những hiểu biết của người Trung Quốc đương thời về địa lý, lịch sử, phong tục… ở các nước thuộc khu vực Đông Nam Á và Nam Á và đường hàng hải từ Trung Quốc ra nước ngoài. Vì vậy, các tác phẩm đó chỉ được xem như các tài liệu chứng minh sự hiểu biết chung các địa điểm chứ không có ý nghĩa pháp lý, nhờ đó, có thể đặt hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Nam Châu dị vật chí của Vạn Chấn (thời Tam Quốc, 220-265) viết dưới triều Hán Vũ Đế là cuốn sách hướng dẫn hằng hải trong Biển Đông nhưng lại rất không chính xác, không thể căn cứ vào đó để xác minh được quần đảo này hay quần đảo khác trong số hai quần đảo ngày nay đang bị tranh chấp.
Phù Nam truyện của Khang Thái viết cùng thời kỳ này ghi nhận rằng, đã gặp trong Trướng Hải các đảo san hô và khẳng định đây là những mô tả về quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, đoạn trích này rất mơ hồ, thiếu chính xác, không thể căn cứ vào đó để nói rằng đó chính là Trường Sa.
Các tác phẩm khác như Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi (đời Tống, 1178), Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát (đời Tống, 1225), Đảo di chí lược của Vương Đại Uyên (đời Nguyên, 1349), Đông Tây dương khảo của Trương Nhiếp (1618), Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi (1628), Hải quốc văn kiến lục viết ở đời Thanh, Hải Lục của Vương Bính Nam (1820), Hải quốc đồ chí của Ngụy Nguyên (1848) và Doanh hoàn chí lược của Bành Ôn Chương (1848),vv… là một tập hợp các tác phẩm liên quan đến các chuyến đi, các chuyến khảo địa lý, sách hằng hải liên quan tới các nước bên ngoài Trung Quốc.
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam cho rằng, thật khó có thể chấp nhận với các tác giả Trung Quốc khi họ rút ra từ đó kết luận, Hoàng Sa, Trường Sa từ lầu đã là lãnh thổ của Trung Quốc: “Bản đồ cổ của Trung Hoa vẽ về Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XV ghi rõ địa điểm của Việt Nam là Giao chỉ quốc, nước Giao chỉ và biển thì ghi rõ là Giao chỉ dương, đất liền là Giao chỉ quốc và biển là biển của Giao chỉ. Hàng trăm bản đồ quốc tế khác nhau, tất cả đều rất thống nhất về phương diện công pháp quốc tế, chứng minh rất rõ ràng chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.”
Người Trung Quốc còn đưa ra các dẫn chứng khác để chứng minh chủ quyền lâu đời của mình đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Nhưng phải khẳng định ngay rằng, chúng không thể hiện rõ ràng ý định của nước này về chủ quyền đối với hai quần đảo.
Đó là dưới thời Bắc Tống (thế kỷ thứ X-XII), "hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra đến vùng quần đảo Tây Sa (tức quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam)", xuất phát từ Quảng Đông, qua đó kết luận rằng, "triều đình Bắc Tống đã đặt quần đảo Tây Sa trong phạm vi cai quản của mình". Khi phân tích kỹ dữ liệu này thấy rằng, đó không phải là cuộc tuần tra mà chỉ là chuyến thăm dò địa lý cho tới tận Ấn Độ Dương, không minh chứng một sự chiếm hữu nào.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn sự kiện đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên ở "Nam Hải" để nói rằng, "quần đảo Tây Sa đã nằm trong cương vực Trung Quốc đời Nguyên".
Theo Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên được ghi chép như sau: "Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi, Phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc". Ghi chép trong Nguyên Sử thấy rõ, việc đo đạc thiên văn ở hai mươi bảy nơi, trong đó có cả một số nơi ngoài "cương vực Trung Quốc" như Cao Ly nay là Triều Tiên, Thiết Lặc vùng Xi-bia, thuộc Nga và cả Biển Đông, chứ không phải là "đo đạc" "toàn quốc" như văn kiện của Bắc Kinh nói. Mặt khác, nếu coi đó là cơ sở pháp lý cho chủ quyền của Trung Quốc thì điều đó có thể dẫn đến những đòi hỏi của nước này về lãnh thổ tới cả cả Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Nga!
Cuối cùng, người Trung Quốc đưa ra các tài liệu về một cuộc tuần biển được tổ chức trong khoảng các năm 1710-1712 dưới triều nhà Thanh. Ngô Thăng, Phó tướng thủy quân Quảng Đông chỉ huy chuyến đi này. Người Trung Quốc khẳng định đã đi qua vùng biển tương ứng với vùng biển của quần đảo Hoàng Sa và kết luận rằng, vùng biển này “lúc đó do hải quân tỉnh Quang Đông phụ trách tuần tiễu”. Tuy nhiên, nếu dõi theo hành trình này trên bản đồ, dễ dàng nhận xét rằng, đó chỉ là một con đường đi vòng quanh đảo Hải Nam chứ không phải là hành trình tới các biển xa. Đoạn văn viết: “Từ Quỳnh Nhai, qua Đồng Cổ, Thất Châu Dương, Tứ Canh Sa, vòng quanh ba ngàn dặm”. Xin được chú thích rõ các địa danh này: Quỳnh Nhai gần thị trấn Hải Khẩu ngày nay, phía Bắc đảo Hải Nam; Đồng Cổ ở mỏm Đông Bắc đảo Hải Nam; Thất Châu Dương là vùng biển có 7 hòn đảo gọi là Thất Châu nằm ở phía Đông đảo Hải Nam; Tứ Canh Sa là bãi cát ở phía Tây Đảo Hải Nam.
Quan trọng hơn, ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho rằng, những tài liệu do phía Trung Quốc đưa ra không có tính pháp lý: “Thời xưa, Trung Quốc có những nhà du hành, hằng hải, những thương thuyền, họ đi giao thiệp về chuyện buôn bán thì trong quá trình đi, họ nhìn thấy những vùng đảo, ghi chép thì đó là dạng sách du ký, chứ không phải tài liệu chính thống của chính quyền Trung Quốc. Để xác lập chủ quyền thì những điều được biên chép phải nằm trong trong chính sử hoặc trong sách mà bây giờ mình gọi địa chí, Trung Quốc gọi là phương chí. Đó là những phương tiện được Nhà nước thừa nhận.”
Rõ ràng, Trung Quốc không phải là quốc gia đầu tiên kiểm soát thực sự các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vì nó thiếu hẳn các yêu cầu mà luật quốc tế thời đó đòi hỏi.
Các tham vọng của Trung Quốc còn mâu thuẫn bởi chính các nguồn tư liệu của nước này. Theo đó, có nhiều tài liệu địa lý cổ mô tả và nói rõ lãnh thổ của nước này có điểm tận cùng ở phía Nam là đảo Hải Nam. Trong đó, đáng chú ý là cuốn địa chí phủ Quỳnh Châu cũng như cuốn địa chí tỉnh Quảng Đông năm 1731. Điều này cũng được ghi trong Hoàng triều nhất thống Dư địa tổng đồ, phát hành năm 1894. Ngoài ra, quyển sách “Trung Quốc Địa lý học giáo khoa thư”, phát hành năm 1906 nêu ở trang 241 rằng: “điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Nhai Châu đảo Quỳnh Châu, ở vĩ tuyến 18o13’ Bắc.”

Ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc nhấn mạnh: “Từ đời Hán đến đời Thanh đều có những bộ chính sử của triều đại, các mục địa lý chí đó chưa từng biên chép gì về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là điểm để người ta nhận ra rằng, Trung Quốc chưa từng xem nó thuộc về phần đất của họ. Những chỉ dụ của Hoàng Đế hoặc tấu sớ của các quan trong triều  cũng thừa nhận đơn vị hành chính nước này đến huyện Nhai, phủ Quỳnh Châu, tức là đảo Hải Nam.”
Qua việc xem xét kỹ các tư liệu do người Trung Quốc đưa ra, bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác nhưng chúng không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này: 
“Trung Quốc đưa ra những giấy tờ cho rằng đã tìm ra các hòn đảo này từ lâu, nhưng về khía cạnh luật pháp, tôi có thể nói rõ, Trung Quốc không đưa ra được bằng chứng thuyết phục nào. Mãi về sau này, Trung Quốc mới có yêu sách về chủ quyền đối với các quần đảo. Đối với Hoàng Sa, Trung Quốc có yêu sách về chủ quyền bắt đầu từ năm 1909. Còn đối với Trường Sa là sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong khi đó, Việt Nam có những bằng chứng quan trọng và thuyết phục hơn nhiều xét về khía cạnh luật pháp, với sự quản lý lâu đời và liên tục”- bà Monique Chemillier Gendreau nói.
Các tài liệu của Việt Nam cho thấy, Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này khi nó chưa thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào.
Toàn tập Thiên Nam từ chí lộ đồ thư, được soạn vẽ vào thế kỷ XVII, ghi rõ trong lời chú giải bản đồ vùng Phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam: "giữa biển có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng", "Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa Đông đưa mười tám chiếc thuyền đến lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam phân tích: “Từ bản đồ Hồng Đức năm 1490, rồi sau này của nhà Nguyễn (1838) cũng vẽ bản đồ trong Đại nam nhất thống toàn đồ cũng chỉ rõ, ở bên cạnh, gần miền Trung, phía trên là quần đảo Hoàng Sa, phía dưới ghi là Vạn Lý Trường Sa.”
Chứng cứ kế tiếp xác lập rõ ràng hơn nữa chủ quyền của Việt Nam là bộ sách Phủ Biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học Lê Quý Đôn viết về lịch sử, địa lý, hành chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775). Bộ sách này chép rõ, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức việc khai thác hai quần đảo đó với tư cách một quốc gia làm chủ.
Lê Quý Đôn viết: “Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền tiểu câu ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến các đảo ấy rồi ở lại đó. Tha hồ kiếm lượm, bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng, thiếc khối, chì đen, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên cùng là kiếm lượm mai đồi mồi, mai hải ba, hải sâm, hột ốc hoa, rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp. Cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc hoa, hải ba, hải sâm, rỗi lĩnh bằng trở về.
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định  bao nhiêu suất hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền tiểu câu ra các xứ Bắc Hải, Cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm hoá vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản".
GS. Nguyễn Quang Ngọc, Viện trưởng Viện Việt Nam học và phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội phân tích: “Chúng ta có 1 loại tài liệu về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa mà không có bất cứ một quốc gia nào có. Tài liệu đó là châu bản. Nó là những báo cáo của Bộ Công về việc thực hiện lệnh của nhà vua, đề nghị cho tàu thuyền đi khảo sát, đo đạc ở Hoàng Sa. Nhà vua xem, đồng ý, phê vào đấy. Tức đây là một loại quyết định chính thức của triều đình được nhà vua phê duyệt. Không có nước nào có những tài liệu này đưa ra làm chứng cả, chỉ có chúng ta có. Những tài liệu này là đỉnh cao tuyệt vời khẳng định rõ ràng chủ quyền của chúng ta ở Hoàng Sa, Trường Sa.”
Rõ ràng, Việt Nam không chỉ có sự hiểu biết lâu đời đến hai quần đảo này mà còn chiếm hữu thực sự chúng ít nhất từ thế kỷ XVII, là nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền trên các quần đảo này.
Vấn đề đặt ra bây giờ là Việt Nam có quản lý liên tục và hòa bình các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa? Chúng tôi sẽ đề cập nội dung này trong bài viết:Việt Nam quản lý Hoàng Sa, Trường Sa liên tục và hoà bình.

Theo Lê Phúc-Lê Bình-Thùy Vân-Thu Lan
Vov.vn

Nữ sinh mặt mộc xinh đẹp trong lễ bế giảng

Tại lễ bế giảng năm học diễn ra sáng nay (22/5), bên cạnh Quỳnh Anh Shyn, nữ sinh lớp 10 Ngọc Diệu gây ấn tượng với vẻ đẹp mộc.

hot girl, nữ sinh, xinh đẹp, Phan Đình Phùng, ảnh đẹp
Khá nổi bật trong hàng ngàn học sinh THPT Phan Đình Phùng sáng nay là nữ sinh học lớp 10 - Ngọc Diệu.
hot girl, nữ sinh, xinh đẹp, Phan Đình Phùng, ảnh đẹp
Tóc cột đơn giản với tà áo dài trắng, Ngọc Diệu rạng rỡ trong nắng tháng 5.
hot girl, nữ sinh, xinh đẹp, Phan Đình Phùng, ảnh đẹp
Ngồi bên cạnh Ngọc Diệu là Hà Phương.
hot girl, nữ sinh, xinh đẹp, Phan Đình Phùng, ảnh đẹp
Nữ sinh này cũng có vẻ đẹp mộc mạc, trong sáng đúng tuổi học trò.
hot girl, nữ sinh, xinh đẹp, Phan Đình Phùng, ảnh đẹp
Cả hai có nụ cười khá giống nhau.
hot girl, nữ sinh, xinh đẹp, Phan Đình Phùng, ảnh đẹp
Áo trắng trên sân trường.
hot girl, nữ sinh, xinh đẹp, Phan Đình Phùng, ảnh đẹp
Nhắc đến trường Phan Đình Phùng, nhiều bạn trẻ sẽ nhớ đến hot girl Quỳnh Anh Shyn. Sáng nay cô khá trầm tư vì sau buổi lễ này, Quỳnh Anh sẽ từ giã mái trường cấp ba để bước vào thời đại học.
hot girl, nữ sinh, xinh đẹp, Phan Đình Phùng, ảnh đẹp
Sân trường Phan Đình Phùng cũng còn không ít nữ sinh xinh xắn khác.
hot girl, nữ sinh, xinh đẹp, Phan Đình Phùng, ảnh đẹp
Tất cả đều được lưu giữ bằng những khoảnh khắc bên nhau.
hot girl, nữ sinh, xinh đẹp, Phan Đình Phùng, ảnh đẹp
Trường THPT Phan Đình Phùng - nơi tập chung nhiều nữ sinh xinh đẹp.
 Dưới đây là clip chia tay sôi động của học sinh Trường THPT Trần Phú (Hà Nội):
(Theo Tuấn Mark - Zing)

Nhật Bản sẽ hỗ trợ tàu tuần tra cho VN

BTTD: Nhật (Mỹ) cung cấp trang thiết bị phòng vệ biển cho VN, coi như đã công khai ủng hộ VN chống TQ.

Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida dự kiến đến thăm VN từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 7.
Theo VOV, hãng tin Kyodo (Nhật Bản) dẫn nguồn tin Chính phủ ngày 22/5 cho biết, Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida dự kiến đến thăm VN từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 7 nhằm thúc đẩy hợp tác trong an ninh hàng hải ở khu vực Biển Đông.
Nhật Bản, Trung Quốc, giàn khoan, Phó Thủ tướng, Phạm Bình Minh, Vũ Đức Đam, chủ quyền, Hải Dương 981
Hình minh họa: Shikishima- một trong những tàu tuần tra lớn và hiện đại nhất thế giới của Nhật Bản. (Theo Wikipedia)
Nguồn tin trên cho biết thêm, trong một buổi gặp mặt tại Hà Nội, Ngoại trưởng Nhật Bản Kishida và Bộ trưởng Ngoại giao VN Phạm Bình Minh đã gần đạt đến sự thống nhất với nhau trong việc Nhật Bản sẽ cung cấp tàu tuần tra cho VN.
Hãng tin Kyodo nhận định, về diễn biến tình hình hiện tại, TQ đang gia tăng căng thẳng trên biển bằng cách triển khai một giàn khoan dầu ngoài khơi vùng biển đặc quyền kinh tế của VN.
Cũng trong ngày 22/5, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã có cuộc hội đàm với Thủ tướng Shinzo Abe tại Tokyo trong chuyến thăm chính thức nước này của Phó Thủ tướng.
Lãnh đạo Nhật Bản và VN đã quyết định tăng cường mối quan hệ hợp tác an ninh hàng hải song phương đồng thời chỉ trích hành động TQ hung hăng đâm vào tàu VN trên Biển Đông.

“Tôi đặc biệt quan ngại về những căng thẳng trong khu vực xuất phát từ hành động TQ đơn phương hạ đặt trái phép giàn khoan nước sâu Hải Dương 981. Nhật Bản sẽ tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ và giám sát luật pháp”, Bộ Ngoại giao Nhật Bản dẫn lời Thủ tướng Shinzo Abe phát biểu trong cuộc họp với Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã đánh giá cao sự ủng hộ của Nhật Bản và khẳng định VN đang thực hiện những nỗ lực ngoại giao để giải quyết một cách hòa bình trước việc TQ hạ đặt trái phép giàn khoan trong vùng biển thuộc chủ quyền của VN, đồng thời kêu gọi Tokyo tiếp tục hỗ trợ.

H.Nhì tổng hợp

Công thư 1958 không công nhận chủ quyền Hoàng Sa cho TQ


Công thư mà Việt Nam gửi Trung Quốc năm 1958 không hề đề cập đến các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; trên thực tế chúng nằm dưới vĩ tuyến 17, thuộc quản lý của Việt Nam Cộng hòa khi đó, vì thế công thư không thể là sự công nhận chủ quyền của Trung Quốc với hai quần đảo như Bắc Kinh viện cớ vin vào. 
MG-1434-9830-1400731538-8449-1400833895.
Tàu của cảnh sát biển Việt Nam thực hiện nhiệm vụ tại khu vực quần đảo Hoàng Sa. Phía xa là giàn khoan 981 mà Trung Quốc hạ đặt trái phép. Ảnh: Nguyễn Đông
Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm nay tổ chức họp công bố các diễn biến thực địa ở khu vực mà Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển Việt Nam; các cơ sở pháp lý và bằng chứng chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo.
Đây là lần thứ ba Bộ Ngoại giao tổ chức họp báo quốc tế kể từ khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trên bờ biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hồi đầu tháng. Sự kiện thu hút sự quan tâm của hơn 200 phóng viên, nhà báo của các hãng thông tấn trong và ngoài nước. Phòng họp chật kín phóng viên, nhiều người phải đứng.
Các quan chức Việt Nam chủ trì cuộc họp báo hôm nay cho thấy quyết tâm bảo vệ chủ quyền. Khi được đề nghị bình luận về việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu rằng Việt Nam "không đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông" và về 16 chữ vàng trong mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, ông Trần Duy Hải, Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, nói: "Vấn đề chủ quyền lãnh thổ là hết sức thiêng liêng và không gì đánh đổi được. Vàng rất quý nhưng độc lập tự do và chủ quyền lãnh thổ còn quý hơn vàng".
Ông Hải cho biết bất chấp sự giao thiệp nghiêm túc của Việt Nam với phía Trung Quốc từ nhiều cấp, nhiều hình thức, mọi thiện chí của Việt Nam không được đáp ứng.
Việt Nam đã nhiều lần yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và tàu hộ tống khỏi vùng biển Việt Nam, yêu cầu Trung Quốc không gây ảnh hưởng đến an ninh an toàn hàng hải, và sau khi Trung Quốc rút giàn khoan đôi bên sẽ trao đổi để kiềm chế và kiểm soát ổn định tình hình trên biển.
Tuy nhiên Trung Quốc vẫn tiếp tục các hành vi xâm phạm, thậm chí có nhiều tuyên bố sai lệch, ông Hải cho biết.
Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới bác bỏ luận điệu sai trái của Trung Quốc và nêu rõ quan điểm cũng như các bằng chứng của Việt Nam liên quan đến chủ quyền biển đảo. Ông Hải trình chiếu video cho thấy các tư liệu pháp lý lịch sử của Việt Nam liên quan đến quần đảo Hoàng Sa. 
"Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và lịch sử đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", ông nói và nêu từng vấn đề.
Bản đồ mang tên Partie de la Cochinchie vẽ chính xác vị trí của PARACELS (Hoàng Sa) trong khoảng vĩ độ 16 đến 17 và kinh độ từ 109 đến 111. Bên cạnh là một bản giới thiệu tóm tắt về Đề chế An Nam. Ảnh: Trung Nguyễn.
Bản đồ mang tên Partie de la Cochinchie về nước An Nam với quần đảo Hoàng Sa.
"Từ rất nhiều thế kỷ nay, ít nhất là từ thế kỷ thứ 17 các nhà nước Việt Nam đã xác lập và thực thi chủ quyền với hai quần đảo này từ khi còn là đất vô chủ. Các Nhà nước phong kiến Việt Nam thực thi chủ quyền của mình ở Trường Sa và Hoàng Sa một cách hòa bình, liên tục phù hợp với luật pháp quốc tế và không bị quốc gia nào phản đối.
"Trong thời kỳ Pháp thuộc từ giữa thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ 20 Pháp đã nhân danh Nhà nước Việt Nam để tiếp tục quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời phản đối các yêu sách của các nước liên quan đối với hai quần đảo này.
"Chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo đã được khẳng định và  thừa nhận tại hội nghị San Francisco tháng 9/1951. Đây là hội nghị giải quyết các vấn đề lãnh thổ sau Thế chiến thứ hai.
"Tại hội nghị này, phái đoàn Liên Xô có đề nghị trao hai quần đảo cho Trung Quốc nhưng 46/51 nước đã bỏ phiếu chống, phản đối. Cũng tại hội nghị này, trưởng phái đoàn của Chính phủ Bảo Đại đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này và không gặp phải sự phản đối của bất cứ ai.
"Sau Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam Cộng hòa cũng đã ra nhiều tuyên bố và có những hành vi trên thực tế để thực thi chủ quyền với hai quần đảo này. Trung Quốc là một nước tham gia hội nghị quốc tế về Đông Dương Geneva năm 1954, biết rất rõ điều này và phải có trách nhiệm tôn trọng các văn kiện của hội nghị này.
"Năm 1974 Trung Quốc đã sử dụng vũ lực chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Việt Nam Cộng hòa cũng như chính phủ Cách mạng lâm thời của Cộng hòa miền Nam Việt Nam đều lên tiếng phản đối hành động đó của Trung Quốc và khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam với quần đảo Hoàng Sa.
"Từ góc độ luật pháp quốc tế, việc chiếm đóng bằng vũ lực lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền là một hành vi phi pháp và không thể đem lại chủ quyền cho Trung Quốc với Hoàng Sa", ông Hải kết luận. "Thực tế là cho đến nay không có một quốc gia nào trên thế giới công nhận chủ quyền của Trung Quốc với quần đảo Hoàng Sa".
Về công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, ông Hải phân tích văn bản này hoàn toàn không đề cập đến vấn đề lãnh thổ, chủ quyền và không đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nội dung công thư chỉ ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải 12 hải lý, đồng thời chỉ thị cho các cơ quan Việt Nam tôn trọng giới hạn 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố mà thôi.
Việc công thư không đề cập đến hai quần đảo cũng phù hợp với thực tế lúc đó: hai quần đảo nằm dưới vĩ tuyến 17 và thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa, được Pháp giao lại năm 1956 phù hợp với Hiệp định Geneva năm 1954 mà Trung Quốc có tham gia.
Ngoài ra, công thư phải đặt trong bối cảnh cụ thể thời điểm được gửi cho Trung Quốc, khi đó Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, theo Hiệp định Geneva, Trung Quốc là bên tham gia.
"Bạn không thể cho người khác cái bạn chưa có. Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị gì với việc công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa hay Nam Sa theo cách gọi của Trung Quốc", ông Hải khẳng định.
Về khả năng Việt Nam có thể sẽ sử dụng hành động pháp lý trước tình hình hiện tại, bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Hàm Vụ trưởng Vụ Luật pháp quốc tế Bộ Ngoại giao, cho biết, với tư cách thành viên của Công ước Quốc tế về Luật biển (UNCLOS), Việt Nam có quyền sử dụng tất cả các cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến mình.
"Việt Nam sẽ sử dụng các biện pháp hòa bình, bao gồm khả năng sử dụng cơ quan tài phán quốc tế mà Hiến chương Liên Hợp Quốc và UNCLOS khẳng định. Việt Nam sẽ sử dụng các biện pháp phù hợp luật quốc tế, và sử dụng các biện pháp này tốt hơn là để xảy ra xung đột vũ trang", bà Hà nói.
"Lãnh đạo Việt Nam khẳng định không loại trừ bất cứ biện pháp nào, chúng tôi với tư cách cơ quan tư vấn pháp lý sẽ chuẩn bị mọi biện pháp có thể sử dụng được", bà nói thêm.
Việt Nam và Trung Quốc nhất trí giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình, các thông tin cho rằng Trung Quốc điều chuyển quân đến khu vực biên giới là chưa chính xác, ông Trần Duy Hải cho biết.
"Trong cuộc gặp của hai Thứ trưởng Ngoại giao, hai bên nhất trí không sử dụng biện pháp quân sự để giải quyết bất đồng. Tôi xin khẳng định như vậy", ông Hải nói, và cho biết thêm rằng hiện các hoạt động giao thương trên biên giới Việt - Trung diễn ra bình thường.
Theo các cơ quan chức năng của Việt Nam, trong các cuộc gây rối ở Hà Tĩnh, có hai người Trung Quốc chết. Ở Bình Dương, các đối tượng xấu gây xô xát, gây ra cái chết cho một người Trung Quốc.
Về việc công nhân Trung Quốc về nước sau các sự cố biểu tình, ông Lê Hải Bình khẳng định những vụ gây rối tại một số địa phương là hết sức đáng tiếc. Dưới sự chỉ đạo của của Thủ tướng chính phủ, tình hình đã trở về bình thường, ổn định
"Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài đã khôi phục hoạt động. Chính phủ Việt Nam sẽ sử dụng mọi biện pháp đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản, đồng thời đảm bảo không để tái diễn sự cố đáng tiếc như vừa qua", ông Bình cho biết. 
"Tuyệt đại đa số doanh nghiệp bị ảnh hưởng đều đánh giá cao nỗ lực của chính phủ Việt Nam. Theo chúng tôi được biết, trừ Trung Quốc, không có nước nào rút công dân về nước", ông Bình nói.
anh-Le-hai-binh-cut-8325-14008-4872-9271
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình khẳng định, sau một số vụ gây rối, tình hình đã trở lại hoàn toàn bình thường. Ảnh: Nguyên Anh
Bác bỏ quan điểm của Trung Quốc về khai thác dầu khí
Ông Đỗ Văn Hậu, Tổng giám đốc Tập đoàn dầu khí Việt Nam cho biết từ năm 1996, sau khi quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước Quốc tế về Luật biển (UNCLOS),  hoạt động dầu khí chỉ thực hiện trong vòng 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Phía Việt Nam đã ký 99 hợp đồng với doanh nghiệp nước ngoài. 30 mỏ đang được khai thác trong vùng thềm lục địa vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, được quốc  tế công nhận. 
Ông Hậu bác bỏ tài liệu của phía Trung Quốc công bố hôm 16/5 cho rằng "Việt Nam đã phân 57 lô dầu khí và có 37 giàn khoan tại vùng biển có tranh chấp".
"Trung Quốc chỉ nêu ra mà không có cơ sở pháp lý nào chứng minh. Chúng tôi bác bỏ quan điểm của Trung Quốc".
Ông Hậu phân tích rằng quan điểm trên của phía Trung Quốc thực chất là nhằm biến những khu vực không tranh chấp trên thềm lục địa Việt Nam thành những khu vực tranh chấp, với ý đồ hiện thực hóa yêu sách đường lưỡi bò đang bị cả cộng đồng quốc tế lên án.
Đánh giá trữ lượng dầu mỏ tại khu vực này, ông Hậu cho biết có các đánh giá của Trung Quốc, Mỹ và các nước trong khu vực về trữ lượng hydro carbon về toàn bộ khu vực Biển Đông, Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu khảo sát, dự báo là từ 4 đến 6 tỷ tấn trong vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. "Tại những khu vực đang khoan, chúng tôi đánh giá triển vọng ở đây là không lớn", ông Hậu nói.
Anh-ong-gia-cut-8994-1400839183.jpg
Ông Đỗ Văn Hậu khẳng định các lô dầu khí mà Việt Nam lập ra và khai thác đều hợp pháp và được quốc tế công nhận. Ảnh: Nguyên Anh
Đấu tranh ngoại giao
Kể từ khi Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc đưa giàn khoan trái phép vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, chính phủ Việt Nam đã 20 lần yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan cùng tàu và máy bay khỏi khu vực, đồng thời tố cáo hành vi vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc tại các Hội nghị của khu vực ASEAN và các Diễn đàn quốc tế.
Trên kênh ngoại giao đa phương, Việt Nam đưa vụ việc này ra Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 24 diễn ra ngày 11/5 tại Myanmar, Diễn đàn kinh tế Thế giới về Đông Á tại Philippines, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng yêu chuộng hòa bình thế giới. 
Trên các diễn đàn này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng, nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó. Việt Nam khẳng định kiên quyết bảo vệ chủ quyền bằng các biện pháp hòa bình và phù hợp luật pháp quốc tế. 
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã điện đàm với người đồng cấp Trung Quốc Vương Nghị, nhằm đề nghị Bắc Kinh phản hồi tích cực trước yêu cầu rút giàn khoan 981 ra khỏi vùng biển Việt Nam. Ông cũng có các cuộc nói chuyện điện thoại với bộ trưởng ngoại giao các nước Mỹ, Nga, Indonesia và Singapore để thông báo những nỗ lực của Việt Nam nhằm giảm tình hình căng thẳng tại Biển Đông. 
Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh hôm 20/5 gặp với người đồng cấp Trung Quốc Thường Vạn Toàn bên lề hội nghị quốc phòng các ASEAN (ADMM) tại Myanmar, yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan khỏi khu vực.
Tại thực địa, các tàu kiểm ngư của Việt Nam vẫn kiên trì đấu tranh hòa bình, triển khai khoảng 20 tàu, tiến sâu và áp sát giàn khoan hơn để phát loa tuyên truyền, yêu cầu tàu Trung Quốc rời khỏi khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Trọng Giáp - Hoàng Thùy (Vnexpress)

Đẹp bình yên xã đảo Nhơn Châu

 - Ấn tượng đầu tiên đập vào mắt du khách là một hòn đảo xanh ngắt nằm giữa biển. Từ ngoài biển nhìn vào, làng chài của ngư dân nằm nghiêng dưới chân núi. Nhìn lên đỉnh núi là ngọn hải đăng cao sừng sững.

Nhơn Châu (hay còn gọi là Cù Lao Xanh) là xã đảo của Thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, cách TP.Quy Nhơn 24 km.

Từ trung tâm xã, men theo con đường bê tông, qua các dãy nhà nhỏ, có thể chầm chậm từng bước leo lên núi, nơi có ngọn hải đăng được xây dựng vào năm 1899.
Ngọn hải đăng trên xã đảo.
Ngọn hải đăng trên xã đảo.

Hải đăng cao 118 mét so với mực nước biển, trong đó tháp đèn cao 16m, đường kính rộng 3m. Bóng đèn 12V, công suất 100W, được khuếch đại qua thấu kính đặc biệt có thể chiếu xa 25 hải lý. 

Đứng trên ngọn hải đăng, có thể phóng tầm mắt ngắm nhìn bao quát cảnh biển và trời nước mênh mông tuyệt đẹp, vì thê dân ca quê tôi có câu: 

Bịnh Định có núi Vọng Phu 

Có Đầm Thị Nại, có Cù Lao Xanh
 ...

Đến với xã đảo Nhơn Châu.
Đến với xã đảo Nhơn Châu.
Những cây dừa đổ bóng xuống biển đảo quê hương.
Những cây dừa đổ bóng xuống biển đảo quê hương.
Kè chằn sóng ở xã đảo.
Kè chằn sóng ở xã đảo.
Một góc hình của xã đảo.
Một góc hình của xã đảo.
Ngọn hải đăng Nhơn Châu xây dựng vào năm 1899.
Ngọn hải đăng Nhơn Châu xây dựng vào năm 1899.
Nhà làm việc của hải đăng trên núi.
Nhà làm việc của hải đăng trên núi.
Phong cảnh xã đảo nhìn từ ngọn hải đăng.
Phong cảnh xã đảo nhìn từ ngọn hải đăng.
Lăng ông Nam Hải trên đảo.
Lăng ông Nam Hải trên đảo.
Nhìn ra biển từ một hóc trên thân cây bàng cổ thụ trên đảo.
Nhìn ra biển từ một hóc trên thân cây bàng cổ thụ trên đảo.
Những là bàng xanh bên thân xù xì của cây bàng cổ thụ mọc trên đảo.
Những là bàng xanh bên thân xù xì của cây bàng cổ thụ mọc trên đảo.
Đường trong xóm ở xã đảo.
Đường trong xóm ở xã đảo.
Cuộc sống bình yên trên xã đảo.
Cuộc sống bình yên trên xã đảo.
Ngư dân đang sắp lưới cho công việc đánh bắt hải sản, công việc chính của xã đảo.
Ngư dân đang sắp lưới cho công việc đánh bắt hải sản, công việc chính của xã đảo.
Xã đảo Nhơn Châu luôn bình dị, chào đón du khách.
Xã đảo Nhơn Châu luôn bình dị, chào đón du khách.