Trang

9 tháng 5, 2014

Cận cảnh khu VIP sếp người Đài trong siêu DA tỷ đô


- Tòa nhà khách 9 tầng với 418 phòng sang trọng bên trong Siêu DA Formosa (huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh) vừa mới được đưa vào sử dụng. Trong đó, tại tầng 9 có 9 phòng dành riêng cho 9 lãnh đạo cao cấp nhất của Tập đoàn Formosa (Đài Loan).
Theo một cán bộ kỹ thuật thi công tòa nhà khách Formosa, trong 9 tầng của tòa nhà thì đặc biệt nhất là tầng thứ 9. Nơi đây có 9 phòng ngủ, nghỉ, phòng ăn, thể dục thể thao, khu karaoke giải trí của Chủ tịch, Tổng Giám đốc và các lãnh đạo cao cấp của Tập đoàn.
Chùm ảnh bên trong tầng ‘đặc biệt’ nhất của nhà khách Siêu DA 15 tỷ đô do VietNamNet ghi lại:
dự án, tỷ đô, Đài Loan, Formosa
Khu vực tiếp khách quan trọng tại tầng 9, tòa nhà khách Formosa.
dự án, tỷ đô, Đài Loan, Formosa
Nội thất được bố trí đơn giản nhưng toát lên vẻ sang trọng.

dự án, tỷ đô, Đài Loan, Formosa
Phòng ăn của các lãnh đạo cao cấp nhất của Chủ quản, Tổng tài người Đài Loan.

dự án, tỷ đô, Đài Loan, Formosa

dự án, tỷ đô, Đài Loan, Formosa
Các vị trí trên bàn ăn có ghi tên của từng vị lãnh đạo tập đoàn.

dự án, tỷ đô, Đài Loan, Formosa
Nơi đây chỉ dành cho những lãnh đạo cao cấp nhất của Tập đoàn Formosa.

dự án, tỷ đô, Đài Loan, Formosa
Một trong chín phòng ngủ cao cấp nhất của tòa nhà.

dự án, tỷ đô, Đài Loan, Formosa
Nhà đầu tư đến từ Đài Loan đã làm hẳn 1 phòng hát karaoke để cho lãnh đạp tập đoàn thư giãn, giải trí.

dự án, tỷ đô, Đài Loan, Formosa
Hành lang đi vào khu nghỉ VIP nhất của tòa nhà.

dự án, tỷ đô, Đài Loan, Formosa
Tờ thông báo ghi: Ngoài các chủ quan cấp cao, các nhân viên phải cởi giày khi vào khu vực này.

dự án, tỷ đô, Đài Loan, Formosa
Khu thể dục, thể thao phía trên tầng thượng tòa nhà.

dự án, tỷ đô, Đài Loan, Formosa
Toàn cảnh tòa nhà 9 tầng mới xây dựng. Từ tầng 1 đến tầng 8, có khoảng 400 phòng, dùng cho chủ quản cấp 1 người Đài ở và cho các nhà thầu thuê ở. Giá mỗi phòng 80 USD/ngày. Nếu làm hợp đồng thì giá thuê là 60 USD.

dự án, tỷ đô, Đài Loan, Formosa
Một góc bên trong siêu dự án 15 tỷ đô ở Vũng Áng, Hà Tĩnh.
Duy Tuấn - Bùi Tiến

Thủ phạm' gây ngờ vực Mỹ - Trung

Sự hoài nghi này đang làm trầm trọng hóa các căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc. Vậy đâu là "thủ phạm"?
Chuyến thăm mới đây của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel tới Trung Quốc, chuyến công du của lãnh đạo Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ Gina McCarthy tới Đài Loan cũng như phản ứng của giới lãnh đạo Trung Quốc trước những sự kiện này cho thấy mối quan hệ Mỹ - Trung tiếp tục trải qua cái mà nhiều chuyên gia gọi là "sự ngờ vực chiến lược".
Sự hoài nghi này đang làm trầm trọng hóa các căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc. Vậy đâu là "thủ phạm" của sự hoài nghi chiến lược Trung - Mỹ?
Các thông cáo chung năm 1972, 1979 và 1982 đóng vai trò như những nền tảng cho quan hệ Mỹ - Trung, đồng thời nghịch lý là cũng làm xói mòn quan hệ song phương trong 2 vấn đề then chốt là Đài Loan và Nhật Bản.
Mỹ, TRung, Tập Cận Bình, Obama, thông cáo, Đài Loan, Nhật Bản, tranh chấp lãnh thổ
Ông Obama và Tập Cận Bình trong một cuộc gặp hồi tháng 3 năm nay. Ảnh: Reuters
Vấn đề Đài Loan
Sự hoài nghi trong vấn đề Đài Loan hiển nhiên giữ vai trò quan trọng trong quan hệ Mỹ - Trung, vì nó chiếm vị trí trung tâm trong cả 3 thông cáo chung. Tuy nhiên, mỗi thông cáo chứa đựng sự nhập nhằng về cấu trúc ngôn từ trực tiếp về nền tảng của quan hệ Mỹ - Trung. Ngôn từ được dùng hé lộ, mỗi bên có cách hiểu khác nhau và quan điểm đối lập về tương lai chính trị của "một Trung Quốc".
Đảng cộng sản Trung Quốc (CPC) tuyên bố là nhà cầm quyền hợp pháp của "một Trung Quốc" và nhấn mạnh quan điểm buộc giới chức Mỹ phải chấp nhận tính hợp pháp của Đảng và trao trả Đài Loan về cho Trung Quốc. Quan điểm của Mỹ công nhận CPC, nhưng vẫn giữ thái độ không rõ ràng, chỉ "thừa nhận một chính phủ hợp pháp" của "một Trung Quốc" mà không nói rõ đó là chính phủ nào.
Quan điểm mập mờ của Washington đã rõ ràng hơn khi xem xét các thay đổi liên quan đến quan hệ Mỹ - Đài Loan. Lấy các hành động của quốc hội Mỹ làm ví dụ. Các hành động này cho thấy sự ủng hộ mạnh mẽ về văn hóa, phòng vệ, kinh tế và chính trị đối với giới cầm quyền và cư dân Đài Loan.
Chúng cũng xảy ra trong một bối cảnh được định hình bằng các tiền lệ mạnh mẽ. Xét về lịch sử, phía Mỹ đã hậu thuẫn đồng minh Thế chiến hai Tưởng Giới Thạch và Quốc dân đảng (KMT) trong cuộc nội chiến của Trung Quốc. Kết thúc chiến tranh, thông qua các thỏa thuận Cairo, Potsdam và Yalta, Mỹ cùng với các cường quốc khác đã trao trả Đài Loan cho Trung Quốc. Vào thời điểm đó, KMT là đảng cầm quyền của "một Trung Quốc".
Trong các thập niên tiếp theo, phía Mỹ tiếp tục ủng hộ KMT, đồng thời tham gia các cuộc chiến gián tiếp với CPC và mất 30 năm mới thừa nhận CPC là đảng cầm quyền hợp pháp của Trung Quốc đại lục. Bối cảnh quan hệ Mỹ - KMT như thế này đã tăng thêm nét đặc trưng cho quan điểm mập mờ của Washington.
Trong thông cáo năm 1982, giới cầm quyền Mỹ từng trấn an rằng, nước này sẽ giảm và chấm dứt việc bán vũ khí cho Đài Loan, trong khi giới chức Trung Quốc cam kết một giải pháp hòa bình cho vấn đề Đài Loan. Đối với Mỹ, suốt hơn 30 năm, nước này đã bán vũ khí cho chính quyền Đài Loan.
Giới lãnh đạo Trung Quốc đã và vẫn tiếp tục lo lắng trước một số hợp đồng mua bán và các cuộc thảo luận mua bán vũ khí có tính năng tấn công, chẳng hạn như vào năm 1992, khi Mỹ bán các chiến đấu cơ F-16 A/B cho Đài Loan. Thêm vào đó, phía Trung Quốc coi các cuộc thảo luận mua bán vũ khí giữa các quan chức Mỹ và Đài Loan tương đương với sự hậu thuẫn chính thức về chính trị và quân sự cũng như công nhận Đài Loan.
Về phần mình, nhà cầm quyền Trung Quốc cam kết sự tái thống nhất một cách hòa bình. Tuy nhiên, họ nhấn mạnh có quyền dùng vũ lực chống lại Đài Loan và vào năm 1995 đã xác định 3 điều kiện buộc phải vận dụng sức mạnh quân sự.
Từ quan điểm của Mỹ, một vấn đề trọng yếu là, quân đội Trung Quốc vẫn duy trì hơn 1.100 tên lửa tầm ngắn và tầm trung triển khai ở các tỉnh Giang Tây và Phúc Kiến. Việc dàn trận tên lửa này không chỉ đe dọa Đài Loan và Nhật, 2 vùng lãnh thổ Mỹ đều nhận được yêu cầu bảo vệ, mà còn đe dọa cả các cơ sở quân sự của Mỹ ở Nhật.
Mỹ, TRung, Tập Cận Bình, Obama, thông cáo, Đài Loan, Nhật Bản, tranh chấp lãnh thổ
Tiêm kích đa năng F-16A/B Đài Loan
Vần đề Nhật Bản
Nguồn cơn thứ hai của sự ngờ vực chiến lược là Nhật. Bất chấp ảnh hưởng lớn của quan hệ Mỹ - Nhật đối với quan hệ Mỹ - Trung, chỉ thông cáo chung Thượng Hải năm 1972 đề cập tới Nhật.
Theo thông cáo, phía Trung Quốc tuyên bố, "họ kiên quyết phản đối sự mở rộng mang tính khôi phục và tiến xa hơn của chủ nghĩa quân phiệt Nhật, cũng như kiên quyết ủng hộ nguyện vọng của người dân Nhật về việc xây dựng một nước Nhật độc lập, dân chủ, hòa bình và trung lập". Phía Mỹ nhấn mạnh, nước này "đề cao nhất mối quan hệ thân thiện với Nhật và sẽ tiếp tục phát triển các mối ràng buộc chặt chẽ đã có".
Trong quan niệm của Trung Quốc, Washington là tác nhân chính cho sự chuyển biến của Nhật. Theo thời gian, Mỹ đã giúp biến lực lượng tự phòng vệ của Nhật trở thành một quân đội quốc gia. Và nước này cũng hỗ trợ phía Nhật thâu tóm và sản xuất các hệ thống vũ khí công nghệ tiên tiến, một vài trong số chúng có khả năng tấn công, thông qua sự cộng tác. Ngay trong hiện tại, giới lãnh đạo Trung Quốc coi Mỹ là tác nhân chính cho sự trỗi dậy của Nhật và rằng nước này thiếu quyết tâm chính trị để kiềm chế một nước Nhật ngày càng quả quyết.
Cả phía Mỹ và Trung Quốc trong các thông cáo năm 1972 và 1978 đều nhất trí rằng, không bên nào theo đuổi quyền bá chủ và sự thống trị ảnh hưởng trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đối với Trung Quốc, các thỏa thuận an ninh Mỹ - Nhật và quy mô chống đỡ quân sự của Mỹ không chỉ hé lộ việc Washington đang theo đuổi vị trí bá chủ trong khu vực, mà còn cho thấy họ đang thông đồng với Nhật (và với Philippines) để tạo ra tầm ảnh hưởng trong khu vực.
Trong cấu trúc khu vực tiềm năng, Mỹ và Nhật Bản sẽ nằm ở vị trí lãnh đạo trung tâm, và tầm ảnh hưởng bao gồm bán đảo Triều Tiên, khu vực eo biển Đài Loan cũng như các khu vực kéo dài đến eo biển Malacca. Về cơ bản, các lãnh đạo Trung Quốc tin rằng, giới chức Mỹ có thiết kế đầy tham vọng cho khu vực, bao gồm cả vai trò trọng yếu đối với Nhật Bản. Và vì những lí do hiển nhiên này, Mỹ đã cắt xén cam kết trong các thông cáo năm 1972 và 1978.
Ngược lại, phía Mỹ có thể cảm thấy rằng, giới lãnh đạo Trung Quốc đang nhắm loại bỏ Mỹ và thiết lập một cấu trúc khu vực với Trung Quốc ở trung tâm. Chẳng hạn như, Bắc Kinh đã theo đuổi các tính năng vũ khí tiên tiến, bao gồm tên lửa chống tàu và các phương tiện siêu thanh ít hoặc thiếu minh bạch cũng như không có đối thoại thể chế.
Từ quan điểm của Mỹ, các khả năng ngày càng tăng, ẩn giấu sau "bức tường chắn sáng khổng lồ" cho thấy, giới lãnh đạo Trung Quốc có thể là một mối đe dọa mới mẻ. Để đáp lại, giới chức Mỹ hiện có xu hướng chơi "quân cờ Nhật Bản," "quân cờ Philippines" và cả "quân cờ Hàn Quốc" để tạo ra các trung tâm quyền lực nhằm đối đầu và làm đối trọng với sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Trong quá khứ, cách tiếp cận này đã dẫn đến các cuộc chiến tranh thế giới. Tuy nhiên, đối với hiện tại, nó đã khuyến khích giới lãnh đạo Trung Quốc thực thi các biện pháp phòng vệ và tấn công ngày càng chủ động hơn.
Quỳnh Anh(theo The Diplomat)
* Tác giả bài viết, tiến sĩ JM Norton, hiện giảng dạy về quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại của Mỹ tại Đại học Ngoại giao Trung Quốc (CFAU) ở Bắc Kinh, Trung Quốc. 

Sự hoài nghi này đang làm trầm trọng hóa các căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc. Vậy đâu là "thủ phạm"?
Chuyến thăm mới đây của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel tới Trung Quốc, chuyến công du của lãnh đạo Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ Gina McCarthy tới Đài Loan cũng như phản ứng của giới lãnh đạo Trung Quốc trước những sự kiện này cho thấy mối quan hệ Mỹ - Trung tiếp tục trải qua cái mà nhiều chuyên gia gọi là "sự ngờ vực chiến lược".
Sự hoài nghi này đang làm trầm trọng hóa các căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc. Vậy đâu là "thủ phạm" của sự hoài nghi chiến lược Trung - Mỹ?
Các thông cáo chung năm 1972, 1979 và 1982 đóng vai trò như những nền tảng cho quan hệ Mỹ - Trung, đồng thời nghịch lý là cũng làm xói mòn quan hệ song phương trong 2 vấn đề then chốt là Đài Loan và Nhật Bản.
Mỹ, TRung, Tập Cận Bình, Obama, thông cáo, Đài Loan, Nhật Bản, tranh chấp lãnh thổ
Ông Obama và Tập Cận Bình trong một cuộc gặp hồi tháng 3 năm nay. Ảnh: Reuters
Vấn đề Đài Loan
Sự hoài nghi trong vấn đề Đài Loan hiển nhiên giữ vai trò quan trọng trong quan hệ Mỹ - Trung, vì nó chiếm vị trí trung tâm trong cả 3 thông cáo chung. Tuy nhiên, mỗi thông cáo chứa đựng sự nhập nhằng về cấu trúc ngôn từ trực tiếp về nền tảng của quan hệ Mỹ - Trung. Ngôn từ được dùng hé lộ, mỗi bên có cách hiểu khác nhau và quan điểm đối lập về tương lai chính trị của "một Trung Quốc".
Đảng cộng sản Trung Quốc (CPC) tuyên bố là nhà cầm quyền hợp pháp của "một Trung Quốc" và nhấn mạnh quan điểm buộc giới chức Mỹ phải chấp nhận tính hợp pháp của Đảng và trao trả Đài Loan về cho Trung Quốc. Quan điểm của Mỹ công nhận CPC, nhưng vẫn giữ thái độ không rõ ràng, chỉ "thừa nhận một chính phủ hợp pháp" của "một Trung Quốc" mà không nói rõ đó là chính phủ nào.
Quan điểm mập mờ của Washington đã rõ ràng hơn khi xem xét các thay đổi liên quan đến quan hệ Mỹ - Đài Loan. Lấy các hành động của quốc hội Mỹ làm ví dụ. Các hành động này cho thấy sự ủng hộ mạnh mẽ về văn hóa, phòng vệ, kinh tế và chính trị đối với giới cầm quyền và cư dân Đài Loan.
Chúng cũng xảy ra trong một bối cảnh được định hình bằng các tiền lệ mạnh mẽ. Xét về lịch sử, phía Mỹ đã hậu thuẫn đồng minh Thế chiến hai Tưởng Giới Thạch và Quốc dân đảng (KMT) trong cuộc nội chiến của Trung Quốc. Kết thúc chiến tranh, thông qua các thỏa thuận Cairo, Potsdam và Yalta, Mỹ cùng với các cường quốc khác đã trao trả Đài Loan cho Trung Quốc. Vào thời điểm đó, KMT là đảng cầm quyền của "một Trung Quốc".
Trong các thập niên tiếp theo, phía Mỹ tiếp tục ủng hộ KMT, đồng thời tham gia các cuộc chiến gián tiếp với CPC và mất 30 năm mới thừa nhận CPC là đảng cầm quyền hợp pháp của Trung Quốc đại lục. Bối cảnh quan hệ Mỹ - KMT như thế này đã tăng thêm nét đặc trưng cho quan điểm mập mờ của Washington.
Trong thông cáo năm 1982, giới cầm quyền Mỹ từng trấn an rằng, nước này sẽ giảm và chấm dứt việc bán vũ khí cho Đài Loan, trong khi giới chức Trung Quốc cam kết một giải pháp hòa bình cho vấn đề Đài Loan. Đối với Mỹ, suốt hơn 30 năm, nước này đã bán vũ khí cho chính quyền Đài Loan.
Giới lãnh đạo Trung Quốc đã và vẫn tiếp tục lo lắng trước một số hợp đồng mua bán và các cuộc thảo luận mua bán vũ khí có tính năng tấn công, chẳng hạn như vào năm 1992, khi Mỹ bán các chiến đấu cơ F-16 A/B cho Đài Loan. Thêm vào đó, phía Trung Quốc coi các cuộc thảo luận mua bán vũ khí giữa các quan chức Mỹ và Đài Loan tương đương với sự hậu thuẫn chính thức về chính trị và quân sự cũng như công nhận Đài Loan.
Về phần mình, nhà cầm quyền Trung Quốc cam kết sự tái thống nhất một cách hòa bình. Tuy nhiên, họ nhấn mạnh có quyền dùng vũ lực chống lại Đài Loan và vào năm 1995 đã xác định 3 điều kiện buộc phải vận dụng sức mạnh quân sự.
Từ quan điểm của Mỹ, một vấn đề trọng yếu là, quân đội Trung Quốc vẫn duy trì hơn 1.100 tên lửa tầm ngắn và tầm trung triển khai ở các tỉnh Giang Tây và Phúc Kiến. Việc dàn trận tên lửa này không chỉ đe dọa Đài Loan và Nhật, 2 vùng lãnh thổ Mỹ đều nhận được yêu cầu bảo vệ, mà còn đe dọa cả các cơ sở quân sự của Mỹ ở Nhật.
Mỹ, TRung, Tập Cận Bình, Obama, thông cáo, Đài Loan, Nhật Bản, tranh chấp lãnh thổ
Tiêm kích đa năng F-16A/B Đài Loan
Vần đề Nhật Bản
Nguồn cơn thứ hai của sự ngờ vực chiến lược là Nhật. Bất chấp ảnh hưởng lớn của quan hệ Mỹ - Nhật đối với quan hệ Mỹ - Trung, chỉ thông cáo chung Thượng Hải năm 1972 đề cập tới Nhật.
Theo thông cáo, phía Trung Quốc tuyên bố, "họ kiên quyết phản đối sự mở rộng mang tính khôi phục và tiến xa hơn của chủ nghĩa quân phiệt Nhật, cũng như kiên quyết ủng hộ nguyện vọng của người dân Nhật về việc xây dựng một nước Nhật độc lập, dân chủ, hòa bình và trung lập". Phía Mỹ nhấn mạnh, nước này "đề cao nhất mối quan hệ thân thiện với Nhật và sẽ tiếp tục phát triển các mối ràng buộc chặt chẽ đã có".
Trong quan niệm của Trung Quốc, Washington là tác nhân chính cho sự chuyển biến của Nhật. Theo thời gian, Mỹ đã giúp biến lực lượng tự phòng vệ của Nhật trở thành một quân đội quốc gia. Và nước này cũng hỗ trợ phía Nhật thâu tóm và sản xuất các hệ thống vũ khí công nghệ tiên tiến, một vài trong số chúng có khả năng tấn công, thông qua sự cộng tác. Ngay trong hiện tại, giới lãnh đạo Trung Quốc coi Mỹ là tác nhân chính cho sự trỗi dậy của Nhật và rằng nước này thiếu quyết tâm chính trị để kiềm chế một nước Nhật ngày càng quả quyết.
Cả phía Mỹ và Trung Quốc trong các thông cáo năm 1972 và 1978 đều nhất trí rằng, không bên nào theo đuổi quyền bá chủ và sự thống trị ảnh hưởng trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đối với Trung Quốc, các thỏa thuận an ninh Mỹ - Nhật và quy mô chống đỡ quân sự của Mỹ không chỉ hé lộ việc Washington đang theo đuổi vị trí bá chủ trong khu vực, mà còn cho thấy họ đang thông đồng với Nhật (và với Philippines) để tạo ra tầm ảnh hưởng trong khu vực.
Trong cấu trúc khu vực tiềm năng, Mỹ và Nhật Bản sẽ nằm ở vị trí lãnh đạo trung tâm, và tầm ảnh hưởng bao gồm bán đảo Triều Tiên, khu vực eo biển Đài Loan cũng như các khu vực kéo dài đến eo biển Malacca. Về cơ bản, các lãnh đạo Trung Quốc tin rằng, giới chức Mỹ có thiết kế đầy tham vọng cho khu vực, bao gồm cả vai trò trọng yếu đối với Nhật Bản. Và vì những lí do hiển nhiên này, Mỹ đã cắt xén cam kết trong các thông cáo năm 1972 và 1978.
Ngược lại, phía Mỹ có thể cảm thấy rằng, giới lãnh đạo Trung Quốc đang nhắm loại bỏ Mỹ và thiết lập một cấu trúc khu vực với Trung Quốc ở trung tâm. Chẳng hạn như, Bắc Kinh đã theo đuổi các tính năng vũ khí tiên tiến, bao gồm tên lửa chống tàu và các phương tiện siêu thanh ít hoặc thiếu minh bạch cũng như không có đối thoại thể chế.
Từ quan điểm của Mỹ, các khả năng ngày càng tăng, ẩn giấu sau "bức tường chắn sáng khổng lồ" cho thấy, giới lãnh đạo Trung Quốc có thể là một mối đe dọa mới mẻ. Để đáp lại, giới chức Mỹ hiện có xu hướng chơi "quân cờ Nhật Bản," "quân cờ Philippines" và cả "quân cờ Hàn Quốc" để tạo ra các trung tâm quyền lực nhằm đối đầu và làm đối trọng với sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Trong quá khứ, cách tiếp cận này đã dẫn đến các cuộc chiến tranh thế giới. Tuy nhiên, đối với hiện tại, nó đã khuyến khích giới lãnh đạo Trung Quốc thực thi các biện pháp phòng vệ và tấn công ngày càng chủ động hơn.
Quỳnh Anh(theo The Diplomat)
* Tác giả bài viết, tiến sĩ JM Norton, hiện giảng dạy về quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại của Mỹ tại Đại học Ngoại giao Trung Quốc (CFAU) ở Bắc Kinh, Trung Quốc. 

Biển Đông và nguyên tắc 4T



Tổng kết những bài học lịch sử trong quá trình bảo vệ và phát triển đất nước cho cả hai trường hợp thành công và thất bại thì thấy, nguyên tắc chỉ đạo này có thể được khái quát thành công thức: Thực tiễn - Thực dụng - Thực thi - Thực lực - gọi tắt là nguyên tắc 4T.
LTS: Xin giới thiệu lại một bài viết của TS Giáp Văn Dương đã đăng tải trên Tuần Việt Nam, do tính thời sự của bài viết đến nay vẫn còn nguyên giá trị trong thời điểm biển Đông đang dậy sóng hiện nay.
Đấu tranh bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông là một công cuộc gian khó, lâu dài và phức tạp. Tình huống nào cũng có thể xảy ra, nên sẵn sàng chuẩn bị để đối phó với những tình huống xấu là việc làm cần thiết. Vì thế, sau khi đã xác định công thức 4K: Kiên định - Kiên quyết - Kiên cường - Kiên trì làm định hướng cho tâm trí thì cần những nguyên tắc chỉ đạo thích hợp làm phương châm hành động trong suốt tiến trình này. 
Quan sát diễn biến trên Biển Đông trong suốt chiều dài tranh chấp mấy chục năm qua, đồng thời tổng kết những bài học lịch sử trong quá trình bảo vệ và phát triển đất nước cho cả hai trường hợp thành công và thất bại thì thấy, nguyên tắc chỉ đạo này có thể được khái quát thành công thức: Thực tiễn - Thực dụng - Thực thi - Thực lực - gọi tắt là nguyên tắc 4T.
Thực tiễn
Thực tiễn trước hết thể hiện ở việc bám sát diễn biến trên thực hải, thực địa. Đấu tranh trên thực hải, thực địa phải là mặt trận đấu tranh chính. Tiếp đến là tăng cường đấu tranh trên các mặt trận  gián tiếp như chính trị, ngoại giao, pháp lý, truyền thông, kinh tế, văn hóa... để cộng hưởng sức mạnh; bám sát diễn biến thực tế trên các mặt trận này để kịp thời cập nhật tình hình, đánh giá tình hình một cách khách quan, khoa học để tìm ra giải pháp xử lý thích hợp nhất. Bất cứ sự mơ hồ nào về tình hình thực tiễn, hoặc thiếu thông tin về những gì đang diễn ra trên các mặt trận gián tiếp liên đới, cũng đều có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng về chủ quyền, tính mạng và tài sản của của người dân, vì thế không được chủ quan, xa rời thực tiễn.
Thực tiễn còn thể hiện ở việc ra các quyết sách phù hợp với những diễn biến thực trên biển đảo, trên các mặt trận đấu tranh gián tiếp, những vận động lớn của thời cuộc. Khi xung đột căng thẳng, chủ quyền, tính mạng và tài sản của nhân dân bị đe dọa thì không thể mơ màng với chính sách cũ mà phải có những điều chỉnh, chuyển hướng tương thích. Khi các mặt trận ngoại giao, pháp lý, truyền thông có những diễn biến mới, thời cuộc có những xu hướng mới thì chính sách cũng phải cập nhật theo. Bất cứ sự mập mờ nào về chính sách cũng đều có thể gây ra hậu quả khôn lường.
Biển Đông, dàn khoan HD 981, Trung Quốc, bành chướng
Đấu tranh bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông là một công cuộc gian khó, lâu dài và phức tạp. Ảnh: Lê Anh Dũng
Việc bám sát thực tiễn này không chỉ được tiến hành bởi con người, mà còn bởi máy móc thiết bị. Do dó, bên cạnh việc cập nhật thông tin bởi con người trên các mặt trận ngoại giao, pháp lý, truyền thông... thì trang bị các thiết bị khoa học công nghệ biển để quan sát, theo dõi, giám sát biển và đáy biển, giám sát đảo là rất cần thiết.
Thực dụng
Thực dụng là giải pháp đưa ra phải hiệu quả, lựa chọn phải tối ưu. Việc lựa chọn giải pháp nào, ra quyết sách nào phải căn cứ trên tiêu chí duy nhất là hiệu quả tổng hợp của nó đối với đất nước, với tiêu chí lợi ích quốc gia là trên hết
Các nước nhỏ khi phải đương đầu với sự đe dọa của nước lớn bao giờ cũng phải tính đến việc đoàn kết quốc tế, tạo liên minh để cân bằng sức mạnh chứ không thể đơn độc một mình chống chọi. Vì thế, các tiếp cận thực dụng đòi hỏi phải đoàn kết và thu hút sự giúp đỡ của các nước có lợi ích liên quan, đặc biệt là các nước ASEAN và Mỹ, Nga, Nhật, Ấn Độ ... trong cuộc chiến bảo vệ chủ quyền này; phải tìm cách bảo vệ Biển Đông bằng chính vị trí đặc biệt của Biển Đông trên trường quốc tế.
Cách tiếp cận thực dụng cũng đòi hỏi phải thường xuyên đánh giá lại tình hình, xem xét lại đối phương, xem xét lại bản thân mình để điều chỉnh, phán đoán và đưa ra những phương án hành động thích ứng, tránh bị ràng buộc bởi quán tính tâm lý; tránh sập bẫy khiêu khích; tránh bị dồn vào thế bị động, bất ngờ.
Trong cuộc tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc là một nước lắm mưu nhiều kế và đang chiếm ưu thế về sức mạnh kinh tế và quân sự. Vì thế, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo chắc chắn là cuộc đấu tranh cam go và khó khăn, đòi hỏi mỗi người - đặc biệt là những người nắm trọng trách - phải luôn tỉnh táo và thực dụng.
Thực thi
Thực thi là nhà nước phải thực thi chủ quyền và quyền chủ quyền của mình một cách có hệ thống; đồng thời đảm bảo việc thực thi này bằng pháp luật; hỗ trợ việc thực thi này bằng mọi phương tiện mạnh nhất có thể.
Việc thực thi chủ quyền thể hiện rõ nhất ở sự hiện diện của Nhà nước, của người dân trên biển và trên đảo, ở các hoạt động kinh tế của ngư dân và doanh nghiệp khai thác tài nguyên trên biển. Vì thế, nhà nước phải có chính sách hỗ trợ và đảm bảo anh ninh cho các hoạt động này, để mang lại lợi ích kinh tế và khẳng định chủ quyền của đất nước.
Lịch sử cho thấy, cha ông ta đã thực thi chủ một cách liên tục, chính danh suốt hàng trăm năm qua. Sự thực thi chủ quyền này đã được ghi chép cẩn thận trong sử sách, trở thành những bằng chứng không thể chối cãi về chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông. Truyền thống này cần được tiếp nối và luật hóa để đảm bảo triển khai được đồng bộ, có cơ sở.
Trước sự gia tăng tranh chấp của Trung Quốc, ngư dân trở thành những người đứng ở tuyến đầu của sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo. Vì thế, việc đảm bảo an toàn cho ngư dân, hỗ trợ ngư dân bám biển, giữ biển cần phải được xem như một trong những việc thực thi chủ quyền của Nhà nước, do đó cần có chương trình đầu tư thích đáng cho các hoạt động bảo vệ này.
Những người dân sống trên đảo, đặc biệt là các công dân Việt Nam sinh ra trên đảo, là bằng chứng sống động về chủ quyền, do đó cần có chế độ quan tâm đúng mức, nhất là khi họ luôn phải sống trong tình trạng sẵn sàng chống lại sự xâm chiếm của Trung Quốc.
Các hoạt động kinh tế trên biển như khai thác tài nguyên, du lịch biển, nghiên cứu biển ... cũng là biểu hiện cụ thể của việc thực thi chủ quyền, đo đó cần được đầu tư khai thác, không chỉ để khẳng định chủ quyền, mà còn để làm giàu cho đất nước, đóng góp trở lại cho việc bảo vệ chủ quyền.
Trong việc thực thi chủ quyền, các hoạt động mang tính chính trị, pháp lý, ngoại giao, quân sự... nhằm khẳng định và bảo vệ chủ quyền cũng như quyền chủ quyền  là vô cùng cần thiết. Việc Việt Nam cùng Malaysia trình báo cáo chung lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc là một ví dụ đáng ghi nhận về việc thực thi chủ quyền. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các hoạt động này lại chưa đủ mạnh để bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền, dẫn đến bị Trung Quốc tăng cường áp lực, gia tăng gây hấn, nhất là trong thời gian gần đây. Đây là những tiền lệ xấu và nguy hiểm.
Nhà nước cần có các hành động cụ thể, mạnh mẽ hơn nữa trong việc bảo vệ và thực thi chủ quyền. Trên thực tế, nếu có chủ quyền mà không thực thi chủ quyền thì chủ quyền đó không chắc chắn, có thể bị tước đoạt bất cứ lúc nào. Do đó, tích cực và chủ động thực thi chủ quyền là một trong những nguyên tắc quan trọng đối với Biển Đông.
Thực lực
Thực lực là đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo cần dựa chủ yếu vào thực lực của chính mình. Sự hỗ trợ từ bên ngoài bao giờ cũng đáng quý và cần được khai thác triệt để, nhưng  không bao giờ có thể thay thế được thực lực về kinh tế, quân sự, pháp lý, chính trị, khoa học... của đất nước. Vì thế, xây dựng lực lượng và bồi đắp thực lực là việc tối cần thiết, quyết định chính đến sự thành bại của công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Trên thực tế, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo không chỉ giới hạn trong lĩnh vực quân sự, mà còn diễn ra đồng bộ và rộng khắp trong các mặt trận chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, văn hóa, học thuật... Vì thế, phát triển thực lực cần phải phải lưu ý phát triển đồng bộ trong tất cả các lĩnh vực này.
Trong phát triển thực lực, ngoài việc phát triển tiềm lực kinh tế và quân sự, cần chú trọng thích đáng đến phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực lãnh đạo có tâm có tài, có trách nhiệm với đất nước; đội ngũ học giả, luật sư, nhà nghiên cứu về Biển Đông; các chuyên gia về luật biển, kinh tế biển, khoa học và công nghệ biển... Phát triển nguồn nhân lực biển cần phải được đầu tư một cách thích đáng và triển khai dưới sự hướng dẫn của một chiến lược tổng thể, hướng tới mục tiêu có được nguồn nhân lực không chỉ đủ mạnh trong bảo vệ chủ quyền mà còn đủ khả năng thực thi hiệu quả chủ quyền thông qua các hoạt động kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự... để làm giàu, làm mạnh cho đất nước.
Thực lực cũng không nên chỉ được xét đơn thuần ở khía cạnh vật chất, mà cần bao gồm cả  những yếu tố tinh thần như truyền thống lịch sử, tinh thần ái quốc, nghệ thuật quốc phòng toàn dân, những bài học dựng nước và giữ nước mà cha ông để lại. Chính những yếu tố tinh thần này đã giúp chúng ta bao phen vượt qua những kẻ thù mạnh gấp bội trong lịch sử. Cho nên, sức mạnh tinh thần là một thành phần quan trọng của Thực lực và cần được nuôi dưỡng, bồi đắp không ngừng.
Trong nguyên tắc 4T này, Thực tiễn đóng vai trò quan trọng nhất, định hướng cho Thực dụng - Thực thi - Thực lực. Giải pháp có hiệu quả, thực dụng không? Các chiến lược bảo vệ chủ quyền biển đảo có được thực thi không, và thực thi như thế nào? Thực lực có được xây dựng và bồi đắp đủ để bảo vệ và thực thi chủ quyền không? Tất cả đều phụ thuộc vào việc bám sát mọi diễn biến trên thực hải, thực địa; bám sát thực tiễn cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo trên mọi mặt trận. Xa rời thực tiễn là bước đầu thất bại. Ngược lại, bám sát thực tiễn là khởi đầu của thành công.
Khi đã có công thức 4K làm định hướng, nguyên tắc 4T làm phương châm hành động, cùng với sự hỗ trợ của sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo sẽ không có lý do gì để thất bại.
Giáp Văn Dương

Tàu chiến TQ tiếp tục va chạm với tàu VN

Hôm 8/5, tàu tuần tiễu và hộ vệ tên lửa của Trung Quốc tiếp tục va quệt và ngăn cản hoạt động làm nhiệm vụ của tàu Việt Nam tại khu vực Trung Quốc đặt giàn khoan trái phép, Bộ tư lệnh Cảnh sát biển cho hay.
Đại tá Ngô Ngọc Thu, Phó tư lệnh - tham mưu trưởng Cảnh sát biển Việt Nam cho Tuổi trẻ hay, tối 8/5 Trung Quốc vẫn duy trì các loại tàu và máy bay tại khu vực hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Không những vậy, các tàu Trung Quốc tiếp tục va quệt, kè ngăn chặn tàu của Cảnh sát biển Việt Nam làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền. 
Trong ngày 8/5, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển phát hiện hai tàu tuần tiễu tấn công nhanh 753 và tàu hộ vệ tên lửa 534 của Trung Quốc hoạt động tại khu vực giàn khoan HD 981. Các tàu này thường xuyên cản trợ tàu CBS 8003 của Cảnh sát biển Việt Nam thực thi nhiệm vụ.
Vị trí giàn khoan Trung Quốc đặt trái phép trên vùng biển Việt Nam. (Bấm vào hình xem inforgraphic)
Vị trí giàn khoan Trung Quốc đặt trái phép trên vùng biển Việt Nam. (Bấm vào hình xem infographic)
Chuẩn đô đốc Ngô Sỹ Quyết, Tư lệnh Vùng 3 Hải quân (đóng tại Quân cảng Đà Nẵng) nói trên Pháp luật TP HCM  rằng, các tàu hư hỏng của cảnh sát biển đã được đưa vào sửa chữa, các tàu khác được tăng cường ra để tiếp tục đấu tranh buộc tàu và giàn khoan Trung Quốc rút khỏi vùng biển chủ quyền của Việt Nam. 
“Tình hình ngày 8/5 chưa có chuyển biến gì nhiều. Chúng ta đấu tranh buộc họ rút nhưng họ vẫn bám trụ. Giàn khoan của họ không di chuyển. Việc đấu tranh này sẽ cần thêm thời gian”, Chuẩn đô đốc Ngô Sỹ Quyết cho hay.
Theo Cảnh sát biển Việt Nam, số lượng tàu Trung Quốc tham gia bảo vệ giàn khoan DH 981 trong các ngày 2 và 3/5 là khoảng 40 tàu.  Đến ngày 7/5, Trung Quốc huy động cùng lúc 80 tàu và nhiều máy bay hoạt động trên khu vực. Khi tàu Việt Nam ra kiểm tra, tàu Trung Quốc được sự yểm trợ của máy bay đã có hành động hung hăng, đâm thẳng vào tàu Việt Nam, dùng vòi rồng tấn công làm tàu Việt Nam hư hỏng, gây thương tích cho 6 thủy thủ.
Trước đó, ngày 1/5, giàn khoan HD 981 và 3 tàu dịch vụ dầu khí của Trung Quốc di chuyển từ Tây Bắc đảo Tri Tôn (thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) xuống phía Nam. Ngày 2/5, giàn khoan HD 981 được neo tại phía nam đảo Tri Tôn, sâu vào trong thềm lục địa Việt Nam 80 hải lý, cách đảo Lý Sơn 119 hải lý, cách bờ biển Việt Nam 130 hải lý.
Theo Cục Hải sự Trung Quốc, việc hạ đặt giàn khoan này để "khoan thăm dò thềm lục địa" đồng thời cấm hoạt động của tàu thuyền trong phạm vi bán kính 3 hải lý tính từ giàn khoan.
csb5-9622-1399613397.jpg
Tàu cảnh sát biển Việt Nam bị hư hại sau các cú đâm thẳng của tàu Trung Quốc, được kéo về sửa chữa tại Đà Nẵng. Ảnh:Văn Nguyễn.
Tại cuộc họp báo quốc tế tổ chức tại Hà Nội hôm 7/5, Việt Nam khẳng định khu vực giàn khoan HD 981 và các tàu bảo vệ của Trung Quốc hoạt động hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Hành động của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam theo quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông năm 2002 (DOC) và các thỏa thuận có liên quan khác giữa lãnh đạo cấp cao hai nước cũng như thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc. Việt Nam yêu cầu Trung Quốc rút ngay giàn khoan nói trên và các tàu ra khỏi vùng biển của Việt Nam. 
Bộ Ngoại giao và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ, yêu cầu Tổng công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) dừng ngay lập tức các hoạt động bất hợp pháp và rút giàn khoan HD 981 ra khỏi vùng biển của Việt Nam. 
Phó thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã điện đàm với Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì, phản đối việc giàn khoan HD 981 và nhiều tàu Trung Quốc hoạt động tại thềm lục địa Việt Nam. Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gặp Đại biện Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội trao Công hàm phản đối.
Mỹ, Nhật đã lên tiếng coi hành động của Trung Quốc là khiêu khích, khiến tình hình trên Biển Đông leo thang căng thẳng.
Đây được đánh giá là khủng hoảng nghiêm trọng trong quan hệ Việt - Trung. Nhiều học giả cho rằng, bước đi của Trung Quốc đang thể hiện rõ mục tiêu độc chiếm Biển Đông.
Thiên Sứ (Vnexpress)

8 tháng 5, 2014

Bắt tạm giam Giám đốc BQL dự án đường sắt


Ông Trần Văn Lục, Giám đốc Ban QLDA của Cục đường sắt bị Bộ Công an khởi tố, bắt tạm giam vì cho là liên quan đến nghi án nhận hối lộ 16 tỷ đồng từ nhà thầu JTC Nhật Bản.
Chiều 8/5, báo Dân Việt dẫn lời một nguồn tin cho biết, Bộ Công an đã tống đạt quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam và thi hành lệnh khám xét đối với ông Trần Văn Lục – Giám đốc Ban QLDA đường sắt thuộc Cục Đường sắt (Bộ GTVT) để điều tra vì hành vi Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ.
3 hôm trước, Cục Đường sắt đã ra quyết định tạm đình chỉ chức vụ giám đốc của ông Lục sau khi ông này bị cơ quan điều tra triệu tập.
Ông Trần Văn Lục, trước khi bị bắt. Ảnh: Dân Việt
Ông Lục trước khi bị bắt. Ảnh: Dân Việt
Ông Lục giữ chức Giám đốc Ban Quản lý các dự án đường sắt của Tổng công ty Đường sắt VN từ năm 2000 đến 2009, sau đó làm thư ký cho Tổng giám đốc, Chủ tịch Hội đồng quản trị tổng công ty. Từ năm 2011 đến nay, ông này giữ chức Giám đốc Ban Quản lý các dự án đường sắt thuộc Cục Đường sắt VN.
Ngoài ông Lục, trước đó, Phó tổng giám đốc Trần Quốc Đông và 3 thuộc cấp là ông Phạm Quang Duy, Phạm Hải Bằng và ông Nguyễn Nam Thái(đều thuộc Ban QLDA đường sắt đô thị số 1) cũng bị bắt tạm giam.
Ông Đông từng làm Trưởng ban Quan hệ quốc tế rồi làm Phó giám đốc Ban Quản lý dự án Đường sắt của Tổng Công ty đường sắt Việt Nam. Liên quan đến nghi án nhận hối lộ 16 tỷ đồng từ nhà thầu tư vấn JTC của Nhật Bản, ông Đông đã phủ nhận trước các lãnh đạo của Bộ Giao thông và cho rằng chưa từng nhận một đồng nào từ phía nhà thầu này. Sau đó, để ông này có thời gian giải trình, Bộ GTVT tạm đình chỉ công tác một tuần.
Ngày 21/3, tờ Yomiuri Shimbun và nhiều tờ báo Nhật đồng loạt đưa tin về việc ông Tamio Kakinuma, Chủ tịch JTC, đến cơ quan điều tra khai báo tự nguyện về việc hối lộ quan chức cấp cao của Đường sắt Việt Nam để đổi lấy việc trúng thầu dự án ODA. Trong lời khai, ông này đưa ra nhiều chi tiết như hối lộ vào thời điểm nào, số tiền bao nhiêu.
Bá Đô

Ngư dân Lý Sơn quyết bám biển


Mấy ngày nay, hàng chục tàu cá của ngư dân bị tàu Trung Quốc rượt đuổi, xịt vòi rồng khi hành nghề tại ngư trường truyền thống, song họ vẫn kiên định bám biển.
Sáng 9/5, khoảng 500 người dân huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) cầm cờ Tổ quốc đến trung tâm văn hóa huyện để phản đối Trung Quốc đặt giàn khoan HD-981 trái phép tại khu vực Biển Đông thuộc lãnh hải của Việt Nam.
Cảng cá Lý Sơn (Lý Sơn) và Bình Châu (huyện Bình Sơn) những ngày này cũng đông khác thường, đâu đâu cũng râm ran bàn tán về hành động ngang ngược, đâm tàu hay xịt vòi rồng vào lực lượng kiểm ngư và cảnh sát biển Việt Nam của Trung Quốc khi được yêu cầu rút khỏi khu vực vùng biển đảo Tri Tôn, chỉ cách Lý Sơn 119 hải lý.
8-5-Anh-2-Ngu-dan-bi-can-tro.jpg
Tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi vẫn hiên ngang thẳng tiến ra đánh bắt thủy sản ở vùng biển Hoàng Sa. Ảnh:Trí Tín.
Vừa từ Hoàng Sa về sau khi kết thúc phiên biển, ông Phùng Thanh Được ở thôn Tây, xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn cho biết, những ngày qua, nhiều tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi liên tục bị tàu của Trung Quốc uy hiếp, rượt đuổi ngay trên vùng lãnh hải Việt Nam.
"27 năm bám biển hành nghề ở ngư trường truyền thống Hoàng Sa, chưa bao giờ tôi thấy ở gần khu vực đảo Tri Tôn lại có nhiều tàu Trung Quốc ngang nhiên đi lại như vậy, trong đó có rất nhiều tàu chiến", ông Được kể.
Theo các ngư dân Lý Sơn, khoảng 10 ngày trước, họ thấy 5 tàu Trung Quốc vận chuyển giàn khoan dầu khí đến đặt ở phía Nam, cách đảo Tri Tôn thuộc vùng biển Hoàng Sa khoảng 17 hải lý. "Giàn khoan to hơn giàn khoan dầu khí ở vùng biển Vũng Tàu. Có nhiều tàu quân sự và cảnh sát biển thường xuyên túc trực. Ngoài ra còn còn có khoảng 6 tàu khác tuần tra xung quanh ở phạm vi rộng 15 hải lý không cho tàu cá nào đi vào khu vực", thuyền trưởng Nguyễn Thanh Biên ở xã Bình Châu, huyện Bình Sơn cho hay.
Ngư dân ra khơi đánh bắt ở ngư trường Hoàng Sa phải đi đường vòng tốn thêm nhiều nhiên liệu và thời gian. "Lúc trước, chi phí một lần ra khơi khoảng 200 triệu đồng, nhưng giờ chúng tôi phải tốn thêm hàng chục triệu đồng tiền dầu cho hàng chục hải lý đi đường vòng tránh va chạm với tàu Trung Quốc", anh Trần Văn Thọ ở huyện đảo Lý Sơn nói. 
Cùng ngư dân Quảng Ngãi, nhiều Nghiệp đoàn nghề cá bức xúc phản đối việc làm sai trái của Trung Quốc khi đặt giàn khoan dầu khí ngay "cửa ngõ" từ huyện đảo Lý Sơn ra Hoàng Sa. Họ cho rằng hàng trăm năm qua, ngư trường truyền thống Hoàng Sa, Trường Sa gắn bó gần gũi như "vườn rau, thửa ruộng" nhà mình, hành vi này của phía Trung Quốc đã trực tiếp cản đường mưu sinh của ngư dân.
Tuy vậy, người dân các huyện ven biển Quảng Ngãi và huyện đảo Lý Sơn vẫn quyết giữ lập trường bám biển. Các Nghiệp đoàn nghề cá họp bàn bà con ngư dân ra khơi chia thành tổ, nhóm 5 đến 10 chiếc tàu (mỗi tàu 10 đến 14 lao động) cùng thẳng tiến ra Hoàng Sa tương trợ lẫn nhau khi gặp tàu Trung Quốc gây hấn.
"Tổ tiên năm xưa từng không tiếc máu xương gìn giữ, khai thác thủy sản ở Hoàng Sa. Giờ, dù xảy ra biến cố thế nào đi nữa thì thế hệ con cháu chúng tôi phải có trách nhiệm nối nghiệp biển mà đời trước để lại ", ngư dân Trần Văn Hải ở xã Bình Châu nói. 
8-5-Anh-3-Ngu-dan-bi-can-tro.jpg
Ngư dân Quảng Ngãi đánh bắt cá trên biển. Ảnh:Trí Tín.
Thống kê của các Nghiệp đoàn ở huyện đảo Lý Sơn, vài ngày qua, hàng chục tàu cá của địa phương đi ngang qua giàn khoan trái phép của Trung Quốc ở Hoàng Sa đã bị xua đuổi, thậm chí bị tấn công bằng vòi rồng suýt chìm tàu.
Ông Nguyễn Quốc Chinh, Chủ tịch Nghiệp đoàn Nghề cá An Hải, huyện đảo Lý Sơn cho biết, ngày 7/5, tàu cá của ông Nguyễn Lộc ở thôn Tây, xã An Vĩnh bị tàu chiến của Trung Quốc xịt vòi rồng bể kính ở buồng cabin, chao đảo suýt chìm ở vùng biển gần đảo Tri Tôn. Tàu của anh Bùi Văn Phải, Phùng Thanh Được ở thôn Tây, xã An Hải, trên đường từ Hoàng Sa trở về cũng bị tàu Trung Quốc vô cớ rượt đuổi hàng chục hải lý. 
Trao đổi với VnExpress, TS Nguyễn Việt Thắng, Chủ tịch Hội Nghề cá Việt Nam bức xúc, việc đặt giàn khoan của Công ty Dầu khí Hải Dương (Trung Quốc) là vi phạm nghiêm trọng chủ quyền biển đảo Việt Nam, vi phạm luật pháp quốc tế. Giàn khoan sai trái này không chỉ cản trở việc đi lại tự do hàng hải quốc tế mà còn ảnh hưởng lớn đến vùng biển đánh cá truyền thống của ngư dân. Hội đã kiến nghị các cơ quan chính phủ và kêu gọi cộng đồng quốc tế lên tiếng buộc phía Trung Quốc rút ngay giàn khoan sai trái này ra khỏi vùng biển Việt Nam.
"Chúng tôi khuyến cáo ngư dân nắm chắc thông tin, đoàn kết thành tổ, đội tự tin ra khơi cùng với sự hỗ trợ của lực lượng tàu cảnh sát biển, tàu kiểm ngư bằng mọi giá bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của đất nước", ông Thắng nói. 
Trí Tín