Trang

15 tháng 4, 2014

Khi "trên nói dưới không nghe"


TP Hà Nội có hàng loạt văn bản chỉ đạo, quận Đống Đa vẫn ''phớt lờ''

(Dân trí) - Liên quan đến vụ chậm cấp Giấy chứng nhận QSDĐ ở phường Trung Liệt, từ năm 2010 cho đến nay, UBND TP Hà Nội và các cơ quan chức năng đã ra hàng chục văn bản chỉ đạo kiểm tra, yêu cầu quận Đống Đa giải quyết theo thẩm quyền nhưng đều bị “bỏ quên”.
 >>  Bài 1: Bỏ tiền mua đất 20 năm, công dân chưa được xác lập “chủ quyền”


- BTTD: Khi "trên nói dưới không nghe" thì còn gì là kỷ cương phép nước?
 Luật pháp bất minh thiên hạ sẽ loạn.
Như thông tin đã đưa trong bài viết “Bỏ tiền mua đất 20 năm, công dân chưa được xác lập “chủ quyền””, ông Nguyễn Xuân Thủy, trú tại số nhà 11B ngõ Kiến Thiết, phố Khâm Thiên, quận Đống Đa, TP Hà Nội là người được ông Nguyễn Xuân Thắng (bố ông Thủy) ủy quyền sử dụng 920m2 đất ở Tổ 5A phường Trung Liệt, quận Đống Đa và đứng tên kê khai cấp Giấy chứng nhận QSDĐ phản ánh: Nhiều năm qua UBND quận Đống Đa cố tình gây khó khăn cho công dân khi liên tục từ chối đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận QSDĐ gia đình ông đã gửi lên hàng chục năm qua, mặc dù việc mua bán được chính quyền địa phương xác nhận, UBND TP Hà Nội đã ban hành rất nhiều văn bản chỉ đạo quận Đống Đa cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho công dân theo quy định pháp luật.
 
Bài 2: TP Hà Nội có hàng loạt văn bản chỉ đạo, quận Đống Đa vẫn ''phớt lờ''
20 năm liên tục theo đuổi giấc mơ được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ của gia đình ông Thủy chưa thành hiện thực
Sau 10 năm liên tục đi lại giữa UBND phường Trung Liệt và quận Đống Đa không được giải quyết quyền lợi, gia đình ông Nguyễn Xuân Thủy buộc phải làm đơn gửi TP Hà Nội đề nghị vào cuộc kiểm tra, xác minh, đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho công dân. Ngày 14/9/2010 và ngày 10/6/2011, Văn phòng UBND TP Hà Nội có văn bản số 7292/UBND -TNMT và 2064/VP-TNMT đôn đốc UBND quận Đống Đa thực hiện theo quyết định phúc thẩm, nhưng UBND quận Đống Đa không xử lý.
Đến ngày 5/10/2011, ông Vũ Hồng Khanh - Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội ký văn bản số 8487/UBND-BTCD, yêu cầu quận Đống Đa khẩn trương xem xét, giải quyết đơn kiến nghị của gia đình ông Thủy, báo cáo kết quả về UBND Thành phố trong tháng 10/2011. Sau khi Thành phố đốc thúc, ngày 24/10/2011, Phòng TNMT Đống Đa ban hành công văn số 452/CV-TNMT gửi UBND phường Trung Liệt hướng dẫn chuyên môn để UBND phường giải quyết đơn của gia đình ông Thủy. Tuy nhiên, khi gia đình ông Thủy xuất trình đầy đủ giấy tờ gốc, UBND phường Trung Liệt vẫn không giải quyết.
Bức xúc trước cách giải quyết theo kiểu “bóng chuyền” của UBND quận Đống Đa, ông Nguyễn Xuân Thủy tiếp tục có đơn phản ánh sự việc lên TP Hà Nội. Ngày 19/4/ 2012, UBND Thành phố ký văn bản số 2789/UBND-TNMT, giao Sở TN&MT kiểm tra cụ thể, ra văn bản hướng dẫn UBND quận Đống Đa thực hiện, báo cáo kết quả về TP Hà Nội.
 
Văn bản của TP Hà Nội đồng ý với kết luận và đề xuất của Sở TN&MT,
Văn bản của TP Hà Nội đồng ý với kết luận và đề xuất của Sở TN&MT,
giao UBND quận Đống Đa cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho công dân
Ngày 30/5/2012, Sở TN&MT có báo cáo và kiến nghị số 397/BC-STNMT-TTr gửi UBND TP Hà Nội, trong đó kiến nghị: “Giao UBND quận Đống Đa chỉ đạo UBND phường Trung Liệt thực hiện việc hướng dẫn kê khai, tiếp nhận hồ sơ, tổ chức xét duyệt, hoàn thiện hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, QSHNƠ và tài sản gắn liền với đất cho hộ gia đình ông Nguyễn Xuân Thủy trình UBND quận Đống Đa theo quy định tại Điều 24 của Quy định ban hành kèm theo Quyết định số 117/2009/QĐ-UBND ngày 01/12/2009 của UBND thành phố Hà Nội”.
Sau khi Sở TN&MT báo cáo kết quảngày 11/6/2012, ông Vũ Hồng Khanh - Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội ban hành văn bản số 4431/UBND-TNMT, đồng ý với báo cáo số 397/BC-STNMT-TTr của Sở TN&MT, giao quận Đống Đa chỉ đạo UBND phường Trung Liệt hướng dẫn kê khai, tiếp nhận hồ sơ, tổ chức xét duyệt, hoàn thiện hồ sơ cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, Quyền sở hữu nhà ở cho gia đình ông Nguyễn Xuân Thủy.
Tưởng như vụ việc sẽ khép lại sau khi Sở TN&MT báo cáo kết quả và TP Hà Nội có chỉ đạo, nhưng chỉ đạo của Thành phố vẫn bị “bỏ quên”. Ngày 1/8/2012, TP Hà Nội ban hành văn bản số 5937/UBND-BTCD, yêu cầu UBND quận Đống Đa khẩn trương thực hiện ý kiến chỉ đạo của UBND Thành phố tại văn bản số 4431/UBND-TNMT. Đến ngày 21/8/2012, gia đình ông Thủy được UBND phường Trung Liệt mời ra hoàn tất hồ sơ xin cấp Giấy QSDĐ nộp tại UBND phường Trung Liệt. Nhưng từ đó đến nay, ông gia đình ông Thủy vẫn chưa được UBND phường Trung Liệt xem xét, giải quyết theo quy định.
 
Văn bản của TP Hà Nội đồng ý với kết luận và đề xuất của Sở TN&MT,
Văn bản 1050 chỉ đạo UBND quận Đống Đa tổ chức thanh tra, báo cáo kết quả về TP Hà Nội trước ngày 31/3/2013
Dựa trên thông báo số 71/BC-UBND của UBND phường Trung Liệt, ngày 25/12/2012, ông Trần Việt Trung - Phó Chủ tịch UBND quận Đống Đa có báo cáo số 214/BC-UBND gửi TP Hà Nội, thông báo việc Hội đồng xét duyệt phường Trung Liệt kết luận hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận QSDĐ của gia đình ông Thủy chưa đủ điều kiện pháp lý để cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, đồng thời xin ý kiến chỉ đạo của Thành phố.
Ngày 31/1/2013, TP Hà Nội ban hành văn bản số 1050/UBND -TNMT:Giao UBND quận Đống Đa tổ chức thanh tra, kết luận về quản lý, sử dụng đất tại số 5A, ngõ 131 Thái Hà, phường Trung Liệt, quận Đông Đa; trường hợp có tranh chấp về quyền sử dụng đất giữa các hộ gia đình, cá nhân thì phải giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật, báo cáo kết quả về UBND Thành phố trước ngày 31/3/2013...”.
Tuy nhiên, thêm một lần nữa ông Trần Việt Trung - Phó Chủ tịch quận Đống Đa không thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Thành phố. Ngày 15/4/2013, TP Hà Nội ban hành văn bản số 2677/UBND-BTCD đốc thúc quận Đống Đa thực hiện văn bản số 1050/UBND -TNMT. Đến tháng 6/2013, ông Vũ Hồng Khanh - Phó Chủ tịch UBND Thành phố một lần nữa chỉ đạo quận Đống Đa khẩn trương giải quyết, báo cáo kết quả về Thành phố trước ngày 25/6/1013. Tại văn bản này, UBND TP Hà Nội khuyến cáo “Quá thời hạn nêu trên, UBND Thành phố sẽ chỉ đạo thanh tra công vụ về vụ việc và trách nhiệm của tập thể, cá nhân liên quan theo quy định của pháp luật...”.
 
Khuyến cáo UBND TP Hà Nội đưa ra với quận Đống Đa
Khuyến cáo UBND TP Hà Nội đưa ra với quận Đống Đa
TP Hà Nội đã khuyến cáo, nhưng đến ngày 25/6/2013, UBND quận Đống Đa vẫn “bỏ ngoài tai” ý kiến chỉ đạo, không báo cáo kết quả lên cấp trên theo quy định. Trước tình trạng UBND quận Đống Đa nhiều lần không thực hiện chỉ đạo gây bức xúc kéo dài, ngày 27/8/2013, UBND TP Hà Nội ký văn bản số 6230/UBND-BTCD gửi Giám đốc Sở Nội vụ, yêu cầu “Lập Đoàn Thanh tra để tổ chức kiểm tra trách nhiệm đối với UBND quận Đống Đa trong việc chấp hành chỉ đạo của UBND Thành phố tại văn bản số 1050/UBND -TNMT ngày 31/1/2013; kết luận, đề xuất báo cáo UBND Thành phố theo quy định...”.
9 tháng sau khi UBND TP Hà Nội ban hành văn bản chỉ đạo, ngày 24/10/2013, quận Đống Đa mới ký thông báo số 330/TB-UBND gửi gia đình ông Nguyễn Xuân Thủy với nội dung “bác” văn bản chỉ đạo số 4431/UBND-TNMT ngày 11/6/2012 của TP Hà Nội được ban hành dựa trên báo cáo số 397/BC-STNMT-TTr ngày 30/5/2012 của Sở TN&MT.
Thông báo của UBND quận Đống Đa kết luận Gia đình bà Đạo không thừa nhận việc bán ao cho vợ chồng ông Dy - bà Hữu”, mặc dù tất cả các tài liệu gốc liên quan đến việc mua bán, chuyển nhượng đất qua các thời kỳ từng được Sở TN&MT lấy làm căn cứ đưa ra kết luận đều cho thấy: Phần diện tích 1.300mđất ao ông Dy, bà Hữu đã chuyển nhượng cho ông Trần Văn Ninh (tương ứng phần diện tích ông bà Dy - Hữu đã nhận chuyển nhượng từ ông An và bà Đạo). Sau đó, ông Trần Văn Ninh chuyển nhượng 920m2/1.300m2 cho ông Nguyễn Gia Nhị và ông Trần Quang, sau đó 920m2 được chuyển nhượng tiếp cho ông Nguyễn Xuân Thắng.
 
TP Hà Nội chỉ đạo Sở Nội vụ Thanh tra để tổ chức kiểm tra trách nhiệm đối với quận Đống Đa
TP Hà Nội chỉ đạo Sở Nội vụ Thanh tra để tổ chức kiểm tra trách nhiệm đối với quận Đống Đa
Ngoài ra, Phó Chủ tịch Trần Việt Trung còn cho rằng “Tờ biên bản giao quyền sở hữu và thanh toán công buổi cải tạo hồ ao là giả mạo”.Quan điểm mà UBND quận Đống Đa đưa ra cũng đồng thời bác bỏ kết quả giám định số 397/C21(P4) ngày 11/4/1994 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an.
Như vậy, sau 20 năm liên tục theo đuổi vụ việc, với hàng ngàn lượt đi lại giữa UBND phường Trung Liệt và UBND quận Đống Đa, gia đình ông Nguyễn Xuân Thủy vẫn chưa được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ theo quy định pháp luật, mặc dù TP Hà Nội, Sở TN&MT và rất nhiều cơ quan đã xác nhận gia đình ông Thủy là chủ sở hữu và nhiều lần chỉ đạo UBND quận Đống Đa giải quyết. Trong đơn gửi đến báo Dân trí, gia đình ông Nguyễn Xuân Thủy khẩn thiết đề nghị Thành ủy, UBND TP Hà Nội làm rõ những dấu hiệu sai phạm của UBND quận Đống Đa, xử lý nghiêm những cán bộ cố tình không thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của cấp trên, sớm cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho công dân theo quy định của pháp luật.
Báo Dân trí sẽ tiếp tục thông tin vụ việc trên đến bạn đọc.
Ngọc Cương

Kinh tế Triều Tiên - Đây mới là sự thật?

Không giống như vẻ bề ngoài được phác họa hiện nay, Triều Tiên đang có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, bất chấp nỗ lực che đậy và cản trở của chính phủ Triều Tiên.

Hãng tin Al-Jazeera đã đăng tải một bài bình luận của ông Andrei Lankov, giáo sư chuyên nghiên cứu Triều Tiên tại trường đại học Kookmin, Hàn Quốc để chứng minh quan điểm trên.
Ông cho rằng, nhiều người thường bỏ qua thực tế rằng Triều Tiên đã từng có tới 20 năm tư bản chủ nghĩa. Và hiện tại, mặc dù triều đại này luôn nỗ lực để duy trì diện mạo của nền kinh tế bao cấp nhưng thực chất Triều Tiên đang trải qua nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hay nền kinh tế thị trường.
Bị ngắt nguồn viện trợ nhiên liệu, điện và phụ tùng thay thế, nền kinh tế Triêu Tiên sụp đổ khi nhiều nhà máy phải dừng hoạt động hoàn toàn. Mùa màng giảm sút kéo theo việc chính phủ không có đủ lương thực để cung cấp cho người dân. Trong nhiều thập kỷ, người dân Tiều Tiên sống bằng ngũ cốc do nhà nước cung cấp (với giá cực rẻ). Tuy nhiên, khoảng từ năm 1994, nguồn cung cấp này không còn nữa. Kết quả là nạn đói đã xảy ra, giết chết ít nhất 500.000 người dân Triều Tiên trong những năm 1996-1999.Chủ nghĩa tư bản của Triều Tiên được sinh ra trong cái nôi của cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trong đầu những năm 1990 khi Liên Xô và Trung Quốc đột ngột ngừng viện trợ cho nước này.
Đối mặt với nạn đói, người dân Triều Tiên đã phản ứng theo một cách tự nhiên nhất là: Họ khai phá lại nền kinh tế tư nhân. Gọi là khai phá lại bởi vì trong những năm 1960 và 1970, Triều Tiên được cho là một nước tư bản nhất trên thế giới.
Để tồn tại, người dân đã làm mọi thứ có thể. Về mặt lý thuyết, nền nông nghiệp tư nhân vẫn bị cấm và tất cả đất canh tác đều là tài sản của nông trường quốc doanh, nhưng người dân ở nông thôn vẫn bắt đầu canh tác tư nhân. Họ đã khai hoang để tạo ra các cánh đồng trên các sườn núi. Họ trồng những gì có thể để tiêu dùng và bán lại cho những người khác.
Kinh tế Triều Tiên - Đây mới là sự thật? (1)
Nền kinh tế của Triều Tiên đang bị chi phối bởi các hoạt động kinh tế tư nhân.
Trong khi đó, nhiều công nhân bắt đầu ăn cắp các thiết bị, vật tư của các nhà máy, sau đó bán làm phế liệu, và xuất lậu sang Trung Quốc hoặc dùng phế liệu đó để tự làm ra một số đồ dùng để bán lấy tiền mua thức ăn.
Từ đó, các loại hình thương mại bắt đầu phát triển. Buôn lậu sang Trung Quốc và từ Trung Quốc về Triều Tiên, cũng như thương mại hợp pháp với Trung Quốc cũng đã đem lại nhiều lợi nhuận.
Từ khoảng năm 2000, xuất hiện thêm nhiều hoạt động kinh doanh khác nhau. Ngày càng có nhiều người mở xưởng để sản xuất hàng may mặc, thuốc lá, giày dép và nhiều mặt hàng tiêu dùng đơn giản khác. Các nhà hàng tư nhân vốn bị coi là bất hợp pháp vẫn xuất hiện, cạnh tranh với các cửa hàng ăn uống của nhà nước. Tất nhiên là chủ sở hữu phải đăng kí nhà hàng của mình là tài sản của chính phủ.
Xe tải tư nhân cũng bắt đầu cung cấp dịch vụ vận chuyển hàng hóa cho các thương gia trên toàn quốc. Các cửa hàng tạp hóa tư nhân và văn phòng đổi tiền tệ cũng bắt đầu mọc lên. Nhiều loại hình kinh doanh tư nhân khác cũng bắt đầu xuất hiện.
Tới đầu những năm 2000, Triều Tiên đã có một nền kinh tế thị trường không chính thức, nhưng bùng nổ mạnh mẽ. Cũng nhờ đó, nạn đói đã được xóa bỏ trong khoảng từ năm 1999 đến 2000.
Theo ước tính, vào thời điểm đó, trung bình mỗi gia đình Triều Tiên đã kiếm được 80% thu nhập từ các hoạt động kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, chính phủ Triều Tiên vẫn cảm thấy khó chịu với tình trạng trên và chưa bao giờ thực sự chấp nhận các hoạt động kinh tế thị trường. Trong khoảng thời gian từ năm 2004 và 2009, chính phủ Triều Tiên thậm chí còn cố loại bỏ nền kinh tế tư nhân và quay trở lại mô hình kinh tế bao cấp cũ. Tuy nhiên những nỗ lực này đã thất bại và sau năm 2010, Triều Tiên đã quyết định ‘từ bỏ’ mục tiêu này.
Tuy nhiên, chính phủ vẫn kiên quyết không thừa nhận thực tế rằng Triều Tiên hiện nay là một nền kinh tế thị trường.
Kết quả là, những người đi đầu trong ngành công nghiệp tư nhân mới nổi của Triều Tiên ở trong một trạng thái pháp lý lấp lửng. Một nhà ngoại giao Nga giàu kinh nghiệm và các nhà quan sát lâu năm về Triều Tiên gần đây đã nói về tình trạng khó khăn của những người này: “Tầng lớp thương nhân mới nổi của Triều Tiên đang làm việc tốt, họ có một cuộc sống tốt đẹp và đang hưởng thụ nó. Vấn đề là, họ có khả năng bị bắt, bị xét xử theo pháp luật Triều Tiên”.
Hầu hết doanh nhân giàu có đều kiếm tiền với hình thức hợp tác chặt chẽ với nhà nước, dù thực tế là các doanh nghiệp của họ, nói đúng ra theo luật Triều Tiên là bất hợp pháp. Trong những năm gần đây, các công ty nhà nước thậm chí còn bắt đầu khai thác các nguồn lực tài chính của những người giàu có.
Ví dụ, một công ty ngoại thương của chính phủ có thể có độc quyền thu hoạch nấm thông trong một khu vực nhất định và sau đó xuất khẩu nấm sang Trung Quốc. Tuy nhiên, hiện nay, công nhân chỉ đồng ý thu hoạch nấm cho một công ty như vậy nếu họ được trả bằng ngoại tệ đáng tin cậy như đồng nhân dân tệ của Trung Quốc hay USD. Vì công ty này không có đủ ngoại tệ nên phải kêu gọi đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân.
Do vậy, ranh giới giữa thành phần kinh tế nhà nước và tư nhân ngày càng trở lên mờ nhạt.
Tuy nhiên, tại sao các hoạt động kinh tế tư nhân phát triển lại không thể khiến toàn bộ nền kinh tế Triều Tiên phát triển. Lý do chính được cho là do chính phủ và các quan chức Triều Tiên đã tìm mọi cách để cản trở sự tăng trưởng của thành phần kinh tế này. Họ cố ngăn chặn tầng lớp doanh nhân trở lên mạnh mẽ.
Thành phần kinh tế tư nhân không bao giờ được đề cập trong các phương tiện truyền thông của Triều Tiên. Nước này vẫn tuyên truyền rằng Triều Tiên đang ở thời kì giống như những năm 1980 khi tất cả thực phẩm đều được sản xuất bởi các nông trại do nhà nước quản lý và tất cả các mặt hàng tiêu dùng đều được sản xuất bởi các công ty quốc doanh và được phân phối dưới sự chỉ đạo của nhà nước.
Thực tế là: Nền kinh tế của Triều Tiên đang bị chi phối bởi một tầng lớp các doanh nhân và thị trường của họ bất chấp nỗ lực che đậy và cản trở của chính phủ Triều Tiên.
Theo Phạm Khánh
Infonet

‘tôi từng ăn cắp'

Thanh niên cầm biển ‘tôi từng ăn cắp' phản đối làm nhục nữ sinh

"Hơn 10 năm trước, tôi từng ăn cắp sách tại đây và bị bắt... hãy vị tha và đối xử nhân văn với lỗi lầm của trẻ nhỏ" - chàng trai in lên tấm biển cầm trước ngực.
Chàng thanh niên đã đứng khá lâu với tấm biển này tại khu vực nhà sách ở quận 1, TP HCM khiến rất nhiều người đi đường tò mò.
Anh tâm sự 10 năm trước, anh cũng đã từng ăn cắp sách tại đây và bị bắt, nhưng không có ai trói và bắt anh đeo tấm biển như nữ sinh bị treo biển "tôi là người ăn cắp".
Trước đó, ngày 10/4, một nữ sinh trung học cơ sở đã bị trói hai tay và đeo tấm biển "Tôi là người ăn trộm". Nữ sinh này bị cho là đã ăn cắp 2 cuốn sách trong một siêu thị ở Gia Lai. Tấm ảnh chụp lại vụ việc sau khi được đăng trên Facebook đã khiến cộng đồng phẫn nộ.
4-1722-1397548732.jpg
Người thanh niên với tấm biển trên tay.
5-9923-1397548732.jpg
Hành động của anh rất được chú ý.
Trên trang cá nhân của mình, chàng trai chia sẻ: “Tôi chỉ muốn cảm ơn những người hơn 10 năm trước đây đã hành xử hết sức rộng lượng và nhân văn đối với một tên trộm.”
Nguồn: Facebook

Khi tiền thuế của dân "nhiều như lá rừng"


BTTD: Bộ GD-ĐT viết hay, nói giỏi, tưởng tượng phong phú nên cứ nghĩ dân vẽ ra tiền, bộ muốn bao nhiêu cứ lấy.

'34 nghìn tỷ, hy vọng tôi nghe nhầm'

 - GS Hoàng Tụy cho biết, tôi thực sự sốc khi nghe tin Bộ GD-ĐT báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần đến số tiền 34.000 tỉ đồng để thực hiện việc biên soạn chương trình và SGK mới sau năm 2015. Tôi hi vọng nghe nhầm con số...
Trong lần thứ hai báo cáo về Dự thảo nghị quyết về đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông, Bộ GD-ĐT vẫn chưa làm hài lòng Ủy ban thành viên Quốc hội về tính khả thi của đề án.
đổi mới, sách giáo khoa, chương trình, đề án, tỷ đô, giáo dục
Ảnh minh họa: Tiền Phong Online
Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển đã nêu ra những yếu kém, bất cập của chương trình, SGK hiện nay. Bên cạnh đó, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục hiện tại cũng chưa đáp ứng được yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học ở các trường phổ thông.
Theo ông Hiển, “xu thế chung của chương trình giáo dục hiện đại là tích hợp và phân hóa cao; một mặt để hình thành năng lực vận dụng tổng hợp, mặt khác giúp học sinh phát triển những năng lực chuyên biệt; hạn chế số lượng môn học bắt buộc; ưu tiên cho tự chọn nội dung học tập nhằm đáp ứng nhu cầu và sở thích cá nhân người học”.
Trả lời câu hỏi về kinh phí cho đề án đổi mới của Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội Trương Thị Mai, Thứ trưởng cho biết “cần 34.275 tỷ đồng, bao gồm: thực hiện công việc đổi mới chương trình, SGK, đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và gồm cả kinh phí tuyên truyền về đổi mới… Đó là chưa kể tiền xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị ở những trường còn thiếu”.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thẳng thắn: “Các đồng chí toàn dùng khẩu hiệu... Các đồng chí mới nói được là chương trình, sách giáo khoa phải đổi mới. Nói vậy thì đúng rồi. Nhưng vấn đề là đổi mới thế nào, phải thế nào để đáp ứng mục tiêu đó thì tôi không thấy rõ”.
“Đến năm 2016 là bắt đầu rồi, tôi đề nghị các đồng chí cho biết là có làm được không? Đừng để đến lúc đó thực hiện không được lại đổ lỗi cho chất lượng đội ngũ không tốt, cơ sở vật chất không đáp ứng...”.
Bà Trương Thị Mai cho rằng người dân khi đọc dự thảo nghị quyết này sẽ không hình dung được mười năm tới nền giáo dục của nước ta như thế nào. Theo bà, chủ trương đa dạng hóa SGK đã đề cập từ năm 2000 nhưng vẫn chưa thực hiện được. Về vấn đề trang thiết bị, đi giám sát nhiều trường thì thấy xếp vào kho hết.
Về vấn đề kinh phí, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu nói, chúng ta đã dành 20% chi ngân sách cho giáo dục, bây giờ dành tiền làm SGK thì sẽ ảnh hưởng gì đến những việc khác? Ông Giàu cũng bày tỏ lo ngại về tính khả thi của đề án: thiếu những vấn đề cụ thể, mà chỉ nặng tính định hướng.
Chia sẻ với báo Tuổi trẻ, GS Hoàng Tụy cho biết: “Tôi thực sự sốc khi nghe tin Bộ GD-ĐT báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần đến số tiền 34.000 tỉ đồng để thực hiện việc biên soạn chương trình và sách giáo khoa mới sau năm 2015. Tôi hi vọng nghe nhầm con số, chứ 34.000 tỉ đồng là trên dưới 1,5 tỉ USD, một số tiền khổng lồ, vượt quá nghìn lần con số tôi có thể nghĩ tới”.
Ông cũng cho rằng trong điều kiện kinh tế còn quá khó khăn như hiện nay – mà ngay cả các nước giàu có trên thế giới cũng không ai tiêu xài vô lý như vậy – thì số tiền này khó có thể chấp nhận.
Trong khi đó, PGS Văn Như Cương khẳng định chỉ cần một phần nghìn là đủ. “Nếu tôi được giao chủ biên viết sách giáo khoa một môn học, giả dụ môn toán của một lớp, tôi chi trả cho người biên soạn 1 triệu đồng/tiết thì số tiền chi trả cho cả cuốn sách khoảng 100 triệu đồng. Một lớp có khoảng 13 môn học (như hiện nay) thì số tiền chi trả cho biên soạn sách giáo khoa tất cả các môn của một lớp khoảng 1,3 tỉ đồng. Cứ cho là hiện nay có những yếu tố cần nâng kinh phí lên, vậy tôi cứ tạm tính kinh phí chi cho một bộ sách giáo khoa là 2,5-3 tỉ đồng, 12 bộ cần khoảng 34-36 tỉ đồng. Như vậy số tiền chi cho biên soạn sách giáo khoa của bậc phổ thông chỉ tốn khoảng 1/1.000 số tiền mà lãnh đạo Bộ GD-ĐT công bố”.
“Nếu cộng thêm nữa những chi phí phát sinh do “yêu cầu cao hơn”, chi phí cho một bộ sách giáo khoa phổ thông làm tròn là 100 tỉ đồng thì con số này cũng chỉ bằng 3/1.000 số đã công bố. Tôi chỉ đưa ra con số này để tham khảo, suy nghĩ thôi. Vì có thể Bộ GD-ĐT sẽ giải thích trên 34.000 tỉ đồng không chỉ chi cho biên soạn sách giáo khoa mà còn chi tập huấn giáo viên, thẩm định chương trình - sách giáo khoa, nâng cấp cơ sở vật chất, tổ chức thí điểm...”

Danh ngôn Việt Nam XHCN

Một số câu nói LƯU DANH THIÊN CỔ:( fb Minh Giang sưu tầm)
1.Nguyễn Duy Bình - Chủ tịch UBND phường Quảng An, Q. Tây Hồ, Hà Nội - thách thức các hộ dân khiếu nại về vấn đề đền bù:
“Tao làm sai đấy, mày thích thì đi mà kiện!”
2.Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng: "Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai”.
3. Ông Bùi Đức Lại - Chuyên viên cao cấp của Ban tổ chức Trung ương:
"Không ai dại gì đem chuyện tham nhũng ra cuộc họp chi bộ, như thế khác gì cầm một tiểu liên để chiến đấu chống... xe tăng!"
4. Ông Vũ Phạm Quyết Thắng, phó Tổng thanh tra Chính phủ trả lời báo Tuổi trẻ về chống tham nhũng:
"Vì sự ổn định của xã hội, cái đã xảy ra rồi hãy để cho lịch sử phán xét, nhiều khi để nguyên thì nó là loại phân vi sinh tốt, bới ra nó lại... có mùi"
5. Thẩm phán Nguyễn Thị Cẩm Thu nói ngay trước mặt nhiều người tại Tòa Án Nhân Dân thành phố Rạch Giá:
"Tôi làm theo sự chỉ đạo của ông Lung [Chánh án Đào Văn Lung]. Muốn khiếu nại thì lên tòa tối cao mới thắng chứ ở đây không thắng kiện được đâu. Luật là cái gì? Đi tòa tối cao thì cũng phải có quà cáp, bao thơ. Bản thân tôi làm trong ngành tòa án muốn gặp người trong tòa án tôi cũng phải đưa bao thư."
6. Thiếu Tướng Phạm Xuân Quắc nói về vụ PMU18:
"Tôi có nói với các nhà báo là tôi sắp đến tuổi về hưu rồi nên tôi dám đánh vụ này, nếu tôi còn trẻ thì tôi chưa chắc đã dám làm vụ này, vì còn phải trông trên trông dưới. Thật ra vụ án này, tôi đánh "lấn sân", vì mảng án tham nhũng không thuộc về chức trách Cục C14 làm, nhưng do các "sân" khác chưa làm được thì tôi làm. Tôi dám làm vụ này bởi vì tôi không có động cơ cá nhân, tôi đã có tuổi nên không phải lấy lòng ai, không sợ mất lòng ai. Trận đánh tham nhũng này rất khó khăn vì cũng có những người không ủng hộ và có lẽ ngoài tôi, chắc ít người dám đánh."
7. Trong dịp kỷ niệm 60 năm Quốc hội Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Gì Trọng, nguyên chánh văn phòng Quốc hội từ khóa I đến khóa VII phát biểu với PV VietNamNet:
"Bây giờ, thậm chí bài phát biểu của đại biểu Quốc hội còn phải trình lên cấp trên để xem trước. Thế thì còn gì nữa. Ngày trước, đại biểu Quốc hội cứ phát biểu tuỳ ý."
8. Ông Nguyễn Xuân Kiên, Viện trưởng Viện chiến lược kinh tế - xã hội Việt Nam và Đông Nam Á.
Chỉ 20 -30 năm nữa, Việt Nam sẽ là một trong 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới. 40 năm nữa, Việt Nam sẽ đứng trong top 15 nền kinh tế lớn nhất thế giới.
9. "Với giá gas cao thì người tiêu dùng có thể lựa chọn mặt hàng thay thế như củi, điện" - Vụ phó Vụ Thị trường trong nước, Bộ Công thương.
10. "Ông Chấn muốn được bồi thường thì phải chứng minh được thiệt hại" - Cục trưởng cục bồi thường nhà nước.
11. "Tiền bồi dưỡng mỗi ca trực của CSGT chỉ đủ mua ổ bánh mì" - Ủy viên bộ chính trị, Bộ trưởng công an GS.TS Trần Đại Quang.
12. Petrolimex lãi 60% so với năm ngoái "Lãi này vẫn chưa đạt mục tiêu của chúng tôi" - TGĐ Petrolimex.
13. "Món nợ 1,3 triệu tỷ đồng của các công ty nhà nước không có ý nghĩa gì cả" - Vũ Viết Ngoạn, chủ tịch uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia.
14. "Không phát hiện tham nhũng tại 9 tỉnh đồng bằng sông Hồng" - Thanh tra chính phủ.
15. "Việc đóng phí thể hiện sự yêu nước nên người dân phải thấy hạnh phúc và tự hào" - Bộ trưởng Bộ GTVT Đinh La Thăng.
16. “Chắc chắn Việt Nam sẽ không thua kém Hàn Quốc, Nhật Bản” - Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh.
17. “Cơ quan điều tra Việt Nam thuộc hàng giỏi nhất thế giới” - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Đình Quyền.
18. Lương CSGT “không đủ tiền xăng xe, đi lại huống chi là việc nuôi vợ nuôi con và đủ sức để tuần tra, kiểm soát. CSGT mong nhận được sự ủng hộ chia sẻ của nhân dân và Chính phủ" - Thiếu tướng Nguyễn Văn Tuyên, Cục trưởng cục CSGT đường bộ, đường sắt (Bộ Công an).
19. "Đương nhiên kinh tế nhà nước phải chủ đạo, nếu không chủ đạo thì ai lo an sinh xã hội, đương nhiên kinh tế nhà nước phải lo rồi, phải là chủ đạo!" - Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc.
20. “Hiến Pháp là văn kiện chính trị pháp lý quan trọng vào bậc nhất... sau Cương lĩnh của Đảng CSVN” – TBT, GS.TS Nguyễn Phú Trọng.
21. “Đến hết thế kỷ này vẫn chưa biết có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở VN hay chưa” – TBT, GS.TS Nguyễn Phú Trọng.
22. “Vừa rồi có các luồng ý kiến có thể quy vào được là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chứ gì nữa…Cho nên các đồng chí quan tâm xử lý cái này! Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Muốn ‘tam quyền phân lập’ không? Muốn ‘phi chính trị hóa quân đội’ không? Tham gia đi khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể… Đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa!”– TBT GS.TS Nguyễn Phú Trọng.
23. "Đối với người thu nhập thấp và người nghèo, khi giá điện tăng, các đối tượng này không bị ảnh hưởng gì" - Phó Tổng giám đốc Tập đoàn EVN Đinh Quang Tri.
24. “Giá xăng dầu tăng nhưng không ảnh hưởng nhiều đến CPI” - Vụ Thị trường trong nước (Bộ công thương).
25. “Thể chế đa đảng có thể mang tới cơ hội tham nhũng nhiều hơn” – Báo Công An Nhân Dân (07/12/2013)
26. “Đường Tăng khi xưa đi lấy kinh sang đất Phật cũng phải hối lộ mới lấy được kinh. Cho nên chúng ta phải xem xét bình tĩnh, tỉnh táo, sáng suốt. Phải có cái nhìn khoa học, biện chứng về tham nhũng” – TBT, GS.TS Nguyễn Phú Trọng.
27. "Chúng ta cũng có thể thấy mệnh giá tờ 10.000đ năm 2002, đến bây giờ vẫn là 10.000đ, tại sao lại nói thu nhập của người dân không tăng?" - Thứ trưởng bộ giao thông vận tải Nguyễn Hồng Trường.
28. “Tham nhũng là do sự tác động của đạo đức, lối sống tư sản, hưởng thụ của phương Tây. Các thế lực thù địch đã chủ động khuyến khích lối sống ích kỷ, hưởng thụ, thực dụng trong cán bộ đảng viên, cán bộ lãnh đạo và gia đình họ coi đó là biện pháp để thực hiện diễn biến hòa bình” – Ban tuyên giáo trung ương ĐCSVN (tài liệu học tập chính trị cho đối tượng kết nạp đảng).
29. “Không khởi tố tham nhũng là góp phần ổn định chính trị ở địa phương, là vì đại cục, vì cái to lớn hơn” – Giám đốc Sở Lao động thương binh xã hội Hà Giang.
30. "Việc nổ súng bắn người đâu có dễ, từng có cán bộ thi hành án bắn trượt do quá run... nên không lo việc xảy ra lạm quyền" - Thiếu tướng Trần Văn Vệ
31.Cục trưởng Cục Cảnh sát hình sự, Đại tá Hồ Sỹ Tiến ( vụ quan tài diễu phố):
KHÔNG QUAN TÂM ĐIỀU TRA THẾ LỰC NÀO ĐÃ & ĐANG MƯU TOAN ÉM NHẸM VỤ GIẾT NGƯỜI TẠI VĨNH YÊN MÀ CHỈ QUAN TÂM ĐIỀU TRA XEM AI ĐỨNG SAU CUỘC BIỂU TÌNH 17/3"
32. Đại biểu quốc hội Trần Tiến Cảnh
+ "Những nơi có chỉ số IQ cao thì có đường sắt cao tốc, VN ta cũng có chỉ số IQ cao, đề nghị Quốc hội tán thành xây dựng ĐSCT."
33.Đại biểu QH Hoàng Hữu Phước "Khi nào trình độ dân trí cao và kinh tế ổn định hơn thì mới có thể ban hành Luật Biểu Tình."
34. Thiếu tướng Nguyễn văn Tuyên : “Bây giờ nghiên cứu thế nào là tham nhũng, thế nào là tiêu cực tôi cho rằng nó chưa rạch ròi. Nhận của lái xe, nhận của người tham gia giao thông dăm ba chục, một vài trăm mà đó là tham nhũng thì theo tôi ý đó là không thỏa đáng”.
35. Đại tá-PGS-TS-NGƯT Trần Đăng Thanh, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng :" nhiều nội dung, trong đó có một nội dung rất cụ thể, rất thiết thực với chúng ta đó là bảo vệ sổ hưu cho những người đang hưởng chế độ hưu và bảo vệ sổ hưu cho những người tương lai sẽ hưởng sổ hưu, ví dụ các đồng chí ngồi tại đây. Cho nên ta phải nói rõ luôn, hiện nay chúng ta phải làm mọi cách để bảo vệ bằng được Tổ quốc Việt Nam thời XHCN."
36. Nguyễn Sinh Hùng: "Sai thì phải sửa, làm 10 việc tốt cũng có thể có một việc sai. Nếu cách chức hết thì lấy ai làm việc. Cứ nói theo quy định của pháp luật, nhưng pháp luật cũng có cái đạo, cứ dẹp đi là bầu không kịp"
37.Nguyễn Minh Triết :"Việt Nam, Cuba như là Trời-Đất sinh ra. Một anh ở phía Đông. Một anh ở phía Tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hoà bình cho thế giới. Cuba thức thì VN ngủ. VN gác thì Cuba nghỉ."
38.. "Cái gì cũng phải tiền, không tiền không trôi, như ngứa ghẻ phải gãi rất khó chịu", Nguyễn Phú Trọng
39.“Sẽ không có bao che, mà công khai, minh bạch nguyên nhân. Trách nhiệm của ai sẽ xử lý người đó. Lỗi của vắc-xin thì xử vắc-xin; lỗi do người tiêm, xử người tiêm; lỗi do kỹ thuật xử lý kỹ thuật..” - Nguyễn Thị Kim Tiến trả lời phỏng vấn ngày 24/7.
40."Năm 2010, giáo viên sẽ sống được bằng lương" - Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân.
41.Nguyễn Bá Thanh tuyên bố: "Sắp tới tôi sẽ rà vô một số cái (của lĩnh vực ngân hàng - PV), cho "hốt liền", không nói nhiều"
42. “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN … khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản” - GS.TS - Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan. Báo Nhân dân 2011.
43. "CỨ TĂNG GIÁ LÀ PHẢN ỨNG THÌ CHẮC CHẮN ĐẤT NƯỚC KHÔNG PHÁT TRIỂN ĐƯỢC" - Bùi Quang Vinh - Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư.
44. Để lọt 230kg ma túy qua khỏi sân bay "Nhân viên an ninh hàng không đã thực hiện đúng quy trình nhưng do chưa được huấn luyện nghiệp vụ để phát hiện ma túy" – Cục trưởng cục hàng không VN Lại Xuân Thanh.
45.Đại tá Đỗ Hữu Ca - Giám đốc Công an thành phố Hải Phòng nói về vụ cưỡng chế Đoàn Văn Vươn:
"Vụ việc hôm ấy tuy bắt không được đối tượng nhưng mà trấn áp được đối tượng. Phải nói rằng việc hiệp đồng tác chiến cực kỳ hay. Tôi bảo, không có cuộc diễn tập nào thành công bằng cuộc diễn tập lần này. Một là, anh em cơ động dùng thuyền để tiếp cận là chưa có bao giờ trong giáo án, đã phải dùng thuyền nan để chèo vào, bí mật áp sát mục tiêu đấy. Đánh mũi trực diện nghi binh ra làm sao. Rồi là tác chiến vòng ngoài, vòng trong thế nào. Tôi nghĩ là rất hay, có thể viết thành sách."
46.Bí thư Nguyễn Văn Thành ( Hải Phòng) nói về vụ Đoàn văn Vươn:
"Còn tác động về chính trị, khi xảy ra một cái, là ý kiến các đồng chí như đồng chí Lê Đức Anh, đồng chí Đặng Hùng Võ, và một số người lập tức hùa vào thằng Vươn luôn, lập tức các bài báo liên tục xuất hiện, phải thế nọ phải thế kia, phải phải liên tục, phải cho đến ngày hôm qua là 1343 bài báo và 5 triệu lượt người vào mạng "Gu-Gồ chấm Tiên lãng", cho nên thiệt hại ở đây là thiệt hại cả về vật chất, cả nước chỉ có lao vào chuyện Tiên Lãng, không để ý phát triển kinh tế xã hội, cứ làm như đất nước Việt Nam này, thành phố này… Không cẩn thận, chúng ta sẽ vào một cái vòng xoáy do cái âm mưu từ ở đâu đó…"
47. Trung tướng Nguyễn Đức Lâm, Chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp quốc phòng ( nói về Vụ nổ ở nhà máy Z121 làm chết 23 người và 71 người khác bị thương):
"Nhờ huấn luyện con người tốt nên thiệt hại mới như vậy"
48. Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng. Theo Lao Động Online ngày 15/11/2013, khi bị chất vấn về vấn đề quy hoạch thủy điện, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng phát biểu:
“Quy hoạch thủy điện mang tính đặc thù…Đây là của cả nước chứ không riêng của Chính phủ, hay của Bộ Công thương. Chúng ta đang nói về chúng ta, chứ không nói về chính phủ về bộ ngành này, bộ ngành khác.” Phát biểu này đã làm nóng nghị trường, hầu hết đại biểu đều băn khoăn bức xúc không biết Bộ trưởng Công thương đang nói về cái gì.
49. Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến phát ngôn khi trả lời tình trạng quá tải ở những bệnh viện tuyến trên, rằng:
"Thiếu giường bệnh thì... phải hỏi Nhà nước".
50. Ông Đinh Mạnh Toàn - Phó Cục trưởng Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội (Bộ Công an) :
“Có lẽ phóng viên của một số báo thiểu năng gì đó, kém gì đó. Các phóng viên đó không hiểu được thế nào là mũ giả, mũ rởm mà cứ phải diễn đạt bằng lời lẽ, bằng giải thích từ ngữ rồi đăng tải? Ở đây có 5-6 Bộ đánh giá về mũ bảo hiểm thì cứ thế mà đưa vào”.

Vì sao văn hóa, đạo đức xã hội suy đồi?

AI LÀM “VĂN HÓA XUỐNG CẤP”, “ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI SUY ĐỒI”?
Nguyễn Trọng Bình


1. “Hà Nội ư? Có riêng gì Hà Nội...?” 
Kinh tế phát triển, đời sống vật chất của người dân nhìn chung được nâng lên so với thời kỳ “chưa mở cửa” thế nhưng ở chiều ngược lại đời sống văn hóa tinh thần lại “đi xuống” đến mức “báo động đỏ”. Đây là nhận định chung của khá nhiều người trong đó có những “chuyên gia văn hóa”, những người đang giữ trọng trách “sản xuất” và “tuyên truyền” văn hóa của đất nước đến mọi tầng lớp nhân dân trong khoảng vài năm trở lại đây. Nhiều người còn thẳng thắn lên án và “định danh” những biểu hiện “lệch lạc” trong lối sống, lối sinh hoạt của một bộ phận không nhỏ người dân (nhất là lớp trẻ) hiện nay là: “suy đồi về đạo đức” hay “xuống cấp về văn hóa” nói chung. Và đỉnh điểm cho thực trạng đau lòng này, có lẽ là vấn đề đang được dư luận cả nước quan tâm và mổ xẻ tạo thành một diễn đàn trao đổi sôi nổi trên báo điện tử Vietnamnet mấy ngày gần đây: vì sao có một bộ phận không nhỏ người Hà Nội – những người đang sống ngay tại thủ đô “nghìn năm văn hiến” của cả nước lại có những biểu hiện “suy đồi về đạo đức”, “xuống cấp về văn hóa” đến mức “không thể tin dù đó là sự thật”? Thế thì nguyên nhân nào đưa đến thảm cảnh này? Và những ai phải chịu trách nhiệm chính?  
2. Bi kịch do lịch sử để lại?
Trước hết cần khẳng định, vấn đề “suy đồi về đạo đức” hay “xuống cấp về văn hóa” của một bộ phận người dân hiện nay không chỉ ở riêng thủ đô Hà Nội mà là ở khắp nơi trên đất nước. Có nhiều nguyên nhân đã được các “chuyên gia văn hóa” đưa ra, tuy vậy với góc nhìn cá nhân cũng xin mạo muội góp vào một ý kiến chia sẻ dưới đây.
 Từ góc nhìn văn hóa – lịch sử, có thể nói, Việt Nam trước khi có mặt của người Pháp là một xã hội thuần nông nghiệp; mọi vấn đề tổ chức thể chế chính trị, tổ chức đời sống, văn hóa đều chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc từ Trung Hoa. Điều này tất yếu dẫn đến mọi “chuẩn mực” văn hóa của người dân trong xã hội đều được xác lập dựa trên cơ sở nền tảng là những học thuyết, tư tưởng, văn hóa ảnh hưởng từ Trung Hoa mà nổi bật nhất là học thuyết Nho giáo của Khổng Tử.
Khi người Pháp đặt chân lên và dần dần thiết lập sự thống trị trên toàn lãnh thổ (bởi “chủ nghĩa thực dân”) thì như một lẽ tất yếu những nền tảng văn hóa chịu ảnh hưởng của người Trung Hoa trước đây bị phá vỡ. Xã hội Việt Nam lúc này bị phân hóa thành hai xu hướng. Xu hướng tiến bộ ra sức cổ vũ và ủng hộ văn hóa Phương Tây (vừa du nhập vào), xu hướng bảo thủ thì cho rằng cần phải lên án đồng thời ra sức bảo vệ những giá trị văn hóa (chịu ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa) mà họ xem là “truyền thống”. Đây có thể xem là“sự xáo trộn và mất ổn định” hay nói cách khác là “loạn chuẩn” văn hóa đầu tiên trong xã hội Việt Nam trong quá trình vận động và phát triển.
  Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản (lấy tư tưởng Mac-xit làm nền tảng trong mọi đường hướng) trong suốt một thời kì dài “đánh thực dân (sau này là “đánh đế quốc”) – phong kiến” giành độc lập và thống nhất đất nước gần như những vấn đề liên quan đến văn hóa phương Tây, văn hóa thời phong kiến lúc này gần như lại bị lên án, xóa bỏ. Dù muốn dù không, ở chỗ này chúng ta cũng đã thừa nhận có những sai lầm vì đã vô tình đồng nhất giữa những giá trị văn hóa của nhân loại dù là của phương Tây hay phương Đông với những tập đoàn thù địch, phản động. Cho nên, lẽ ra ta chỉ “đánh” những “thế lực phản động” (cụ thể ở đây là những tập đoàn phong kiến vốn đã phơi bày những yếu kém, lạc hậu hay “chủ nghĩa thực dân”, “chủ nghĩa đế quốc” tàn bạo xâm lược chủ quyền chứ không phải “đánh” văn hóa phong kiến hay văn hóa Phương Tây. Khẩu hiệu: “Phú, Trí, Địa, Hào, đào tận gốc trốc tận rể” là một minh chứng tiêu biểu nhất cho sai lầm đã được Đảng thừa nhận sau này. Và đây chính là lần “loạn chuẩn văn hóa” lần thứ hai của chúng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước.
Từ khi “mở cửa” cho đến nay, có thể nói tuy nhiều vấn đề của đất nước (trong đó có văn hóa) đã được nhìn nhận theo chiều hướng tích cực hơn nhưng cơ bản nhìn chung xã hội vẫn còn bị phân hóa bởi hai xu hướng: ủng hộ văn hóa phương Tây, phê phán lên án quyết liệt những vấn đề liên quan đến văn hóa Trung Hoa (coi đó là xiềng xích nguy hiểm) vốn đã ăn sâu vào tận xương tủy của rất nhiều người Việt Nam; ngược lại là xu hướng xem những giá trị văn hóa bị ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa là “tinh thần”, là “bản sắc”, là “truyền thống” văn hóa dân tộc cần phải giữ gìn, phát huy. Khoan bàn đến chuyện ủng hộ xu hướng nào, tuy nhiên có thể nói đây cũng là biểu hiện rõ ràng cho thấy chúng ta còn vẫn còn bị “xáo trộn và mất tính ổn định” trong việc xác lập những giá trị riêng mang tính cốt lõi, nền tảng trong xu hướng hội nhập phát triển của đất nước. Ngoài ra, trong xu hướng thế giới mở, sự bùng nổ thông tin của thời đại ngày nay thì sự xáo trộn và mất ổn định thậm chí mất kiểm soát những giá trị văn hóa vốn góp phần làm nên “hồn cốt” của dân tộc đang ngày một trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Thế nhưng điều đáng tiếc là vấn đề này chúng ta lại ít chú ý (có lẽ do quá tập trung cho việc phát triển kinh tế, ổn định đời sống vật chất mà quên việc chăm lo đời sống tinh thần – vấn đề này xin được bàn kỹ hơn ở phần sau).  

***

Từ những vấn đề trên có thể nói, đây là sự trớ trêu của lịch sử khi đã đặt dân tộc vào những “tình cảnh ngặt nghèo” nhất trong quá trình vận động và phát triển. Ở góc nhìn văn hóa, hậu quả của những sự “loạn chuẩn” văn hóa kéo dài này đã vô tình gây nên sự hoang mang đối với người dân. Bởi mỗi lần thay đổi “ý thức hệ” là một lần “xáo trộn” văn hóa (cho phù hợp với chính sách của nhà cầm quyền). Điều đáng nói là chỉ trong một thời gian ngắn nhưng có quá nhiều sự thay đổi và “xáo trộn” nên người dân thật sự không cách nào thích ứng cho kịp. Họ cảm thấy hoang mang, mơ hồ thậm chí mất phương hướng trước những vấn đề của cuộc sống khi không biết “dựa vào đâu”, “tin vào ai” để xác lập cho bản thân một thái độ ứng xử phù hợp, đúng đắn. Đây chính là một trong những nguyên nhân căn bản và sâu xa nhất gây nên những sự “lệch lạc” hay “xuống cấp” và “suy đồi” văn hóa đạo đức trong xã hội ta hiện nay.
Vì vậy, đề cập đến những hiện tượng “xuống cấp về văn hóa” hay “suy đồi về đạo đức” trong xã hội ta hiện nay mà không xem xét đến yếu tố này như một nguyên nhân căn bản sẽ khó lý giải và tìm ra những giải pháp khắc có hiệu quả. Ví như vấn đề “suy đồi đạo đức” hay “xuống cấp văn hóa” hiện nay không chỉ diễn ra ở thủ đô Hà Nội mà là ở khắp nơi trên đất nước nhưng tại sao Hà Nội lại là nơi bị dư luận “điểm danh” đâu tiên? Thật ra, cũng không khó để lý giải chuyện này. Thứ nhất, do Hà Nội là thủ đô, là trung tâm, là “đầu não” của đất nước - nơi trực tiếp “sản xuất” và “tuyên truyền” văn hóa của cả nước mà còn như thế thì dù muốn dù không cũng phải chịu sự “phán xét” trước tiên. Bên cạnh đó, so với các địa phương khác phải chăng Hà Nội là nơi mà theo nhiều người thì sự “xuống cấp” và “suy đồi” đạo đức, văn hóa là trầm trọng nhất.[1] Nói điều này không phải nhằm mục đích nhục mạ người dân thủ đô mà trước hết nên xem đây là sự “phản tĩnh” cần thiết để mọi người dù đang sống ở bất kỳ nơi đâu hiểu rằng nguy cơ suy đồi văn hóa đang hàng ngày rình rập chúng ta. Đồng thời khi đã hiểu được bản chất vấn đề rồi có khi mọi người cần thông cảm cho người Hà Nội hơn. Sở dĩ tôi nói vậy là vì hai lý do:
Một là, như đã nói, Hà Nội với tư cách là thủ đô, là thủ phủ của đất nước nên gần như tất cả những vấn đề liên quan đến chính sách văn hóa thì Hà Nội sẽ bị ảnh hưởng và tác động một cách trực tiếp và mạnh mẽ nhất. Điều đó cũng có nghĩa sự xáo trộn và mất ổn định trong việc xác lập những giá trị văn hóa của dân tộc qua các chặng đường lịch sử như đã phân tích ở trên thì Hà Nội là nơi bị ảnh hưởng nhiều nhất. Nói cách khác, ở bất cứ thời kỳ nào, hoàn cảnh nào nếu những chính sách văn hóa của nhà cầm quyền ban ra đúng đắn, lành mạnh thì người dân thủ đô khi ấy sẽ là người “hưởng lợi” nhiều và trước nhất; còn ngược lại nếu những chính sách văn hóa sai lầm hay tiêu cực thì cũng chính người Hà Nội chứ không phải người dân địa phương khác phải gánh lấy hậu quả khủng khiếp nhất. Đây là nguyên nhân có tính khách quan cần nhìn nhận và thông cảm cho người dân thủ đô.
Hai là, một lý do khác vừa có yếu tố là khách quan vừa mang chủ quan gây nên sự “xuống cấp và suy đồi văn hóa, đạo đức” của người Hà Nội nặng nề hơn so với các vùng miền khác bởi Hà Nội là địa phương có đường biên tiếp xúc với “thằng cha láng giềng” Trung Quốc gần và trực tiếp nhất. Như một lẽ tất yếu chúng ta ở gần một “anh hàng xóm quỷ quyệt, xảo trá” nên dù có cố gắng tự bảo vệ mình bằng những “chuẩn mực” riêng (để không bị “gần mực thì đen”) nhưng vì “ở cạnh nhau” lâu dài và mãi mãi nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi có lúc nào đó ta lơ là, mất kiểm soát. Để rồi khi không kiềm chế được ta buộc phải “chẳng đặng đừng” mà buông ra những tiếng “chửi thề” (nhằm bày tỏ sự bức xúc của mình với anh hàng xóm xảo quyệt kia). Mà một khi đã buông ra tiếng “chửi thề” thì khó giữ nổi danh hiệu “người Tràng An thanh lịch” vì dù muốn dù không “chửi thề”chính  là biểu hiện của sự thô tục và thiếu văn hóa. Đó là chưa kể nếu không tỉnh táo, quên mất “giọt máu đào” để rồi “bán anh em xa mua láng giềng gần” thì càng nguy hiểm hơn nữa!
Tóm lại, nếu cho rằng đất nước ta hiện nay đang bị “loạn chuẩn” văn hóa thì sự “loạn chuẩn” này một phần là do sự trớ trêu của lịch sử để lại. Lịch sử văn hóa dân tộc Việt Nam nhìn từ phương diện này có thể nói đó là một bi kịch đớn đau! 
3. Trách nhiệm thuộc về ai?
Nếu nói sự “xáo trộn và mất ổn định” của những giá trị văn hóa do lịch sử để lại là nguyên nhân sâu xa gây nên sự “loạn chuẩn” hay “suy đồi” văn hóa của con người hiện nay thì cũng cần thừa nhận còn một nguyên nhân trực tiếp đã gây nên thảm cảnh này? Vậy nguyên nhân trực tiếp ấy là gì? Xác định rõ nguyên nhân này cũng đồng nghĩa với việc chỉ ra trách nhiệm xã hội đối với thực trạng bát nháo và suy đồi về văn hóa trong xã hội hiện nay.
Trong bài viết Trách nhiệm văn hoá là trách nhiệm chung,[2] GS Trần Hữu Dũng khái quát lại có “ba thành phần” phải có“trách nhiệm đối với văn hóa” đó là: người “sản xuất văn hóa”, người “phê bình văn hóa” và người “tiêu thụ văn hóa”Từ góc nhìn này, có thể nói, “sự xuống cấp và suy đồi văn hóa, đạo đức” xã hội hiện nay, ngoài nguyên nhân khách quan do lịch sử để lại thì một nguyên nhân không kém phần quan trọng khác đó là do chính những con người hiện tại, cụ thể là những người đang nắm trọng trách định hướng và tuyên truyền văn hóa trong bộ máy nhà nước (những “người sản xuất và phê bình văn hóa” như cách nói của giáo sư Trần Hữu Dũng). Bởi văn hóa vốn chỉ có ý nghĩa và giá trị với người đang có mặt, đang thụ hưởng vì thế dù muốn dù không tất cả chúng ta đang có mặt ở đây đều không thể chối bỏ trách nhiệm này. Tuy nhiên, cũng cần phải xác định rõ thành phần nào phải chịu trách nhiệm chính chứ không thể nói trách nhiệm xã hội một cách chung chung được. (Mặt khác, cũng cần phải thấy rằng tuy “người tiêu thụ văn hóa” cũng là một thành phần phải chịu trách nhiệm về sự “xuống cấp” văn hóa nhưng theo tôi ở nước ta đại bộ phận những “người tiêu thụ văn hóa” hiện nay vốn là những người dân ít có điều kiện và cơ hội phát biểu những vấn đề văn hóa “lớn lao” so với hai thành phần “người sản xuất và phê bình văn hóa” vì thế ở đây chúng tôi chủ yếu nhấn mạnh đến trách nhiệm của hai thành phần này mà thôi).
***
Rõ ràng đến thời điểm này phải thừa nhận một điều những người đang nắm giữ trọng trách “sản xuất và phê bình văn hóa” đang rất lúng túng và lơ là trong việc xác lập những cái gọi là “chuẩn mực văn hóa” của dân tộc trong sự vận động và phát triển của đất nước. Nghiêm túc mà nói đến nay, những cái gọi là “tinh hoa” văn hóa dân tộc vốn đã bị xáo trộn và mất ổn định qua từng chặng đường lịch sử vẫn chưa được xác lập lại sao cho thật thuyết phục, tránh rơi vào cực đoan, phiến diện. Cụ thể, phải làm sao xác lập những giá trị văn hóa căn bản nhất góp phần làm nên “diện mạo” của dân tộc để mọi người dân thật sự tin tưởng và xem đó như những giá trị văn hóa mang tính nền tảng, một “cứu cánh của tâm hồn” trong cuộc sống nhất định họ phải hoàn thiện một cách tự giác; những giá trị văn hóa thật sự mang lại niềm tự hào cho người dân trong quá trình hội nhập, giao lưu với bạn bè thế giới; và để bạn bè thế giới nhìn vào là nhận ra đó là giá trị văn hóa xuất xứ từ Việt Nam... Thật đáng tiếc, tất cả những vấn đề này thời gian qua lại ít được chú trọng, ít được xem xét một cách nghiêm túc và thấu đáo. Xin được minh chứng sự “lúng túng” này qua một số biểu hiện sau:
Thứ nhất, nói về những giá trị làm nên “bản sắc’ và “cá tính” riêng của dân tộc cho đến nay hầu như trong đường hướng xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới dường như chúng ta vẫn mới dừng lại ở việc hô hào một cách rất chung chung thông qua những khẩu hiệu cổ động vốn chỉ để đọc cho nhau nghe trong những cuộc họp và giăng mắc đầy khắp các hàng cùng ngõ hẻm trên khắp nẻo đường đất nước. Tiêu biểu là khẩu hiệu mà bất kỳ người người Việt Nam nào cũng được ít nhất vài lần nghe hay được nhắc nhở buộc phải nghe, đó là: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Đây là khẩu hiệu rất hay nhưng rõ ràng là quá mơ hồ. Bởi thế nào là “nền văn hóa tiên tiến”, thế nào là “đậm đà bản sắc dân tộc”? “Tiên tiến” ở đây là gì, “bản sắc dân tộc” chỗ này là gì? Mỗi người dân trong cuộc sống cần suy nghĩ, hành động như thế nào thì đất nước mới thật sự có được “nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”? Có ai xác định và nói một cách thật cụ thể những điều này để ít nhất hình thành một “cẩm nang” đưa vào trường học như một pháp lệnh buộc ngành giáo dục phải rèn luyện cho các em học sinh qua từng cấp học chưa? Nhất là xem đó như là một “chiến lược” trong việc xây dựng và đào tạo con người phục vụ đất nước trong tương lai? Để các em trước khi nhận tấm vé thông hành là công dân chính thức của đất nước thì nhất định những giá trị văn hóa kia phải thấm vào xương tủy?
Hay chúng ta đã làm gì để mỗi người dân qua từng thế hệ đều thấu hiểu, tự hào với ý thức tôn trọng giữ gìn một cách tự giác nhất những giá trị truyền thống, những “tinh hoa” văn hóa làm nên “hồn cốt” của dân tộc ở từng “bộ môn” cụ thể một cách thật thuyết phục chứ không “vì lợi ích nhóm”, vì sự háo danh, sĩ diện hão... mà thêu dệt nên. Ví như: tinh hoa văn hóa của dân tộc trong văn chương nghệ thuật, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc... là gì, có những tác phẩm nào, văn nghệ sĩ nào là đáng tôn vinh nhất?; tinh hoa văn hóa trong lịch sử, quân sự, khoa học là ai, công trình gì, chiến công gì...?
Nhà thơ Chế Lan Viên vốn được xem là người làm thơ “giàu chất trí tuệ và triết lý” ấy mà lại viết ra câu thơ khái quát về dân tộc, theo tôi là chua xót và đau đớn quá:
“Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc.
Sắc tài sao mà lắm truân chuyên” (Đọc Kiều – Chế Lan Viên)
Khoan bàn đến chuyện “chiều sâu tư tưởng” của nhà thơ ở đây là gì nhưng trước hết, thi sĩ nỡ nào lấy cô Kiều (một cô gái bán hoa – mà có người không đồng cảm gọi là con đĩ) để so sánh với cả dân tộc như thế liệu có ổn không về mặt văn hóa? “Đời dân tộc”, “tinh hoa” dân tộc liệu có giống như “đời” của một cô nàng (cho dù có tài sắc đi nữa nhưng cũng thể phủ nhận sự thật trong cuộc đời mình cô đã “sống làm vợ khắp người ta”?). Chế Lan Viên vì quá yêu cô Kiều hay thầm xót xa cho dân tộc mà lại hạ bút thế này?
Một ví dụ cụ thể như trên để thấy, lâu nay chúng ta cứ nói, cứ hô hào về “tinh hoa”, về “bản sắc” văn hóa dân tộc nhưng nói thế nào cho thật sự thuyết phục, cho mọi người dân (nhất là những người trẻ) đều cảm thấy tự hào và xem đó như cứu cánh của tâm hồn họ thì gần như vẫn rất mơ hồ!
Thứ hai, trong khi vẫn chưa xác lập, vẫn chưa chỉ ra đâu là những giá trị văn hóa cốt lõi làm nên “cá tính” riêng của dân tộc để người dân noi theo nhưng chúng ta lại không thôi phát động các phong trào mang tính bề nổi. Không khó để nhận ra bất cập này qua việc khắp các hang cùn ngõ hẻm; từ thành thị đến nông thôn đâu đâu cũng thấy gắn những bảng hiệu: “cơ quan văn hóa”, “khu phố văn hóa”, “hẻm văn hóa”, “phường văn hóa”, “xã văn hóa”, “thôn văn hóa”, “làng văn hóa”, “gia đình văn hóa”... Thế nhưng nghịch lý ở chỗ là đâu đâu cũng thấy kêu gọi phấn đấu “xây dựng và giữ vững danh hiệu... văn hóa” ấy nhưng trên thực tế thì hoàn toàn ngược lại, tức là đâu đâu cũng đầy dẫy những biểu hiện của sự “suy đồi văn hóa”.
Tương tự vậy, trong khi người dân nhất là lớp trẻ vẫn đang mất phương hướng trong việc xác lập “chuẩn mực văn hóa” của dân tộc để làm hành trang ứng xử với cộng đồng thì “những người sản xuất và phê bình văn hóa” lại mạnh ai nấy bày tỏ tính “duy ngã độc tôn” về vấn đề này đến mức cực đoan. Người thì bảo thủ cho rằng tất cả những gì liên quan đến người Việt mình (hay của địa phương mình) cũng đều tốt đẹp hơn so thiên hạ; cái gì của mình cũng là “nhất”. Cho nên mới có những câu “văn mẫu” rất sáo rỗng, đại loại như: “dân tộc VN có truyền thống...”; “người dân VN có truyền thống...”, “người phụ nữ VN có truyền thống...”, “thanh niên VN có truyền thống...”; “người Hà Nội là thanh lịch nhất”; “Nghệ An là đất địa linh nhân kiệt”,“Nghệ Tĩnh là đất học”, “Cần Thơ là trung tâm văn hóa vùng Đồng bằng sông Cửu Long”.... Trong khi đó, những người theo xu hướng “cởi mở” hơn thì không ngận ngại phủ nhận và xổ toẹt những giá trị văn hóa cha ông.
 Có thể nói, hậu quả của những việc làm này vô tình đã gây ra những “phản ứng ngược” rất tai hại vì chỉ càng làm cho người dân nhất là các bạn trẻ càng thêm rối tung, rối mù hơn. Những người có cơ hội đi đây đi đó, trải nghiệm cuộc sống nhiều sẽ bất ngờ nhận ra tại sao người Việt mình tự nhận có nhiều “truyền thống tốt đẹp” thế kia nhưng sao trong quá trình xây dựng, đất nước vẫn cứ nghèo nàn lạc hậu; “văn hóa xuống cấp”; còn thiên hạ chẳng thấy họ hô hào có nhiều “truyền thống tốt đẹp” như mình nhưng sao đất nước họ lại giàu mạnh, người dân họ rất có văn hóa? Những người khác thì thấy, dân tộc mình cũng “không đến nỗi nào” nhưng sao có người lại phủ nhận và lên án gay gắt, quyết liệt? Vì thế, càng làm cho họ thêm hoang mang và mất phương hướng vì không biết “tin vào ai”, không biết “dựa vào đâu”, “chuẩn mực nào” để hành xử sao cho không bị xem là “lạc hậu”, “cổ hủ”, “trì trệ” đồng thời lại không bị “ném đá” là “lai căng”, “mất gốc”...
Những chuyện như thế này lâu dần sẽ gây sự hoài nghi và mất niềm tin trong dân chúng ngày một tăng lên. Một khi người ta không tin thì người ta sẽ không theo và chắc chắn sẽ chọn một cách hành xử khác (có thể tích cực nhưng cũng có thể là rất tiêu cực).
Thứ ba, nói đến trách nhiệm trong việc xác lập, ổn định và tuyên truyền những giá trị, những chuẩn mực của văn hóa dân tộc hiện nay không thể không nhắc đến vai trò của ngành giáo dục. Bởi giáo dục chứ không phải môi trường nào khác chính là nơi trực tiếp “sản xuất” và gieo những hạt mầm văn hóa đầu tiên góp phần hình thành nhân cách, bồi bổ tâm hồn cho con người. Thế nhưng đáng tiếc thay dường như bản thân ngành giáo dục hiện nay vẫn chưa thật sự ý thức hết tầm quan trọng của vấn đề này! Vai trò và trách nhiệm của ngành giáo dục hiện nay đang bị bóp méo, có thể nói đây là “sự tha hóa trong môi trường lẽ ra rất văn hóa”. Giáo dục gì mà chỉ chăm chăm hướng đến việc “dạy để có thành tích”, “học chỉ để thi” cộng với việc xã hội “xem trọng bằng cấp hơn năng lực” không những đã vô tình không ươm, không gieo được những hạt giống tâm hồn cao đẹp mà còn nhanh chóng làm cho nó bị thui chột, héo úa, cằn cỗi hơn. Cho nên, hậu quả là các bạn trẻ tuy chưa rời ghế nhà trường nhưng những suy nghĩ lệch lạc do nghèo nàn về văn hóa tâm hồn; sẵn sàng cư xử bạo lực với bạn mình ngay trong lớp học; sẵn sàng “chết” vì “thần tượng” nào đó xa lắc xa lơ bên xứ người; hay thậm chí bắt chước người lớn tạo scandal để được nổi tiếng...
Cuối cùng, trong thời đại bùng nổ công nghệ truyền thông hiện nay, nói đến trách nhiệm văn hóa đất nước cũng không thể không nhắc đến vai trò của hệ thống truyền thông báo chí, nước nhà. Báo chí vừa là sản phẩm văn hóa đồng thời cũng là phương tiện để tuyên truyền văn hóa thế nhưng thật đau lòng mà nói, nền báo chí của chúng ta hiện nay chẳng khác gì một cái chợ đầy rác rưởi rất bẩn thỉu. Người dân nhất là các bạn trẻ vốn đã không được trang bị những chuẩn mực văn hóa cần thiết giờ lại bị tiêm nhiễm những thứ rác rưởi ấy thì thử hỏi văn hóa không “loạn”, không “xuống cấp”, không “suy đồi” mới là chuyện lạ.  

4. Thay lời kết
Con người muốn được xem là “có văn hóa” nhất định phải trải qua một quá trình rèn luyện, bồi đắp lâu dài trong một môi trường văn hóa ổn định, lành mạnh. Để xảy ra sự “loạn chuẩn” hay “lệch lạc” văn hóa như hiện nay ngoài những nguyên nhân do lịch sử để lại thì phần nhiều là do cách “ứng xử” của chúng ta hiện nay (đặc biệt là hai thành phần “sản xuất” và “phê bình” văn hóa). Để kết thúc bài viết này xin mượn ý kiến của GS Trần Hữu Dũng như một lời chia sẻ và đồng cảm như sau: “Chúng ta thường trách nhà nước không nâng đỡ đúng mức, thậm chí đã kềm chế tiến bộ văn hoá, song nghĩ cho cùng, không một nhà nước nào có thể “sản xuất” văn hoá. Tất nhiên sự “can thiệp” mạnh tay của nhà nước vào văn hoá, mà lại không có một nâng đỡ nào đáng kể, là một điều đáng phàn nàn. Nhà cầm quyền, nhất là những người có trách nhiệm đối với sinh hoạt văn hoá, phải nhận trách nhiệm của mình đối với hậu thế. Chúng ta cũng thiếu những nhà văn hoá lớn. Song không ai trong chúng ta là vô can. Chúng ta quá dễ dãi với văn hoá hạ cấp, chúng ta quá thờ ơ, dửng dưng với văn hoá có chất lượng. Chúng ta không bảo tồn di sản văn hoá dân tộc. Và nói thẳng, đôi khi chúng ta, mỗi chúng ta, có những hành động thiếu văn hoá!”[3]
 Nguyễn Trọng Bình
Cần Thơ, 5/6/2012

 

[1] Xin mời đọc thêm loạt bài của các nhà văn, nhà báo, nhà văn hóa... bàn luận về vấn đề này trên báo điện tử Vietnamnet thời gian qua như: “Chỉ có Hà Nội mới có “văn hóa chửi”, “Tôi sợ mặt trái văn hóa hà Nội”, “Vì sao Hà Nội xấu xí như vậy?”; “Dân hà nội khinh tiền và người có tiền như thế nào?;“Văn hóa xuống cấp, Hà Nội như một cái chợ?”;“Hà Nội chưa bao giờ thanh lịch?”,“Thủ đô nghìn năm văn hiến và... “văn hóa bãi bia”... sẽ thấy rất rõ điều này. 
[2] Trần Hữu Dũng, 2012, Trách nhiệm văn hóa là trách nhiệm chung, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số Xuân
[3] Trần Hữu Dũng, như trên.
ST