Trang

4 tháng 11, 2014

Sân bay Nội Bài bẩn thỉu không thể tưởng tượng


Phó Chủ tịch Quốc hội:
(VTC News) – Bà Nguyễn Thị Kim Ngân nhận xét “hạ tầng sân bay Nội Bài mới không đến nỗi tệ nhưng khăn lau, chổi vứt lung tung, bẩn thỉu không thể tưởng tượng”.


Phát biểu đầu tiên trong phiên thảo luận tại tổ chiều nay (4/11) về chủ trương xây dựng Cảng hàng không Quốc tế Long Thành, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã có nhiều chia sẻ rất tâm huyết về ngành hàng không nói chung, dự án sân bay Long Thành nói riêng.

Đặc biệt, bày tỏ ý kiến trước việc 2 sân bay quốc tế của Việt Nam là Tân Sơn Nhất và Nội Bài lọt vào ‘top’ tệ nhất Châu Á, Phó Chủ tịch Nguyễn Thị Kim Ngân cho rằng đó là nỗi buồn của bất cứ người dân Việt Nam nào.

“Tôi nhớ lúc nhỏ, Tân Sơn Nhất là sân bay lớn nhất Đông Nam Á, hồi đó Thái Lan chưa có sân bay như bây giờ. Nhưng sau mấy chục năm thì giờ lại tệ nhất. Nhà ga xây mới đẹp nhưng đội ngũ phục vụ không tốt. Quan chức hàng không đi nước ngoài nhiều mà không được giáo dục, đào tạo lại.
Hành khách xếp hàng làm thủ tục ở sân bay Nội Bài. (Ảnh: Seatimes)

Nhiều khi xuống máy bay đi vào khu vệ sinh thấy thái độ người nước ngoài khi họ nhìn mình, tôi thấy rất là buồn.”, Phó Chủ tịch Quốc hội bày tỏ.

Theo Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân thì hạ tầng sân bay Nội Bài mới không đến nỗi tệ nhưng “khăn lau, chổi vứt lung tung, bẩn thỉu không thể tưởng tượng. Mà cán bộ hàng không lại không đi vào khu vệ sinh của hành khách nên có biết đâu. Tôi mấy lần đi máy bay góp ý vào sổ, nhưng không có ai sửa”.

Về chủ trương đầu tư xây dựng Cảng hàng không Quốc tế Long Thành, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho rằng, hiện nay các đại biểu còn băn khoăn rất nhiều về dự án này và sự băn khoăn đó là đúng. Lần này, trình ra Quốc hội để xin chủ trương, chưa phải đủ điều kiện để bấm nút thông qua.

  “Công trình này có chủ trương lâu rồi và chỉ là chủ trương để nghiên cứu. Lần này đưa ra Quốc hội cũng chỉ là để “xới lên” và cho chủ trương thôi’,  Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nói.

Tuy nhiên, bà Ngân cũng cho rằng đây thực sự là một dự án rất quan trọng, rất cần thiết: “Tôi thấy dự án này quá cần thiết. Quy mô của cảng hàng không như thế rất cần thiết cho sự phát triển trong tương lai trong điều kiện Tân Sơn Nhất quá tải”.

Theo phân tích của bà Nguyễn Thị Kim Ngân thì hiện nay, Tân Sơn Nhất có thể mở thêm đường băng, nhưng không thể giải tỏa dân để mở đường, độ an toàn trên không của Tân Sơn Nhất cũng không đảm bảo.

“Không có sân bay nào nằm lọt thỏm giữa thành phố hàng chục triệu dân. HĐND TP.HCM cũng ra Nghị quyết không mở rộng công suất của sân bay Tân Sơn Nhất. Có nghĩa, đến một lúc nào đó Tân Sơn Nhất sẽ quá tải. Do đó, việc xây dựng sân bay Long Thành là cần thiết và hợp lý”, bà Ngân phân tích.

Trước nỗi lo về tình hình nợ công như hiện nay thì vốn xây dựng sân bay lấy ở đâu ra? Phó Chủ tịch Nguyễn Thị Kim Ngân cho rằng đến giai đoạn 2020-2030 mới khai thác dần dần chứ không phải thực hiện ngay nên có thể tính toán được.

Mặc dù đồng tình về chủ trương, song Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cũng khẳng định, Quốc hội rất cần nghị quyết để minh bạch hiệu quả đầu tư, chi phí đầu tư sân bay, khái toán là cao so với các sân bay khu vực.

“Bộ Giao thông Vận tải chưa đưa ra con số cụ thể để nói cao hay thấp. Nếu không tính toán để Quốc hội so sánh, xem suất đầu tư chia cho hành khách là bao nhiêu tiền đầu tư/m2 thì không khéo lại thành sân bay đắt nhất hành tinh giống như con đường đắt nhất hành tinh”, Phó Chủ tịch Quốc hội lưu ý.

Ngoài ra, theo Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân thì việc sân bay Long Thành có cạnh tranh với các sân bay khác trong khu vực không cũng là vấn đề phải đặt ra.

“Khả năng cạnh tranh gay gắt chứ không đơn giản. Và chúng ta không nhất thiết đặt ra vấn đề cạnh tranh với khu vực mà đáp ứng yêu cầu phát triển trong nước”, bà Ngân lưu ý.

Đồng thời, Phó Chủ tịch Quốc hội cũng cho rằng khi mở ra sân bay này phải đặt trong điều kiện phát triển hệ thống đường bộ, cao tốc… đồng bộ và nếu có thể cải tạo, nâng cấp đường sắt Bắc - Nam thì cũng phải tính đến sự phát triển của các phương tiện khác nữa để có bài toán đầu tư từng giai đoạn.

“Cá nhân tôi vẫn ủng hộ chủ trương làm Long Thành, không thể không làm được trong điều kiện của Tân Sơn Nhất sắp quá tải’, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhấn mạnh.


Hoàng Lan

3 tháng 11, 2014

Nhập từ cái tăm..., có lợi ích nhóm không?

(Tin tức thời sự) - Không thể đổi mới kinh tế và tạo bước đột phá... nếu nhiều quan điểm còn đang “ngập ngừng”, trái chiều nhau- ông Trương Trọng Nghĩa.

PV:- Vấn đề giảm bớt sự phụ thuộc vào một thị trường, cụ thể là Trung Quốc đã được thống nhất từ ý chí của Quốc hội tới quyết tâm điều hành của Chính phủ. Tuy nhiên, trong suốt 10 tháng qua, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất với kim ngạch đạt 35,6 tỷ USD, tăng 17,1% so với cùng kỳ năm 2013, nhập siêu từ Trung Quốc ước tính đạt 23,1 tỷ USD, tăng 17,6%. Xuất khẩu gạo, nông sản và tài nguyên thô vẫn chủ yếu sang Trung Quốc. 
Thưa ông, các số liệu trên đã nói lên điều gì? Theo quan điểm của ông, vướng mắc lớn nhất trong việc thoát khỏi phụ thuộc thị trường TQ là gì? 
ĐBQH Trương Trọng Nghĩa: - Điều đầu tiên là phân tích cơ cấu xuất nhập khẩu và có đối sách cho từng mặt hàng hay ngành hàng. Cụ thể, cần xem xét và có đáp án câu trả lời cho những vấn đề sau đây: 
- Đối với thiết bị, linh kiện và nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng của VN: Cần tiếp tục nhập khẩu những gì có lợi cho nền kinh tế VN. Vấn đề là không nên chỉ dựa vào giá rẻ hay do bị mua chuộc mà hạ thấp tiêu chuẩn, hoặc cứ nhập mặc dù trong nước cũng có thể làm được, hoặc giảm chi phí do thông đồng trốn thuế hay buôn lậu.
Rau quả, nông sản cũng phải nhập khẩu từ Trung Quốc
Rau quả, nông sản cũng phải nhập khẩu từ Trung Quốc
Mặt khác, về lâu dài, bộ ngành liên quan của ta phải nghiên cứu và có chính sách để từng bước sản xuất những hàng hóa ấy để giảm bớt nhập khẩu. Thay thế nhập khẩu hợp lý cũng là một trong những chủ trương cần thiết để xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Vì sao 15 năm qua, VN vẫn phải nhập 80 - 90% sợi, vải, da, phụ liệu khác cho ngành dệt may, da giày xuất khẩu, mà không thể kéo xuống 40-50% hay thấp hơn như Trung Quốc và các nước khác đã làm? Trả lời câu hỏi này thuộc trách nhiệm của nhà nước, nhưng cũng là của các hiệp hội có liên quan. Có tiêu cực hay lợi ích nhóm gì ở đây không?
- Đối với nhập khẩu hàng tiêu dùng: nhập khẩu hàng tiêu dùng mà mình làm được sẽ dẫn đến hậu quả là giúp nước khác cạnh tranh với nước mình trên sân nhà, thậm chí giết chết sản xuất nội địa. Việt Nam đã làm được phích nước từ 40-50 năm trước, vì sao cứ phải nhập phích nước Trung Quốc? Còn nhiều điều tương tự như vậy, thậm chí nhập cả tăm xỉa răng.
Theo quy luật, một nước từ bỏ sản xuất nội địa và thay bằng nhập khẩu vì họ tập trung vào những mặt hàng, ngành hàng có giá trị gia tăng cao hơn và lợi thế so sánh lớn hơn. Ví dụ, họ giảm bớt sản xuất gạo, tập trung sản xuất hàng điện tử để xuất khẩu, từ đó có dư ngoại tệ để có thể nhập khẩu nhiều gạo hơn và cao cấp hơn cho dân họ tiêu dùng. Ta thì nhập khẩu những thứ ta làm tốt hơn Trung Quốc như thực phẩm, rau quả v.v…!
Ngoài ra, phải chấn chỉnh hiện trạng và cơ chế kinh doanh biên mậu, hay xuất nhập tiểu ngạch vì tình hình vừa qua là lợi bất cập hại.
- Xuất khẩu sang TQ: nói chung, phần lớn hàng chế biến của Việt Nam không thể cạnh tranh với hàng cùng loại Trung Quốc về giá cả nên không thể cạnh tranh. Chi phí đầu vào của hàng chế biến Việt Nam quá cao, trong đó có chi phí trung gian quá lớn, một phần do tham nhũng, tiêu cực. Để cạnh tranh được, Việt Nam phải có chính sánh hỗ trợ khôn ngoan, trung hạn và dài hạn, nhưng phải hợp lệ. Điều này, ta chưa làm được và trách nhiệm chủ yếu thuộc nhà nước, nhưng cũng có trách nhiệm của cả doanh nghiệp. 
Tóm lại, yếu kém của sản xuất trong nước, mà một phần trách nhiệm không nhỏ là thuộc về quản lý nhà nước vĩ mô, là nguyên nhân và cũng là khâu chủ yếu cần tháo gỡ. Tất nhiên, nếu doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các hiệp hội, không phát huy tinh thần yêu nước, lợi ích cộng đồng, tầm nhìn dài hạn, và chung tay với Chính phủ thì cũng không thể thành công. 
PV:- Xét riêng khía cạnh công nghiệp, dù đã nếm đủ trái đắng từ công nghệ lạc hậu Trung Quốc, việc nhập khẩu thiết bị, công nghệ Trung Quốc vẫn không giảm bớt: lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu từ Trung Quốc về Việt Nam  trong 9 tháng năm 2014 đã tăng gần 200% so với cùng kỳ, chủ yếu là xe hổ vồ-nguyên nhân làm hỏng đường mà Bộ GTVT đang cố gắng xử lý xe quá tải; xi măng lò đứng bị xóa sổ, xi măng lò quay nhập về nhiều hơn và chủ yếu từ Trung Quốc, công nghệ dệt may, thép...  
Đã có ý kiến lo lắng, Việt Nam đang bước vào giai đoạn nhập công nghệ "rác" thứ hai từ Trung Quốc, trong bối cảnh Trung Quốc cũng đang loại công nghệ lạc hậu, thoát bẫy thu nhập trung bình. Ông có nhận xét gì về sự lo lắng này không và vì sao?
ĐBQH Trương Trọng Nghĩa: - Trở thành bãi rác công nghệ là điều đau lòng. Trở thành bãi rác cho những sản phẩm làm ra từ công nghệ rác lại càng đau lòng hơn. Đối với những nước như Việt Nam, tình hình này khó tránh. Có hai điều phải làm:
Thứ nhất là phải có quy định pháp lý hợp lý và hợp lệ. Hợp lý là sát hợp và thuận lợi cho thực tiễn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không buông lỏng, cũng không cực đoan. Hợp lệ là không được vi phạm các cam kết quốc tế. Do đó, phải rất khéo léo và biết học tập kinh nghiệm các nước trong việc này.
Thứ hai là tổ chức thực hiện tốt các quy định ấy. Cần nhất là tránh nhũng nhiễu, tiêu cực, ăn tiền của bên này hay bên kia rồi cho qua. 
PV:- Cũng ý kiến trên cho rằng, Việt Nam dù đặt quyết tâm vẫn khó thoát khỏi việc nhập công nghệ lạc hậu bởi lẽ: về giá bán, Trung Quốc sẵn sàng bán giá siêu rẻ; về yêu cầu kỹ thuật để vận hành, công nghệ Trung Quốc rất dễ tính, phù hợp với trình độ nhân lực thấp như VN. Nếu đồng tình với quan điểm trên, liệu có thể hiểu, việc "thoát Trung" phải dựa vào nội lực của bản thân nền kinh tế mà điều này đang thiếu ở Việt Nam? 
ĐBQH Trương Trọng Nghĩa: - Tôi không thích khẩu hiệu “thoát Trung”vì dễ gây hiểu lầm là kỳ thị doanh nghiệp và hàng hóa Trung Quốc. Chúng ta chỉ muốn hội nhập tốt để xây dựng nền kinh tế Việt tự chủ, phát triển cao và bền vững.
Như tôi đã nhấn mạnh, là láng giềng của một nền kinh tế mạnh như TQ đem lại nhiều cơ hội, và VN cũng có thế mạnh của mình. Hãy làm cho kinh tế TQ cũng cần VN, nhưng hai bên cần nhau một cách lành mạnh, cùng có lợi. Giao thương với TQ có thể giúp VN phát triển nhanh hơn, mạnh hơn, với điều kiện phải có chính sách đúng, khôn ngoan và sự thống nhất hành động của cả Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp, nhất là không vì lợi ích cá nhân hay cục bộ, “ăn xổi, ở thì”, chụp giật, thậm chí phá nhau. 
PV:- Nhìn tổng thể nền kinh tế, động lực của nền kinh tế là doanh nghiệp vừa và nhỏ đang chết hàng loạt, các DNNN làm ăn thua lỗ liên miên, nông nghiệp là người khổng lồ chân đất sét, chúng ta phải đặt vấn đề việc giảm phụ thuộc thị trường Trung Quốc như thế nào là phù hợp, để quyết tâm đi liền với hành động? Cùng với đó, nền kinh tế Việt Nam cần phải thay đổi điều gì đầu tiên để có thể bắt đầu nghĩ tới việc đứng vững trên đôi chân của mình?
ĐBQH Trương Trọng Nghĩa: - Điều đầu tiên là phải tâp trung chuyển đổi mô hình và phương thức tăng trưởng, khởi đầu bằng việc định hình một chiến lược tái cơ cấu toàn diện, tất nhiên, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, cách thức.
Nói nôm na, phải xác định lại cả hướng đi, thiết kế lại đường ray, đại tu cả đoàn tàu và xây dựng lại lộ trình mới. Ví dụ: tại sao không thể xác định nông nghiệp công nghệ cao, sinh học công nghệ cao, công nghệ thông tin và dịch vụ (dựa vào kinh tế biển và du lịch) là hướng phát triển để có một nước VN giàu mạnh? Đó là chưa kể, không thể đổi mới kinh tế và tạo bước đột phá nếu thiếu những chuyển biến đồng bộ về chính trị, về văn hóa, xã hội, mà hiện nay nhiều quan điểm còn đang “ngập ngừng”, thậm chí trái chiều nhau. 
Tóm lại để đưa nền kinh tế VN vượt lên giai đoạn phát triển mới về chất, cần phải có sự tổng hợp lực của nhiều yếu tố, nhiều lực lượng, mà trước hết là nhân tố lãnh đạo chính trị, đội ngũ doanh nhân, giới khoa học, giáo dục và văn hóa, và các tầng lớp xã hội khác. Nghĩa là yếu tố con người.
Trong đó, nổi lên vai trò dẫn dắt của các nhà lãnh đạo, tức là những người lái tàu. Nếu có được cơ chế chọn lọc được và trọng dụng người tốt và giỏi, có khả năng xử lý thích đáng người sai phạm, thay thế kịp thời người kém cỏi, qua đó hình thành được văn hóa lãnh đạo trọng danh dự, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, đồng thời có chính sách đãi ngộ hợp lý với họ thì VN sẽ thành công. Thành bại phụ thuộc vào điều này. Đó cũng là điều mà nhân dân đang đòi hỏi và kỳ vọng.
PV:- Xin cảm ơn ông!
  • Vũ Lan

Đảo chìm ở Trường Sa thành đảo nổi trong tay TQ thế nào

Quần đảo Trường Sa (thuộc chủ quyền của VN) ở giữa Biển Đông có nhiều hòn đảo chìm hoặc chỉ vừa chạm mặt nước biển. Nhưng TQ đang dần biến chúng thành những nơi có thể cư trú.

TQ, Biển Đông, VN, chủ quyền, Trường Sa
Ảnh: Gizmodo
TQ thậm chí còn lập ra các kế hoạch biến các đảo chìm, bán chìm thành những nhà máy xử lý nước, năng lượng nổi trên mặt nước.
Biển Đông là một trong những khu vực tranh chấp căng thẳng nhất trên thế giới. Bất chấp một số nước Đông Nam Á như Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei có chủ quyền ở Biển Đông, Bắc Kinh vẫn ra yêu sách bao trùm hầu hết vùng biển, kèm theo đó là hàng loạt hành động nhằm thay đổi hiện trạng, biến Biển Đông thành "ao nhà", độc chiếm những tuyến đường hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới cũng như trữ lượng dầu khí giàu có.
TQ có một vấn đề, đó là các đảo mà họ lấn chiếm không thực sự có con người sinh sống lâu dài. Đó có khi là các vỉa đá ngầm, bãi cạn, đảo san hô. Tuy nhiên, điều này không cản trở tham vọng của TQ. Họ tìm ra nhiều cách cải tạo, biến chúng thành các hòn đảo mới hoàn toàn, và xây dựng căn cứ quân sự ngay trên đó.
Song để duy trì một căn cứ, TQ cần có có cách biến các đảo hoang sơ cằn cỗi thành nơi có thể cư trú lâu dài. Và kế hoạch cảng nổi bắt đầu được thực thi. Đưa tin về triển lãm Shiptec China 2014, tuần báo quốc phòng IHS Jane mô tả chi tiết như sau:
"Hiện có hai biến thể đang được xây dựng. Cảng nổi với nền tảng đa năng có thể  hỗ trợ làm chỗ cập bến cho tàu 1.000 tấn, các cơ sở bảo dưỡng và sửa chữa tàu cá, trạm điện, kho trữ nước sạch, khử muối nước biển, trữ nước mưa, kho chứa các trang thiết bị và hậu cần.
Biến thể thứ hai dựa vào tàu bán chìm, có thể tự di chuyển ở khoảng cách gần. Biến thể này có thể được sử dụng cho xây dựng hạng nhẹ, duy trì bảo dưỡng một hòn đảo như nâng cao các bãi cát hay loại bỏ rặng san hô, vỉa đá ngầm. Biến thể này còn có thể là nơi ở tạm thời cho công nhân xây dựng, xử lý nước thải. Cầu nối của nó đủ chịu đựng sức nặng của xe tải 10 tấn".
Với các cảng nổi, đảo nổi kiểu này, TQ có khả năng biến đổi các đảo nhỏ một cách nhanh chóng, để từ đó bọc lót mạnh mẽ hơn cho yêu sách chủ quyền ở vùng biển tranh chấp. 
Thái An(theo Gizmodo)

Ai sẽ là người tiếp sau đại gia Thắm?

  • 3 tháng 10 một 2014
ông Hà Văn Thắm
Tin ông Hà Văn Thắm bị bắt làm xôn xao dư luận Việt Nam gần đây.
Màn bắt ông Hà Văn Thắm, tiếp sau các đại gia khác bị bắt như ông Nguyễn Đức Kiên, (tức bầu Kiên), chỉ là những màn khởi đầu cho một cuộc đấu tranh giành quyền lực ngày một 'khốc liệt hơn' giữa các phe phái trong nội bộ cầm quyền ở Việt Nam, theo một nhà quan sát từ Sài Gòn.
Màn bắt ông Thắm, nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Đại dương (Ocean Bank) và người nắm trong tay bốn cơ sở kinh doanh kinh tế - tài chính quy mô lớn trong nước, báo hiệu nhiều diễn biến 'thú vị' nữa để công chúng quan sát, có thể là biểu hiện của một chiến dịch 'thay máu' đại gia, theo Tiến sỹ Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội nhà báo Độc lập Việt Nam.
Trước hết, về câu hỏi ai có thể sẽ theo chân ông Hà Văn Thắm vướng 'vào vòng lao lý' nếu có một chiến dịch như vậy, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng hôm 02/11/2014 nói với BBC:
"Tôi nghĩ đây thực sự là một cuộc đấu, bởi vì vòng xoay chính trị và các nhóm lợi ích của Việt Nam vào thời điểm này, nó phải đi đến một điểm nút và giải quyết khúc mắc vào năm này và năm tới.
"Thời gian không còn nhiều cho bất kỳ ai. Họ phải giải quyết dứt khoát và giải quyết trên quan điểm là thắng và thua, chứ không có sự dung hòa."
Tuần trước, hôm 25/10, PGS. Phạm Quý Thọ từ Bộ Kế hoạch & Đầu tư lại đưa ra nhận định khác nhân được hỏi về thời điểm ông Hà Văn Thắm bị bắt, vốn trùng với phiên họp của Quốc hội Việt Nam đang diễn ra.
Ông nói: "Thời điểm này đang có rất nhiều đồn đoán rằng đằng sau các đại gia này có thể là có một số thế lực nào đó, hay một nhóm lợi ích nào đó, và người ta thấy cần thiết quyết định vào lúc này."

'Xôn xao'

Theo nhà quan sát này, việc bắt ông Thắm chỉ là những việc mà lẽ ra chính quyền đã cần làm từ trước và mặc dù dư luận đã được trấn an, vụ bắt đại gia này đã gây xôn xao và có tác động tới hệ thống ngân hàng, tài chính ở Việt Nam.
Ông Thọ nói: "Trong khi Việt Nam chưa xử đến cuối cùng đại gia Kiên (tức ông Nguyễn Đức Kiên), thì bây giờ lại xuất hiện ông Hà Văn Thắm, Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Ngân hàng Đại Dương, Chủ tịch của bốn đơn vị tài chính, các công ty tài chính, ngân hàng.
"Điều đó đã gây xôn xao dư luận trong giới làm ăn, đặc biệt là hệ thống tài chính ngân hàng."
"Tuy có những trấn an rằng không có ảnh hưởng gì đến những hoạt động của Ngân hàng Đại Dương, nhưng người ta nhận định rằng đây cũng là một việc cực chẳng đã, vì việc này đã được Ngân hàng Nhà nước trước đó thanh tra."
Thứ Bảy tuần trước, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), khi đánh giá thực chất của vụ bắt giữ, thì cho rằng nhà nước đang 'nghiêm khắc hơn' trong đối xử với các đại gia.
Ông Doanh nói: "Trong việc ông Hà Văn Thắm bị bắt, có thể coi đây là một trong các ví dụ nhà nước bắt đầu có thái độ nghiêm khắc hơn trong đối xử với các đại gia.
"Và ông Hà Văn Thắm bị bắt, trong giới chuyên môn đã có những phỏng đoán từ khá lâu rồi."
"Việc ông Thắm bị bắt, đối với giới chuyên môn, không có gì đột ngột, bởi vì ông Thắm đã tay không bắt giặc, đã giàu lên rất nhanh, từ một người không có tích lũy gì, không có vốn gì lớn mà đã phát triển lên rất nhanh, qua rất nhiều ngành và cũng có nhiều dự án tham vọng."

'Liên lụy?'

Vụ bắt đại gia Thắm
Công an có thể đang xét lại các quan hệ làm ăn của ông Thắm, theo nhà quan sát.
Gần đây, có quan chức chính quyền nói với báo giới ở Việt Nam bên lề phiên họp quốc hội đang diễn ra, cho rằng ông Thắm đã bị bắt mặc dù ông đã được cho thời gian để khắc phục 'sai phạm'.
Bình luận về điều này, luật sư Trần Đình Triển từng tham gia bào chữa, trong nhiều vụ án mà thân chủ là một số quan chức cao cấp vướng vào vòng lao lý, phản biện và nói rằng tính chất 'sai phạm' của ông Thắm là "không thể khắc phục" được.
Phó chủ nhiệm đoàn luật sư Hà Nội, nói với BBC hôm 30/10:
"Trong quá trình giải quyết các sai phạm, không chỉ riêng trong trường hợp ông Thắm, mà còn nhiều trường hợp khác, nhà nước Việt Nam dùng đòn bẩy kinh tế để giải quyết các sai phạm đó.
"Các doanh nghiệp và cá nhân được cho cơ hội khắc phục hậu quả và chấn chỉnh lại thì sẽ được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên đối với ông Hà Văn Thắm thì việc cho khắc phục và khả năng khắc phục được là không thể có.
"Theo quy định của pháp luật chưa có văn bản nào quy định là đối với các doanh nghiệp và cá nhân gây hậu quả nên cho thời gian bao nhiêu để khắc phục. Tuy nhiên trong thực tiễn thì cũng đã có nhiều doanh nghiệp được cho phép như vậy và đã khắc phục được.
"Nhưng có những trường hợp không khắc phục được mà còn gây thêm hậu quả, hoặc việc khắc phục không lấy kinh tế làm trọng mà có thủ đoạn gian dối, cố ý làm trái, vi phạm pháp luật thì việc khắc phục chỉ là tình tiết giảm nhẹ thôi".
Về khả năng những ai có thể sẽ bị ảnh hưởng sau vụ bắt này, PGS Phạm Quý Thọ cho rằng, mặc dù ông Thắm đang bị tạm giam, có thể 'không loại trừ' việc những ai có quan hệ làm ăn trong các phi vụ 'có vấn đề' ông Thắm sẽ bị cơ quan điều tra xem xét.
Ông Thọ nói: "Người ta nghi ngờ rằng thí dụ nếu ông này cho vay, ông Hà Văn Thắm cho ai vay mà trái pháp luật thì những người vay chắc chắn cũng có vấn đề. Thế như vậy nó sẽ ảnh hưởng đến một loạt quan hệ làm ăn với ông Hà Văn Thắm hiện nay."

'Thay máu?'

Bình luận về thực chất vụ bắt đại gia Thắm, hôm 02/11, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng nêu quan điểm:
"Ở Việt Nam bây giờ có vấn đề là quan hệ giữa các nhóm lợi ích và kéo theo là quan hệ giữa các nhóm chính khách với nhau, tôi cho là đã đến điểm mà không chỉ dung hòa được mà chỉ có bên thắng, hoặc bên thua.
"Và nếu như một chính khách mất, đổ, thì khi đó sẽ kéo theo sự sụp đổ của một nhóm lợi ích bảo vệ cho chính khách đó. Và như vậy, đó là điều mà các nhóm lợi ích không bao giờ mong muốn và họ phải luôn luôn làm sao giữ cho sự tồn tại."
Đi xa hơn, nhà quan sát từ Sài Gòn cho rằng dường như đang có sự 'thay máu' đối với các 'đại gia' từ những người, những nhóm nào đó được cho là đang vận hành một 'thể chế' ít nhiều có tính chất 'mafia nhà nước' ở Việt Nam hiện nay.
Ông Dũng nói:
"Về phía quan chức lãnh đạo rất cao cấp ở Việt Nam, một nhóm nào đó đang tính toán tới việc cần phải loại trừ đi những tập đoàn mafia cũ.
"Vì những tập đoàn này đã bóc lột người dân nhiều quá rồi và làm cho uy tín cũng như chân gốc của Đảng rệu rã quá, và cần phải thanh loại nó đi.
"Và cách khác mạnh hơn nữa là cần phải thay máu nó giống như điều mà Tập Cận Bình đang làm ở Trung Quốc," Tiến sỹ Dũng nói với BBC

31 tháng 10, 2014

Lương cán bộ và 'dư luận viên' chưa xứng?

Đỗ Trọng

  • 30 tháng 10 2014
Họp Quốc hội Việt Nam
Đại biểu Quốc hội bàn về việc tăng mức lương tối thiểu tại VN.
Vài ngày trước, nhiều Đại biểu Quốc hội cho rằng mức lương tối thiểu của cán bộ không thể 3 triệu/tháng như bây giờ mà mới ra trường phải 10 triệu/tháng trở lên mới đủ sống. Mới nghe qua thì ai cũng hào hứng, nhưng thực tế có rất nhiều câu hỏi được đặt ra như tăng làm gì, tăng với mức nào là hợp lý và tăng bằng cách nào bây giờ?

10 triệu là cao hay thấp?

10 triệu là mức lương phải đóng thuế, đó là nấc thang đầu tiên mà một người Việt Nam bình thường nghĩ tới khi nhắc đến khoản thu nhập cao hàng tháng. Ngay tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội - 2 thành phố lớn nhất nước, cũng không nhiều người có được 10 triệu 1 tháng. Phần lớn thu nhập của người lao động kể cả các doanh nghiệp nước ngoài vẫn chỉ là 5-6 triệu.
Như vậy ta thấy rằng, 10 triệu là mức lương đáng mơ ước và có thể đem khoe của phần lớn người dân Việt Nam, nó không phải thu nhập đại trà. Tăng lương là tốt nhưng lấy mức lương đáng tự hào và là mục tiêu phấn đấu của nhiều người để làm mức thu nhập đại trà liệu có ổn?
Có đại biểu cho rằng tăng lương để chống tham nhũng. Nhưng hỡi ôi, nếu người ta đã giàu mà không tham nhũng nữa thì người Việt Nam sẽ hết sạch các quan tham chỉ sau một ngày.
Mức hối lộ cho quan càng to thì số tiền phải càng lớn, quan chức càng giàu thì càng nguy hiểm cho dân chúng hơn, họ sẽ không thỏa mãn với số tiền đáng lẽ trước đây có thể “chấp nhận” được.
Tăng để thu hút nhân tài? Nói vậy có nghĩa là Doanh nghiệp Nhà nước không hấp dẫn. Vậy tại sao người ta vẫn xếp hàng dài để thi công chức – một kỳ thi vô cùng tốn kém như một vị đại biểu cũng thừa nhận nhiều người vẫn “chạy” hàng trăm triệu vào công chức để rồi lãnh lương khởi điểm chỉ 3 triệu/tháng.
Kỳ thi công chức này cũng mang một màu sắc vô cùng bí hiểm khi mà người thi không thể nào biết trước mình có đậu hay không dù giỏi đến mức nào, kể cả khi đã “đi tiền” cũng chưa chắc vì biết đâu còn có người đóng nhiều tiền, quen biết nhiều hơn mình. Kỳ thi công chức vốn đã “hấp dẫn”, nếu tăng lương lên 10 triệu có lẽ nó sẽ còn nóng bỏng hơn nữa.
Chúng ta sẽ đi tiếp đến vấn đề sau để rõ nhà nước có thật sự cần người tài hay không.

Tăng bằng cách giảm biên chế?

Đồng Việt Nam
10 triệu là mức lương mơ ước của phần lớn người dân Việt Nam.
Giảm ai bây giờ khi Bộ Nội vụ từng triển khai việc tự đánh giá cán bộ nhưng làm xong thì không có đơn vị nào xin giảm mà đều xin tăng! Người ta đã quen với việc chỉ đưa ra nhiệm vụ, kế hoạch, phương hướng… mà chẳng bao giờ nêu ai sẽ chịu trách nhiệm nếu không đạt chỉ tiêu và quan trọng hơn là chịu trách nhiệm như thế nào.
Các “hình phạt” rốt cuộc cũng chỉ là “nghiêm túc nhận khuyết điểm” rồi sẽ “cố gắng”, “phấn đấu”… Cuối cùng thì ai cũng hay cũng cần thiết cả.
Cấp dưới có khuyết điểm cũng có lợi cho sếp, vì có lỗi người ta mới cần phải “nịnh” sếp. Cấp trên nữa của sếp cũng không buồn vì đơn vị cấp dưới có điều không tốt mới phải hay lên trên “thăm hỏi”.
Đó là một chuỗi liên quan đến nhau chặt chẽ, ai cũng có lợi, rốt cuộc chỉ có nhà nước chịu. Nhà nước ở đây là ai, đương nhiên không phải các quan chức nhà nước cao nhất rồi, vì họ là đỉnh của chuỗi liên kết trên.
Nhà nước chính là nhân dân, tiền đóng thuế của nhân dân. Mình làm nhưng người khác phải chịu, vậy tại sao phải loại nhau ra trong cái chuỗi lợi ích đó.
Có nhân viên một doanh nghiệp Nhà nước vô tư nói với người đến làm việc: “Các anh đừng lo bị lừa vì ở đây chúng tôi chỉ làm để lấy thành tích chứ không cần lãi.”
Khi mà doanh nghiệp nhà nước không nhất thiết phải có lãi, nếu kiếm được tiền có nhất thiết phải nộp vào ngân sách không? Chắc chắn là không rồi, đầu tiên đó sẽ là khoản tiền giám đốc bù vào số vốn đã mất để được ngồi vào vị trí, rồi sau khi “hòa vốn” mới bắt đầu “có lãi”.
Chỉ khi nào có cơ chế tự đào thải như doanh nghiệp tư nhân thì mới có thể loại bỏ được những vị trí không cần thiết.
Doanh nghiệp tư nhân khi làm ăn không có lãi đương nhiên không có tiền hoạt động, tự họ phải cắt giảm nhân sự, tái cơ cấu để duy trì hoạt động, ai là nhân sự không cần thiết thì các nhà quản lý là những người nắm rõ nhất.
Cuối cùng, nếu tinh giản bộ máy thật sự thì lấy đâu ra chỗ cho những Lê Trương Hải Hiếu, Nguyễn Xuân Anh, Nguyễn Thanh Nghị, … vào các vị trí lãnh đạo? Nếu làm “quyết liệt”, những người vào cơ quan nhà nước bằng năng lực thực sự sẽ bật bãi đầu tiên nếu không có “ô dù”.
Các đại biểu Quốc hội nói “phải” giảm, nhưng từ “phải” đến làm thực sự thì còn xa lắm. Các đại biểu có thể lập ra trước một danh sách chỉ đích danh những vị trí cần giảm không?
Nếu chỉ “quyết tâm” không thôi thì không được đâu, vì các cơ quan đoàn thể còn “quyết tâm” gấp vạn lần các đại biểu mà chưa có kết quả.

Tăng bằng cách chống lãng phí?

Vinashin
Tập đoàn Vinashin Vinashin do nhà nước quản lý đã thất thoát hàng nghìn tỷ đồng
Nghe thì đơn giản nhưng thực chất chống lãng phí chính là chống tham nhũng. Giảm các công trình, dự án thất thoát ư? Chủ dự án chẳng bao giờ có thể bòn rút một mình. Chiếm một khoản lớn trong món bòn rút đó là tiền “vi thiềng” quan trên mới được cấp phép và an toàn về sau.
Việt Nam muốn chống được tham nhũng thì phải chống cả những quan chức cao cấp nhất. Ai dám làm điều này?
Có thể kết luận, chống tham nhũng và tinh giản bộ máy là việc hiện thời không thể làm được. Thế thì kiếm đâu ra 40.000 tỷ để tăng lương. Và rồi tăng lương lên cao cho rất nhiều người không cần lương cao có phải thêm một lần lãng phí?
Những người cần mức lương tương xứng hãy đến doanh nghiệp tư nhân để được chứng tỏ năng lực thực sự của mình.
Từ trước tới nay đều như vậy cả, “nhà nước” chỉ là nơi cho những người không thực sự giỏi hoặc có tư tưởng an phận, hay đơn giản là gia đình có điều kiện nên chỉ cần công việc ổn định (người có tâm huyết cũng còn nhưng không nhiều).
Việc bỏ 300 triệu để đổi lấy công việc 3 triệu/tháng đã nói lên điều đó.
Ở các doanh nghiệp tư nhân, những vị trí quan trọng đều có mức lương từ 10 triệu trở lên, nhưng đó là tiền mà chính họ kiếm được. Tại đây, lương sẽ tăng tùy theo tình hình tài chính của công ty, không có doanh nghiệp nào làm ăn lỗ mà lại tăng lương cả.
Với tình hình kinh tế đất nước hiện nay, tăng lương quá cao như vậy liệu có thực tế?
Đóng góp thật sự ở “tư nhân” cũng chính là cách đóng góp vào sự phát triển của đất nước một cách thiết thực nhất.
Nhưng tất nhiên ai có dũng khí “ra ngoài làm” phải chấp nhận sức ép lớn hơn nhiều vì ở những nơi này hiệu quả làm việc quan trọng hơn là “Đảng phân công” và “không thoái thác nhiệm vụ được giao”.
Và cũng tất nhiên, kết quả kém thì mất việc là hoàn toàn thực tế chứ không đơn thuần là “nghiêm khắc kiểm điểm” hay “nghiêm túc nhận khuyết điểm”.
Tăng lương tức là phải tăng cho cả các dư luận viên, đừng để ngân sách nhà nước phải gánh thêm một khoản khổng lồ để nuôi những vị trí như vậy – những người được Đảng phân công để làm công việc được nhà nước cho rằng cần thiết.
Cần thiết vì lý do gì, chỉ người có chức có quyền mới hiểu. Thế nên đừng hy vọng bộ máy nhà nước sẽ thu hẹp lại trong ngày một ngày hai.
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm của tác giả.

Tổng lực đối đầu Mỹ, Trung Quốc tự bắn vào chân?

(Tin tức 24h) - Bôi xấu, dọa nạt và bằng mọi cách đẩy Mỹ khỏi châu Á nhưng Trung Quốc lại đang tự biến mình thành kẻ đáng ghét hơn trong khu vực.

Trong bài viết “Trung Quốc trông chờ vào chiến tranh phi truyền thống để giành địa vị thống trị toàn cầu” đăng trên chuyên trang phân tích World Review, tác giả người Đức Vaughan Winterbottom đã chỉ ra chiến thuật của Trung Quốc trong cuộc chiến với Mỹ hiện nay. Tác giả này cũng chỉ ra rằng những “chiêu thức” mà Trung Quốc đang thi triển đang phản lại chính họ.
Hỉnh ảnh sử dụng trong bài viết của Winterbottom với chú thích: Trung Quốc đang tiến hành chiến tranh truyền thông để tạo sự ủng hộ của công chúng.
Hỉnh ảnh sử dụng trong bài viết của Winterbottom với chú thích: Trung Quốc đang tiến hành chiến tranh truyền thông để tạo sự ủng hộ của công chúng.
Mở đầu bài viết, Winterbottom phân tích những hành động mang tính đối đầu của Trung Quốc trên Biển Đông và Hoa Đông kể từ năm 2008 đã khiến nhiều người kết luận rằng chiến lược dài hạn mà Bắc Kinh đang theo đuổi là tìm cách thay đổi cán cân quyền lực khu vực thông qua các biện pháp quân sự.
Tuy nhiên, nhận định này là quá đơn giản. Trung Quốc đang tiến hành nhiều loại hình chiến tranh phi truyền thống nhằm giành lấy quyền bá chủ khu vực mà không cần phải sử dụng tới sức mạnh quân sự. Một trong những mục tiêu sâu xa nhất của Bắc Kinh là chia rẽ Mỹ và các đồng minh trong khu vực, qua đó biến mình thành thế lực tối cao ở châu Á.
Không những vậy, Trung Quốc còn nuôi tham vọng gây ảnh hưởng đáng kể tới các thể chế quy mô quốc tế rồi trở thành người làm luật (rule-maker), chứ không phải là người thi hành luật (rule-taker).
Winterbottom dẫn một báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ công bố hồi tháng 4/2014, chỉ ra rằng quan điểm truyền thống như trong Binh pháp Tôn Tử về “khuất phục kẻ địch mà không cần đánh” cùng với chiến thuật "du kích" dưới thời Đảng Cộng sản Trung Quốc cầm quyền, đã phác họa rõ nét hơn những chiến lược mà Trung Quốc sử dụng nhằm đạt được mục tiêu dài hạn là đánh bật Mỹ khỏi châu Á. Báo cáo này đã vạch ra ba chiêu thức chiến tranh phi truyền thống, gồm chiến tranh tâm lý, truyền thông và pháp lý, mà Trung Quốc đang sử dụng để đạt được các mục tiêu chiến lược.
Theo Lầu Năm Góc, chiến tranh tâm lý của Bắc Kinh là những nỗ lực gây ảnh hưởng hoặc cản trở khả năng ra quyết định của đối phương, tạo sự nghi ngờ và chống đối lãnh đạo, đánh lừa đối thủ và cố gắng làm nhụt ý chí chiến đấu của đối phương.
Về chiến tranh truyền thông, Trung Quốc liên tục tiến hành các hoạt động gây ảnh hưởng lâu dài đến nhận thức và thái độ của dư luận, tạo ra sự ủng hộ của dư luận trong và ngoài nước.
Cuối cùng, báo cáo cho rằng với chiến tranh pháp lý, Trung Quốc tìm cách khai thác và bóp méo các khía cạnh luật pháp trong nước cũng như quốc tế nhằm đạt được những mục đích chính trị hoặc thương mại.
Trung Quốc muốn tự mình tạo ra luật? Ảnh: Lính hải quân Trung Quốc tập trận ở ngoài khơi Thượng Hải hồi tháng 5/2014
Trung Quốc muốn tự mình tạo ra luật? Ảnh: Lính hải quân Trung Quốc tập trận ở ngoài khơi Thượng Hải hồi tháng 5/2014
Trung Quốc thường xuyên sử dụng các chiêu thức chiến tranh tâm lý và pháp lý khi liều lĩnh làm leo thang căng thẳng ở Biển Hoa Đông và Biển Đông. Kể từ năm 2008, Trung Quốc đã liên tục tăng cường các động thái gây hấn trên những vùng lãnh hải tranh chấp (và cả không tranh chấp).
Bắc Kinh còn táo bạo hơn khi đơn phương tuyên bố thiết lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) mới, bao gồm cả vùng trời phía trên khu vực đang tranh chấp với Nhật Bản, và thành lập cái gọi là "Thành phố Tam Sa" nhằm củng cố hơn tuyên bố chủ quyền với phần lớn Biển Đông - bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Tuy nhiên, theo tác giả người Đức, những chiêu thức của Trung Quốc đang gây ra những tác dụng ngược, mà trước hết là tâm lý chống Trung Quốc ngày càng dâng cao. Dẫn chứng được nêu ra là làn sóng phản đối Trung Quốc tại Nhật Bản cho thấy có tới hơn 90% số người được hỏi có thái độ tiêu cực đối với Trung Quốc.
Đây chính là thất bại của chiêu thức chiến tranh truyền thông mà Trung Quốc tiến hành. Việc siết chặt kiểm soát truyền thông có thể có tác dụng với dư luận trong nước song có vẻ như hoàn toàn vô nghĩa trong môi trường truyền thông bên ngoài.
Không những thế, những căng thẳng gần đây trong khu vực thậm chí còn khiến các cam kết của Washington đối với châu Á ngày càng được chú ý. Nguy cơ từ Trung Quốc cũng khiến các nước trong khu vực ngày càng nghiêm túc hơn trong việc cân nhắc mối liên minh với Mỹ trước nguy cơ bùng phát chiến tranh.
Về dài hạn, Trung Quốc có thể nhấn mạnh vào việc cắt giảm mạnh chi tiêu quốc phòng của Mỹ và tốc độ hiện đại hóa nhanh chóng của quân đội Trung Quốc như là một dấu hiệu cho thấy sự trỗi dậy “không thể tránh được” của Trung Quốc.
Winterbottom kết luận rằng cuối cùng thì các nước trong khu vực cũng phải đối mặt với lựa chọn là đứng về phía Trung Quốc hay đứng về phía các nền dân chủ lớn trong khu vực là Nhật Bản, Ấn Độ và Australia, những nước cũng quyết tâm chống lại Trung Quốc bằng cách chia sẻ các trách nhiệm “bảo vệ” với Mỹ.
  • Đông Triều